Từ khi tiến hành đổi mới đất nước (1986) đến nay, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trở thành một nội dung cốt lõi trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng; là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
1. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị: ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
1.1. Nội hàm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
- Đổi mới
Khái niệm "đổi mới" được Đảng xác định là sự thay đổi về chất trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đổi mới "nhằm kế thừa và phát huy những thành quả và giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, thay đổi, uốn nắn những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa được xác định hoặc hiện nay không phù hợp với tình hình mới; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những giải pháp đúng, phù hợp với cuộc sống để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một giai đoạn mới”[1].
Đổi mới bắt đầu từ tư duy. “Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”[2].
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta không ngừng tìm tòi từ thực tiễn đất nước và thời đại, xác định ngày càng rõ và đầy đủ hơn về nội hàm và mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
- Nội hàm đổi mới kinh tế
Đổi mới kinh tế là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển kinh tế.
Trên quan điểm định hướng của Đại hội VI, Đại hội lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới kinh tế trên các mặt: sắp xếp và củng cố các đơn vị kinh tế, từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường, đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đại hội khẳng định, sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[3].
Đại hội X (2006), Đảng ta tiếp tục chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước theo hướng quản lý bằng pháp luật, hạn chế tối đa can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đáng chú ý là Đại hội X còn đưa ra chủ trương không xem kinh tế tư nhân gắn với chủ nghĩa tư bản, mà lãnh đạo kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa X -3/2008), Đảng ta đã khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế phù hợp với đặc điểm đất nước.
Đại hội XII, đổi mới kinh tế tiếp tục được tập trung vào hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản xuất xã hội; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; “bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế -xã hội”[4].
- Nội hàm đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị được xác định bao gồm đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) Đảng ta bắt đầu dùng khái niệm “hệ thống chính trị”. Khái niệm này cho thấy việc nhận thức rõ hơn về tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và 5 đoàn thể nhân dân là thành viên của hệ thống chính trị.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) nhấn mạnh: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”[5].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua tại Đại hội VII (1991) đã xác định rõ mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”[6].
Trong Cương lĩnh (1991), lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn chỉnh về phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương”[7], “Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[8]. Lần đầu tiên Đảng ta xác định: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[9].
Tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm “Nhà nước pháp quyền”. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo.
Năm 1998, tại Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng ta mở cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Năm 1999, tại Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng ta mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp sửa đổi (năm 2001) khẳng định: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh đổi mới chính trị ở ba yếu tố cơ bản, trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Tiếp nối tinh thần Đại hội XI, Đại hội XII tập trung sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn[10]. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Vai trò, tính chủ động tích cực, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc được phát huy[11].
1.2. Nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Thời kỳ trước đổi mới, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị không đúng đắn, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò của chính trị đối với kinh tế và các lĩnh vực của đời sống xã hội; vi phạm quy luật kinh tế khách quan; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị; nhận thức một cách đơn giản về tác động của chính trị đối với kinh tế; chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh hành chính, chủ quan của các cơ quan quản lý.
Đại hội VI của Đảng xác định phải đổi mới từ kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VI) đã chỉ rõ: "Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới"[12].
Đại hội VII tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Chủ trương này tiếp tục được các Đại hội Đảng thực hiện. Tuy nhiên, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đưa ra chủ trương: "Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[13], với tinh thần phải “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”[14]. Đại hội XI nhấn mạnh: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”[15].
Tổng kết 30 năm đổi mới, nhất là tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”[16], trong đó có thành tựu về giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, Đại hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”[17]. Trên tinh thần đó, Đại hội XII đề mục tiêu chung “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”[18]. Đại hội XII xác định trong điều kiện hiện nay cần tập trung đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị.
Về đổi mới thể chế kinh tế, tập trung vào đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế; thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đổi mới thể chế chính trị, tập trung vào xây dựng Đảng về đạo đức và khắc phục một số hạn chế của công tác cán bộ: tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đổi mới bộ máy đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Sự đồng bộ trong đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị nhằm tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp, làm điều kiện, tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đây là điểm nhận thức mới sâu sắc trong quan niệm của Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị.
1.3 Những nhận thức đã rõ về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
- Nội hàm của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn. Không còn tư duy tuyệt đối hóa, xơ cứng, máy móc và siêu hình, nhấn mạnh một chiều về vai trò của đổi mới về kinh tế hoặc chính trị.
- Tư duy, nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng đầy đủ hơn, phù hợp với thực tiễn sống động của đời sống kinh tế và đời sống xã hội, mang “hơi thở” của cuộc sống.
1.4. Những nhận thức chưa rõ về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
- Quá trình nhận thức mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chậm, thậm chí còn có biểu hiện của sự trì trệ ở một số lĩnh vực, khía cạnh, dẫn đến hạn chế sự phát triển đột phá.
- Tính sáng tạo trong việc nhận thức quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chưa cao.
- Vẫn còn những biểu hiện thiếu quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể trong việc nhận thức quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đôi khi còn có biểu hiện chính trị hóa một số vấn đề kinh tế cụ thể.
1.5. Nguyên nhân những nhận thức đã rõ, những nhận thức chưa rõ trong nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
- Nguyên nhân của những nhận thức đã rõ: Nhân tố có ý nghĩa quyết định cho những thành công trong sự nghiệp đổi mới nói chung, và nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là vai trò lãnh đạo của Đảng. Với bản lĩnh, trí tuệ và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, Đảng ta đã tự đổi mới, tự xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của mình trong sự nghiệp cách mạng. Ngoài ra, sự thay đổi của tình hình kinh tế, chính trị trong nước và thế giới là nguyên nhân khách quan cơ bản cho những thành công trong nhận thức về quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta qua hơn 30 năm đổi mới.
- Nguyên nhân của những nhận thức chưa rõ: tình trạng tha hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nguyên nhân căn bản dẫn đến những hạn chế về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Bên cạnh đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đang gây nhiễu, cản trở việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, hòng mưu toan thay đổi chế độ kinh tế, lật đổ chế độ chính trị ở nước ta; trình độ dân trí còn nhiều hạn chế nên khó thay đổi căn bản tư duy, nhận thức của con người, nhất là các chủ thể chính trị; sự ảnh hưởng ở mức độ nhất định của tư duy truyền thống với nhiều đặc trưng riêng nên quá trình nhận thức về quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chậm.
(Còn tiếp)
PGS.TSKH Nguyễn Văn Đặng
PGS. TS Đặng Quang Định
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần 7 Ban Chấp hành Trung ương, khoá VI. Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1986, tr.12.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập (VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.133.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.25.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr.104.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương, khóa VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.17.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.327.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.229, 229.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.229, 230.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, tr.328.
[10] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.187.
[11] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.190.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 06-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) Kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới, ngày 29-3-1989.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG,H.1996, tr.14.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,H.2006, tr.70.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.99-100.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.65.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.68.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.75.