Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Thời cơ và thách thức đối với quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong thời gian tới

Ngày phát hành: 10/12/2023 Lượt xem 390

                                                       

 

Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội và an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội… là một trong những định hướng quan trọng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được xác định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Trong hơn nửa nhiệm kỳ qua, mặc dù gặp bất lợi do ảnh hưởng của Đại dịch covid-19, chúng ta vẫn bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là một trong những kết quả được thế giới đánh giá cao. Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện tốt định hướng phát triển xã hội trên, trong nửa nhiệm kỳ còn lại, trước biến đổi của môi trường phát triển khó lường và nhiều rủi ro, đòi hỏi có hệ giải pháp đồng bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp để thực hiện tốt quản lý phát triển xã hội, bảo đảm ổn định và phát triển an sinh xã hội.

 

1. Thời cơ và thách thức đối với quản lý phát triển xã hội

 

Trong nửa nhiệm kỳ qua các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị ngày càng nhận thức đúng đắn hơn và hành động tích cực, có hiệu quả hơn đối với vấn đề quản lý phát triển xã hội theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Phát triển toàn diện, đồng bộ kinh tế và xã hội; kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, từng bước đi. “An sinh xã hội được bảo đảm; đời sống nhân dân được cải thiện; đã triển khai thực hiện kịp thời các chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với người có công với cách mạng; chính sách bảo trợ xã hội, và các chính sách, biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, người dân vùng sâu, vùng xa có hoàn cảnh khó khăn và bị ảnh hưởng nặng bởi đại dịch COVID-19”[1]. Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch Covid-19, phát huy truyền thống "thương người như thể thương thân" của dân tộc ta và tính ưu việt của chế độ trong tạo nguồn sức mạnh đoàn kết, đồng lòng góp phần vượt qua khó khăn trong đại dịch và nhanh chóng chuyển sang khôi phục sản xuất, đáp ứng yêu cầu đời sống xã hội.

 

Tuy nhiên, quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. “Chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội vẫn còn bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém và nhìn chung chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững”[2]. Trong những năm tới đây nhiệm vụ quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội còn nặng nề, không kém phần phức tạp, nhất là trước biến đổi bất định, khó lường của tình hình quốc tế, tạo ra cả cơ hội và thách thức đối với thực hiện các mục tiêu xã hội và việc quản lý phát triển xã hội bền vững.

 

Thứ nhất, sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới vừa qua đã đưa Việt Nam từ nước nghèo trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, năm 2000, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 498,58 USD, xếp thứ 7/11 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 173/200 trên thế giới. Đến năm 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng lên đạt khoảng 3.718 USD, xếp thứ 6/11 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 124 trên thế giới. GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2022 đạt khoảng 4.162,94 USD, xếp thứ 117 trên thế giới[3] . Như vậy, GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2022 tăng nhảy 7 bậc so với năm 2021 và 56 bậc so với năm 2000 trên quy mô thế giới. Định hướng đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng XHCN. Bối cảnh phát triển kinh tế mở ra cơ hội thuận lợi cho Việt Nam giải quyết tốt hơn cả về số lượng và chất lượng các mục tiêu xã hội. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập mở cửa cho phép Việt Nam tiếp nhận kinh nghiệm và thành tựu mới trong xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân.

 

Thứ hai, cùng với quá trình phát triển kinh tế là quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá mạnh, đôi khi vượt trước năng lực của quản lý xã hội, đặt ra không ít vấn đề xã hội như nhà ở, vệ sinh an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường, quá tải hạ tầng, tình trạng thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, rủi ro và xung đột lao động, xung đột xã hội, nhất là xung quanh vấn đề đất đai, đòi hỏi không chỉ cần những chính sách xã hội kịp thời mà vấn đề quan trọng hơn là quản lý phát triển xã hội, nếu riêng nhà nước không đủ nguồn lực giải quyết kịp thời, hiệu quả, cần có sự tham gia, phối hợp của các chủ thể như doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Muốn vậy phải có cơ chế, chính sách quản lý phát triển xã hội phù hợp, một mặt, khuyến khích sự tham gia, mặt khác, đề cao yêu cầu về trách nhiệm của các chủ thể.

