1. Thành tựu
1.1. Sự phát triển nhận thức về Đảng
(1) Phát triển nhận thức về bản chất của Đảng
Qua gần 40 năm đổi mới đã có sự chuyển biến, phát triển nhận thức có tính bước ngoặt về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu như từ Đại hội IV đến Đại hội VI, Đảng luôn khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam”, đến Đại hội VII, Đảng ta đã có phát triển nhận thức với việc phân biệt bản chất giai cấp của Đảng với vấn đề Đảng của ai? Đại hội VII lần đầu tiên khẳng định “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã có sự phát triển có tính bước ngoặt trong nhận thức về bản chất của Đảng với việc diễn đạt mới về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”[1]. Với diễn đạt mới về Đảng này, đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng luôn mang bản chất của giai cấp công nhân, nhưng trong điều kiện đảng cầm quyền, Đảng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
(2) Phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta đã xác định Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận trong nền tảng tư tưởng của Đảng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[2]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra định nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.”. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta[3].
(3) Bổ sung, phát triển các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng trong tình hình mới. Trên cơ sở các nguyên lý về cách tổ chức, hoạt động của chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong quá trình cầm quyền từ năm 1975 đến này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng Đảng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã bổ sung vào Điều lệ Đảng 2 nguyên tắc: Đảng giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân và Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đưa hệ thống nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng thành 5 nguyên tắc cho phù hợp yêu cầu tổ chức và hoạt động của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền. Đây là thành quả của quá trình hoạt động thực tiễn và phát triển lý luận xây dựng Đảng lâu dài của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là qua 20 năm lãnh đạo đổi mới, đánh dấu bước phát triển nhận thức mới của Đảng về các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
(4) Phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị, gắn liền hai mặt công tác này với nhau. Khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Nhà nước tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thông qua chức năng quản lý Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội vận động thành viên, hội viên, đoàn viên thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình. Tất cả hợp thành một hệ thống, một chỉnh thể thống nhất, không thể có Đảng trong sạch, vững mạnh khi các tổ chức khác trong hệ thống chính trị không trong sạch, vững mạnh. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống thực chất cũng là góp vào xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phải gắn liền xây dựng Đảng với xây dựng hệ thống chính trị, nói cách khác, xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị là một chỉnh thể đi liền với nhau. Điều này thể hiện sự phát triển nhận thức của Đảng về vị trí, mối quan hệ, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng và xây dựng, chỉnh đốn hệ thống chính trị trong điều kiện mới.
(5) Phát triển nhận thức về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; mối quan hệ giai cấp và dân tộc trong điều kiện đảng cầm quyền. Từ kinh nghiệm thực tiễn sau khi trở thành đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước năm 1975 và quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự nhận thức và xử lý phù hợp hơn các vấn đề về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong tình hình mới. Một mặt Đảng vẫn luôn trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, tích cực ủng hộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế theo khả năng của mình, mặt khác, Đảng đã từng bước đổi mới chính sách đối ngoại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức, chính sách đối ngoại của Đảng với việc đề ra đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[4]. Nhờ bước đổi mới mạnh mẽ, kịp thời này đã giúp Đảng ta mở rộng quan hệ quốc tế, phá thế bao vây của của các thế lực thù địch. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng nhấn mạnh hơn việc bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”[5]. Quan điểm chỉ đạo đó thể hiện rõ hơn sự vận dụng và phát triển sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ quốc tế của đảng cộng sản trong điều kiện đảng cầm quyền hiện nay.
(6) Phát triển nhận thức về vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng: Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống đó. Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
(7) Phát triển nhận thức về những nguy cơ lớn đối với Đảng cầm quyền hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
1.2. Sự phát triển nhận thức về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
(1) Phát triển nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Một là, sớm khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt của công cuộc đổi mới. Đại hội VI của Đảng khởi động công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, trong đổi mới tư duy có việc đổi mới tư duy về sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng. Ngay từ Chỉ thị số 13-CT/TW, ngày 21-7-1992 của Ban Bí thư về việc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã xác định: “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”[6] của công cuộc đổi mới. Đây là một sự phát triển nhận thức quan trong của Đảng về vị trí, vai trò của Đảng và xây dựng Đảng.
Hai là, xác định xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh không chỉ để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, mà còn là nhân tố quyết định bảo đảm sự bền vững của Đảng và chế độ.
Ba là, cùng với xây dựng Đảng, nhấn mạnh việc chỉnh đốn Đảng. Hội nghị Trung ương 8 khóa VI (tháng 3-1990) đã đặt yêu cầu phải chỉnh đốn Đảng. Từ đó đến nay, chỉnh đốn Đảng luôn được gắn liền với xây dựng Đảng, thể hiện sự gắn bó giữa “xây” và “chống”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách”[7]
Bốn là, gắn xây dựng Đảng với xây dựng cả hệ thống chính trị. Đại hội XIII của Đảng đặt vấn đề tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cả hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Năm là, nhấn mạnh vấn đề Đảng cầm quyền gắn với tư duy về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
(2) Nhận thức rõ về quy luật Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Ngay từ khi khởi đầu đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát hiện quy luật này và khẳng định: Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Điều lệ Đảng hiện nay quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam... thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng”[8].
(3) Phát triển nhận thức về cấu trúc công tác xây dựng Đảng. Muốn làm tốt công tác xây dựng Đảng phải nhận thức rõ các nội dung cơ bản của công tác này. Quá trình xây dựng Đảng gần 40 năm qua, Đảng đã liên tục quan tâm phát triển nhận thức về vấn đề này và đã có những thành tựu quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã phát triển nhận thức về mối quan hệ 3 mặt công tác xây dựng Đảng, đề ra phương châm, chủ trương, biện pháp cụ thể thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về 3 mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đại hội khẳng định: “Đảng ta quan niệm xây dựng Đảng là một quá trình thống nhất giữa các mặt xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng đặt đúng vị trí của mỗi mặt ấy, đồng thời kết hợp chặt chẽ các mặt ấy với nhau”[9]. Tuy nhiên, từ yêu cầu của thực tiễn xây dựng Đảng trong quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã phát triển vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức thành một nội dung, nhiệm vụ xây dựng đảng mới. Đến Đại hội XIII, do vai trò quan trọng của cán bộ và yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới, Đảng ta đã phát triển việc xây dựng đội ngũ cán bộ thành một mặt chủ yếu của xây dựng đảng. Vì vậy, từ cấu trúc công tác xây dựng Đảng với 3 nhiệm vụ: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, qua quá trình 40 năm xây dựng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển cấu trúc công tác xây dựng Đảng thành 5 mặt cơ bản: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây là một thành tựu của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới qua 40 năm.
(4) Phát triển nhận thức trong xây dựng Đảng về chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đưa xây dựng Đảng về chính trị lên vị trí hàng đầu với khẳng định: “Đảng ta coi việc xây dựng Đảng về chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”[10]. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ cơ bản của xây dựng Đảng về chính trị trong thời kỳ đổi mới là: “...hoàn thiện đường lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện”[11]. Đến Đại hội XIII, Đảng đã khái quát nguyên tắc xây dựng Đảng về chính trị thành hệ quan điểm 4 kiên định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[12]. Cần khẳng định đây là những thành tựu quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng.
(5) Phát triển nhận thức trong xây dựng Đảng về tư tưởng: Quá trình xây dựng Đảng 40 năm qua, Đảng đã nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò xây dựng Đảng về tư tưởng trong điều kiện đảng cầm quyền. Qua thực tiễn đã xác định rõ tổng kết thực tiễn là cơ sở hàng đầu để nghiên cứu, phát triển lý luận của Đảng. Các nguyên tắc công tác tư tưởng trong điều kiện đảng cầm quyền đã được phát triển từ 3 nguyên tắc (tính đảng, tính khoa học, tính thống nhất giữa lý luận với thực tiễn) lên thành 6 nguyên tắc: Tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời và hiệu quả[13].