 

Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với quản lý phát triển xã hội. Những thành tựu khoa học công nghệ cho phép hiện đại hoá các công cụ quản lý, xây dựng cơ sở dữ liệu số… tạo thuận lợi cho hoạt động quản lý phát triển xã hội. Song bên cạnh đó, các mô hình, phương thức sản xuất mới tạo ra các quan hệ mới trong sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, tác động đến quan hệ gia đình, cộng đồng, trong ứng xử với môi trường, thậm chí có cả hoạt động lợi dụng thành tựu khoa học công nghệ làm nảy sinh các vấn đề xã hội trong giao dịch, các tệ nạn, tội phạm … đòi hỏi phải tăng cường quản lý phát triển xã hội.

 

Thứ tư, sư biến đổi của cơ cấu xã hội như sự gia tăng tầng lớp trung lưu, tình trạng già hoá dân số, đặt ra vấn đề xã hội liên quan sự biến đổi này, nhất là chính sách với người cao tuổi, vấn đề bảo hiểm hưu trí, chăm sóc y tế, trợ giúp xã hội… Vấn đề thay đổi kết cấu ngành nghề trong nền kinh tế cũng đặt ra yêu cầu về đào tạo, đào tạo lại… đều cần có chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp.

 

Thứ năm, biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh phi truyền thống đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, đặt quản lý phát triển xã hội trước thách thức mới, đôi khi các phương cách truyền thống không còn hợp lý. Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng mạnh của biến đổi khí hậu, tình trạng sạt đất, rủi ro thiên tai và thay đổi môi trường nước làm mất sinh kế. Biến đổi khí hậu làm giảm hoặc mất đi các nguồn lực, điều kiện để phát triển bình thường; làm gia tăng nhiều vấn đề xã hội, đòi hỏi phải xây dựng lưới an sinh xã hội cho người dân theo hướng đa tầng, bao trùm, hiệu quả.

Việt Nam đang là quốc gia có sự phát triển kinh tế nhanh và hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng song hành với mức sống được cải thiện và tỷ lệ nghèo đói ngày một giảm, an sinh xã hội ngày càng tiến bộ. Trong thời gian tới đây, uản lý phát triển xã hội cần hướng đến, bảo đảm phát triển hài hòa cơ cấu xã hội, phòng ngừa và kịp thời giải quyết thỏa đáng xung đột xã hội, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho mọi giai tầng tham gia đóng góp vào sự phát triển và thụ hưởng công bằng thành quả tạo ra. Bên cạnh đó, quản lý phát triển xã hội phải kiểm soát được các biến động xã hội như tình trạng phân tầng, di động xã hội…góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Các cơ chế, chính sách quản lý phát triển xã hội phải tạo điều kiện huy động các nguồn lực xã hội, thúc đẩy hoàn thiện, ổn định và phát triển hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cũng như góp phần bảo đảm hòa nhập và tái hòa nhập xã hội với những người không may mắn, yếu thế, để không ai bị bỏ lại phía sau. Trước những thách thức và yêu cầu đặt ra trên chặng đường phát triển tới đây, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ để tăng cường quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã, thực hiện tốt mục tiêu xã hội đặt ra tại Đại hội XIII của Đảng.

 

2. Một số giải pháp chủ yếu   

 

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững

Thống nhất nhận thức về đặc điểm, tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam, đó là: đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và vai trò làm chủ của người dân, lấy người dân làm trung tâm; gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế và xã hội, thực hiện ngay từ đầu, trong từng bước đi, từng chính sách phát triển; kế thừa, phát huy các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại; phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xác định rõ các nguyên tắc thiết kế, thực hiện chính sách xã hội trong từng giai đoạn, trước mắt đó là: (i) Xác định rõ tỷ lệ, nguồn lực cho thực hiện chính sách xã hội/GDP từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. (ii) Xây dựng lưới an sinh xã hội đa tầng với các chuẩn cụ thể, tiệm cận với xu hướng chung của thế giới. (iii) Đảm bảo yêu cầu về đối tượng thụ hưởng, diện bao phủ về số lượng và chuyển dần sang chất lượng an sinh xã hội. (iv) Chuyển từ xây dựng, thực hiện chính sách xã hội theo đối tượng, lĩnh vực sang khung chính sách an ninh xã hội, an ninh con người. (v) Xử lý hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường, xã hội theo phương châm không để ai bị bỏ lại phía sau.