(6) Phát triển nhận thức trong xây dựng Đảng về đạo đức: Ngay từ khi thành lập Đảng đến nay, Đảng ta luôn quan tâm công tác xây dựng Đảng về đạo đức nhưng vẫn coi là một nội dung trong xây dựng Đảng về tư tưởng. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức, quan điểm của Đảng ta trong xây dựng Đảng về đạo đức ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) đã đề ra mục tiêu: "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức"[14]. Như vậy, xây dựng Đảng về đạo đức đã trở thành một điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII, một nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách mới của công tác xây dựng Đảng. Việc đưa xây dựng Đảng về đạo đức thành một nội dung chủ yếu trong xây dựng Đảng không chỉ là yêu cầu của thực tiễn mà còn là một thành tựu lý luận về xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
(7) Phát triển nhận thức trong xây dựng Đảng về tổ chức: Đảng khẳng định xây dựng Đảng là một quá trình thống nhất giữa các mặt xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó Đảng rất coi trọng xây dựng Đảng về tổ chức. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, xây dựng Đảng về tổ chức được đặt ra là một trong 10 nhiệm vụ, giải pháp lớn của công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ XIII. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XII) đã lần đầu tiên xác định nguyên tắc chỉ đạo xây dựng Đảng về tổ chức: “Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị”[15]. Đây là một thành tựu quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng trong xây dựng Đảng về tổ chức.
(8) Phát triển nhận thức trong xây dựng Đảng về cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ: Năm 1997, lần đầu tiên, Đảng đã ban hành Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược cán bộ xác định hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ công tác cán bộ, đánh dấu bước phát triển lớn lý luận về công tác cán bộ và xây dựng Đảng về cán bộ.
Qua thực tiễn công tác cán bộ 40 năm qua, Đảng nhận thức rõ hơn khái niệm cán bộ, các loại cán bộ; công tác cán bộ, các khâu công tác cán bộ, các quan điểm chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ. Cùng với chủ trương đẩy mạnh xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ, Đảng đã đề ra chủ trương xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ. Trong đánh giá cán bộ đã phát triển quan điểm đánh giá cán bộ: Từ chủ yếu cấp ủy đánh giá sang kết hợp nhiều kênh đánh giá; từ tiêu chuẩn sang tiêu chí đánh giá theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Đã phát triển quan điểm về quy hoạch, luân chuyển, bố trí cán bộ: Đề ra quan điểm, chủ trương mới về quy hoạch, luân chuyển, bố trí cán bộ, như: coi luân chuyển cán bộ là khâu đột phá để phá vỡ tình trạng trì trệ, khép kín trong công tác cán bộ; bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý không quá 2 nhiệm kỳ; bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt không phải là người địa phương...
Phát triển nhận thức về tuyển chọn cán bộ với chủ trương đổi mới các hình thức tuyển chọn cán bộ, như: thi tuyển, bầu cử, bổ nhiệm, đề cử… Bổ sung vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Về công tác bảo vệ chính trị nội bộ: đã phát triển khái niệm Công tác bảo vệ Đảng thành công tác bảo vệ chính trị nội bộ từ Chỉ thị 23-CT/TW, ngày 12-6-1993 của Bộ Chính trị khoá VII về “Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới”. Phát triển các nguyên tắc công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng: Trước đây mới chỉ nêu các phương châm trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhưng đến Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28/2/2018 của Bộ Chính trị khóa XII “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng” đã đề ra 6 nguyên tắc chỉ đạo công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
(9) Phát triển nhận thức trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên:
Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng: Đã phát triển quan niệm, cách xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Trước sự phát triển mạnh mẽ các đơn vị cơ sở là các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước, Đại hội XI đã thay đổi chủ trương về cách lập tổ chức cơ sở đảng, bỏ quy định cứ đơn vị cơ sở có 3 đảng viên chính thức trở lên thì lập tổ chức cơ sở đảng, mà giao cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định cụ thể. Từ Đại hội XIII Đảng đã có chủ trương nghiên cứu, hướng dẫn thực hiện thí điểm việc tổ chức sinh hoạt đảng theo tổ đảng ở những chi bộ có đông đảng viên.
Về đảng viên và công tác đảng viên: Một phát triển nhận thức quan trọng về công tác đảng viên trong 40 năm qua là về tiêu chuẩn đảng viên trong điều kiện mới với việc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân. Đại hội khẳng định: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chúng ta không xem kinh tế tư nhân là gắn với chủ nghĩa tư bản, mà lãnh đạo kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đảng viên có thể làm kinh tế tư nhân trên cơ sở gương mẫu chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương[16].
Trong công tác đảng viên 40 năm qua còn có nhiều nhận thức mới và đổi mới về chủ trương, nhiệm vụ, nội dung, cách tiến hành, từ kết nạp đảng viên đến quản lý, phân công nhiệm vụ, đánh giá, phân loại đảng viên.
(10) Phát triển nhận thức về công tác dân vận và mối liên hệ mật thiết Đảng với nhân dân: Phát triển các quan điểm chỉ đạo công tác dân vận: Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân xác định 4 quan điểm chỉ đạo: Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; Bốn là, công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đến Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới đã chỉnh sửa, phát triển thành 5 quan điểm. Quá trình đổi mới, Đảng đã phát triển, hoàn thiện nhận thức về cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[17].
(11) Phát triển nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng: Trong 40 năm qua, nhận thức lý luận của Đảng về khái niệm kiểm tra, giám sát; quan điểm chỉ đạo, nguyên tắc, phương châm công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đã liên tục được phát triển, hoàn thiện, thu được kết quả tích cực. Từ Đại hội IX (2001), Đảng đã chuyển trọng tâm công tác kiểm tra sang kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra. Đại hội X (2006) đã bổ sung thêm công tác giám sát gắn liền công tác kiểm tra. Đảng đã đề ra chủ trương công khai kết quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật; chủ trương tăng thẩm quyền cho cơ quan kiểm tra của Đảng; đổi mới quan điểm, chủ trương về công tác kỷ luật Đảng phù hợp với yêu cầu xây dựng Đảng trong điều kiện mới và yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều kiện mới.
(12) Phát triển nhận thức về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị
Về kiểm soát quyền lực: Tại Ðại hội XI, lần đầu tiên khái niệm kiểm soát quyền lực chính thức được ghi nhận trong quan điểm chỉ đạo quá trình đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp"[18]. Ðặc biệt, đến Ðại hội XII, vấn đề kiểm soát quyền lực đã trở thành một nội dung quan trọng được nhấn mạnh. Văn kiện Ðại hội chỉ rõ: “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”[19].
Về phòng, chống tham nhũng, lãng phí: Đảng đã có sự phát triển nhận thức về vị trí, vai trò công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Từ Đại hội XII, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trở thành một nhiệm vụ chủ yếu, trong tâm của công tác xây dựng Đảng. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được coi là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
(13) Phát triển nhận thức về phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng. Từ nhận thức còn giản đơn về phương thức lãnh đạo, 40 năm qua, nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền đã có bước tiến lớn. Năm 1989, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã sử dụng khái niệm phương thức lãnh đạo thay cho các khái niệm “phương pháp lãnh đạo”, “tác phong công tác”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định cụ thể phương thức lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh hiện nay xác định: Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiêm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Cùng với sự phát triển nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo, trong quá trình đổi mới, Đảng đã có nhận thức rõ hơn về đảng cầm quyền, phương thức cầm quyền của Đảng. Đại hội XII (2016) của Đảng chủ trương: "Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”[20]. Đây là lần đầu tiên, vấn đề đảng cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền được Đảng ta chính thức đề cập trong văn kiện Đảng, thể hiện sự phát triển nhận thức quan trọng của Đảng về vấn đề phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền.
2. Hạn chế, bất cập
Về phát triển lý luận về đảng cầm quyền: Lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đến nay chưa đủ rõ cả về khái niệm, nội dung, mô hình, phương thức cầm quyền. Nhận thức về dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền còn hạn chế. Chậm cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Trong phát triển lý luận về bản chất của Đảng: Nghiên cứu về phát triển mới trong diễn đạt về Đảng: Đảng “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” chưa nhiều, chưa làm rõ một cách hệ thống, sâu sắc cơ sở lý luận, thực tiễn; nội dung, yêu cầu của vấn đề này.