 

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò quản lý phát triển xã hội cũng như của chính sách xã hội và trách nhiệm tham gia quản lý phát triển xã hội đối với các cấp, các ngành và với mọi người dân nhằm tạo sự đồng thuận trong huy động các nguồn lực cũng như trong thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Đẩy mạnh các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc, giúp đỡ người có công và các đối tượng yếu thế, cùng với đó khuyến khích hình thành các cơ chế tự nguyện, tự quản của cộng đồng trong tăng cường quản lý phát triển xã hội. Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tính định hướng xã hội chủ nghĩa của chính sách xã hội, một bộ phận cấu thành lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

 

Thứ hai, thiết kế và xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng hiện đại, bao trùm, toàn diện, bền vững, gắn kết và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế nhằm bảo đảm tính hiện thực và bền vững của chính sách

Tập trung đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng vào phát triển bền vững theo chiều sâu dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm giảm bớt phát sinh các vấn đề xã hội, môi trường. Nhà nước quản lý thống nhất việc quản lý phát triển xã hội theo hướng chia sẻ giữa Nhà nước - xã hội - người dân và bảo đảm nguyên tắc an sinh - an dân và an cư trong từng giai đoạn thực hiện. Các hợp phần của chính sách xã hội được tiếp tục hoàn thiện theo hướng đồng bộ có tính hiện đại, tương thích với thông lệ quốc tế, có thể linh hoạt điều chỉnh những thay đổi căn bản trong từng giai đoạn phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế cũng như có khả năng ứng phó các tác động của dịch chuyển kinh tế, chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, địch họa trên diện rộng. Cùng với chính sách người có công và hệ thống an sinh xã hội, cần chú ý mở rộng, kết hợp đồng bộ các chính sách xã hội khác gắn liền với những vấn đề phát sinh mới trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra như vấn đề phân hoá, biến đổi cơ cấu xã hội, quan hệ gia đình, giai tầng, dân tộc, xung đột xã hội… Các chính sách xã hội cụ thể cần được thiết kế gắn bó, liên thông với nhau đi liền với tăng cường quản lý phát triển xã hội nhằm tiết kiệm nguồn lực, nâng cao hiệu quả chính sách xã hội. Cùng với chính sách xã hội với các đối tượng, cần nghiên cứu thiết kế chính sách xã hội đặc thù theo vùng và khu vực nhằm giảm thiểu chênh lệch trong thụ hưởng thành quả tăng trưởng, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong chính sách xã hội.

 

Thứ ba, tiếp tục đổi mới một số chính sách mang tính chất “nòng cốt” trong chính sách xã hội 

Trước mắt thực hiện sớm cải cách chính sách tiền lương, phát huy được đúng giá trị “tiền lương thể hiện bằng giá cả và giá trị sức lao động trên thị trường”; phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt, hiện đại, đầy đủ, bền vững, hội nhập quốc tế, nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, tập trung phát triển lao động có kỹ năng, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao, tăng cường cơ hội “tiếp cận bình đẳng” thị trường lao động cho nhóm đối tượng đặc thù; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế theo hướng bao phủ toàn bộ lực lượng lao động, thúc đẩy chuyển dịch người lao động từ phi chính thức sang chính thức để họ được bảo vệ bởi hệ thống bảo hiểm[4]; đẩy mạnh thực hiện bảo hiểm bắt buộc gắn với đổi mới cung cấp đa dạng các sản phẩm bảo hiểm xã hội. Phát huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp; chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp và duy trì việc làm bền vững cho người lao động. Mở rộng diện thụ hưởng bảo hiểm xã hội thông qua tích hợp các cấu phần bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội của hệ thống an sinh xã hội để có thể gắn kết hiệu quả chế độ hưu trí và trợ cấp xã hội cho người cao tuổi từ các nguồn đóng góp và phi đóng góp, từ đó hướng tới bảo hiểm toàn dân.