Trong phát triển lý luận về nền tảng tư tưởng của Đảng: Kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn dàn trải, chưa gắn kết chặt chẽ với những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn nhiều việc phải làm. Nghiên cứu về hình hình thế giới, khu vực và vấn đề thời đại chưa sâu sắc, toàn diện. Nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới chưa được nhiều. Kết quả thực hiện nhiệm vụ cung cấp luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, quan điểm của Đảng còn hạn chế, một số vấn đề thực tiễn đặt ra chưa được làm rõ về lý luận.
Trong phát triển lý luận về các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng: Việc nghiên cứu làm rõ về lý luận các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng trong điều kiện mới chưa đáp ứng yêu cầu. Một số nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được làm rõ, như cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong chế độ "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách". Nội dung nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật có nhiều vấn đề còn ở mức nhận thức đại cương.
Về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng: Nội dung và phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện một đảng cầm quyền nói chung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và từng tổ chức trong hệ thống chính trị nói riêng vẫn còn những vấn đề chưa rõ, chưa được cụ thể hóa.
Trong phát triển lý luận về chủ nghĩa quốc tế của GCCN khi đảng cộng sản cầm quyền: Nghiên cứu, luận giải những biến dạng và xu hướng phát triển của chủ nghĩa quốc tế của GCCN khi đảng cộng sản cầm quyền chưa nhiều.
Nghiên cứu xây dựng Đảng về chính trị còn ít, nên nhận thức về nội dung, phương thức xây dựng Đảng về chính trị chưa thật sâu sắc, đầy đủ. Tuy công tác tư tưởng là hoạt động chủ yếu để xây dựng Đảng về tư tưởng được nghiên cứu rất sâu rộng, nhưng nghiên cứu chuyên biệt nội dung, phương thức xây dựng Đảng về tư tưởng ít được quan tâm, nên không ít trường hợp lẫn lộn giữa xây dựng Đảng về tư tưởng và công tác tư tưởng, lúng túng trong nhận thức, nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn. Nghiên cứu xây dựng Đảng về đạo đức được triển khai khá mạnh sau Đại hội XII, tuy nhiên nội dung, phương thức xây dựng Đảng về đạo đức đến nay chưa thật thống nhất.
Việc nghiên cứu về mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với điều kiện mới còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, còn một số ít nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng[21]. Việc nghiên cứu xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ theo hướng cụ thể, lượng hóa còn chậm, nhất là tiêu chí đánh giá về phẩm chất chính trị, đạo đức.
Trong công tác đảng viên, việc nghiên cứu về tiêu chuẩn đảng viên, quản lý đảng viên trong điều kiện mới, đảng viên đi làm ăn xa chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Vấn đề phát triển đảng viên là doanh nhân còn lúng túng về lý luận. Nghiên cứu về mô hình tổ chức cơ sở đảng để khắc phục tình trạng cơ sở trong cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu; nghiên cứu về đảng bộ bộ phận chưa giúp xây dựng các quy định cụ thể về hình thức tổ chức đảng này; nghiên cứu xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Việc nghiên cứu, cụ thể hóa, thể chế hóa cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Một số vấn đề lý luận, quy định về bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới chưa đáp ứng yêu cầu, có vấn đề còn lúng túng, như quan niệm về vấn đề lịch sử chính trị.
Lý luận, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với tổ chức và người có chức vụ, quyền hạn chưa đủ rõ, mạnh.
PGS,TS Nguyễn Văn Giang
Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.4.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.253-254.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr88
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.120.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập2, Nxb chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.153.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 52, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, tr. 253.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập2, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 227.
[8] Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.6.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1971, tr.87-88.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1971, tr.88.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.281.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập1, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.109.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập2, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.233.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.202.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khóa XII, Nxb CTQG, HN, 2017, tr.43-44.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.358-359.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập1, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.173.
[18] Ðảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.247
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.203.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.217.
[21] Qua rà soát khi xây dựng Văn kiện Đại hội XIII (2020), còn 29 nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng về tổ chức và cán bộ