 

Tập trung xây dựng và phát triển mô hình trợ giúp xã hội bao trùm, toàn diện, bao phủ tất cả các đối tượng gặp rủi ro theo vòng đời và các loại hình rủi ro bất khả kháng khác bao gồm cả việc trợ giúp người nghèo, hộ nghèo, người cận nghèo, hộ cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ít người, đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở các xã đặc biệt khó khăn. Trợ giúp xã hội đa dạng về mô hình, toàn diện cả vật chất và tinh thần phù hợp với vòng đời con người, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân; bảo đảm người dân gặp rủi ro được hỗ trợ kịp thời từ Nhà nước, các tổ chức và cộng đồng. Phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội, chăm sóc các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đáp ứng nhu cầu chăm sóc dài hạn đối với người cao tuổi, ứng phó hiệu quả với quá trình già hóa dân số. Gắn kết chăm sóc xã hội với chăm sóc về y tế tại cộng đồng và cơ sở trợ giúp xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Nâng cao chất lượng giáo dục, y tế thiết yếu, cần cụ thể hoá lộ trình tiến tới miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở. Đảm bảo mọi người dân đều được tiếp cận công bằng về các dịch vụ cơ bản thông tin và nhà ở tối thiểu, đều được hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng trên mọi phương diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

 

Thứ tư, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý phát triển xã hội theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quản trị quốc gia hiện đại

Tăng cường quản lý phát triển xã hội bằng pháp luật và dựa trên nền tảng dân chủ, kỷ cương, có sự tham gia của người dân theo nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm, công bằng. Tăng cường tính chủ động của địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, cộng đồng dân cư trong thực hiện chính sách xã hội. Thiết kế lại hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội. Tích hợp các chính sách, các chế độ hiện đang thực hiện có tính manh mún, rời rạc hướng tới đáp ứng yêu cầu quản lý các dịch vụ xã hội trong bối cảnh kinh tế số. Tiếp tục có những thay đổi trong cơ chế cung cấp dịch vụ công hướng đến nguyên tắc chủ đạo: Nhà nước quản lý, điều hành và giám sát các bên cùng tham gia cung cấp dịch vụ công theo các tiêu chuẩn, tiêu chí giám sát đánh giá rõ ràng và minh bạch, trong đó tăng cường hợp tác công tư trong cung cấp dịch vụ xã hội. Xây dựng dịch vụ xã hội công theo hướng phân tầng từ cơ bản đến chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của các nhóm xã hội có khả năng đồng chi trả và chi trả dịch vụ. Xây dựng cơ chế đối thoại giữa chính phủ, các nhà cung cấp dịch vụ và đại diện cộng đồng để xác định các vấn đề nảy sinh và giải quyết kịp thời, hiệu quả. Tăng cường vai trò của đội ngũ công tác xã hội, nhất là đối với các dịch vụ công tác xã hội với trẻ em, người khuyết tật, người già,…

 

Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp, có kỹ năng và nhiệt huyết đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý phát triển xã hội

Nguồn nhân lực mang tính quyết định trong xây dựng và triển khai hệ thống chính sách xã hội. Cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao coi trọng cả chuyên môn và phẩm chất chính trị, trách nhiệm cống hiến. Thực hiện chuyển đổi số một cách sâu rộng, toàn diện trong xây dựng và tổ chức quản lý phát triển xã hội: thực hiện số hóa hệ thống quản lý, giám sát đánh giá các chương trình an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, quản lý và điều hành hệ hệ thống cơ sở dữ liệu cá nhân và đối tượng thụ hưởng chính sách theo các thông tin định danh. Kiện toàn và/hoặc nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu và cập nhật thông tin thường xuyên, định kỳ trên nền tảng cơ sở quản lý dữ liệu đối tượng hiện có để có thể chia sẻ thông tin cho các mục tiêu cụ thể (đối chiếu, xác thực, mở tài khoản…). Việc chuẩn hóa thông tin đối tượng thụ hưởng cũng là cơ sở để thực hiện liên thông, chia sẻ (có phân cấp) thông tin về đối tượng thụ hưởng thuộc các chương trình khác nhau với các bên liên quan làm cơ sở thúc đẩy chính phủ điện tử, giao dịch trực tuyến.

 

Thứ sáu, huy động các nguồn lực của xã hội cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội.

Nguồn lực nhà nước đóng vai trò chủ đạo bảo đảm thực hiện chính sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá huy động nguồn lực cho việc thực hiện chính sách xã hội. Nhà nước cần xây dựng chiến lược tài chính để thực hiện một một hệ thống rộng hơn, phức tạp hơn về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội[5]. Kết hợp nguồn lực nhà nước với nguồn lực doanh nghiệp và xã hội theo hướng đa dạng hóa các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của các tầng lớp dân cư, nhóm xã hội phù hợp với khả năng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Một định hướng quan trọng là Nhà nước tiếp tục mở rộng phạm vi lĩnh vực cho phép tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ, bao gồm cả việc chuyển một số hoạt động từ cơ chế hành chính công sang dịch vụ công (như hoạt động thẩm định, thẩm duyệt, kiểm tra của cơ quan nhà nước) và bắt buộc đấu thầu, đấu giá các nguồn tài nguyên, cơ hội kinh doanh và nguồn chi ngân sách.

 

Thứ bảy, gắn kết bảo đảm an sinh xã hội với phát huy yếu tố văn hóa trong thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội

 Đi liền với xây dựng và thực hiện hệ thống an sinh xã hội đa tầng, hiện đại dựa trên cách tiếp cận vòng đời, bao trùm, bền vững cần kết hợp với các chính sách động viên, tôn vinh đối với các chủ thể tích cực trong quản lý phát triển xã hội, chủ động thực hiện chính sách xã hội và các đối tượng chính sách xã hội trong việc nâng cao năng lực tự an sinh, qua đó tạo động lực trong thực hiện các chính sách xã hội, nhất là sự chủ động vươn lên của các đối tượng chính sách. Trong quản lý phát triển xã hội không chỉ chú trọng mở rộng độ bao phủ của lưới an sinh, gia tăng mức bảo đảm, hỗ trợ vật chất mà chú ý cả khía cạnh văn hoá tinh thần để mọi người cảm nhận được thực sự không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình hoạch định, tổ chức thực hiện các chính sách xã hội.

 

Thứ tám, tăng cường hợp tác quốc tế về chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững

Thông qua hợp tác quốc tế để tiếp thu, học tập các kinh nghiệm trong thiết kế hệ thống chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng phổ cập, thông lệ tốt của thế giới, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ nguồn lực, hỗ trợ đào tạo và cùng nhau giải quyết các vấn đề xã hội có tính khu vực và toàn cầu liên quan đến các quốc gia. Chú trọng gắn kết và phối hợp tốt hơn với các tổ chức quốc tế ở Việt Nam trong tham vấn, xây dựng và triển khai chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội.

 

Tóm lại, để thực hiện tốt quản lý phát triển xã hội, ổn định và phát triển hệ thống an sinh xã hội cần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, phát huy nguồn lực của Nhà nước, thị trường/doanh nghiệp và xã hội và tổ chức thực hiện hiệu quả, tranh thủ cơ hội, nhất là sự giúp đỡ quốc tế, khắc phục khó khăn, thách thức do hạn chế nguồn lực cũng như thách thức từ sự biến đổi của môi trường phát triển đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Quản lý xã hội hiệu quả, bảo đảm ổn định và phát triển an sinh xã hội sẽ đưa lại ổn định xã hội, tạo cơ sở cho đẩy mạnh phát triển sản xuất, tạo nguồn lực thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần thực hiện thành công những nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đề ra.

 

 PGS.TS. Vũ Văn Hà,

Thư ký khoa học HĐLLTW

 

 

 

Tài liệu tham khảo:

1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021.

2. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 7 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo Chinhphu.vn, ngày 18/5/2023

3. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-be-mac-hoi-nghi-trung-uong-8-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-11923100816244722.htm, ngày 9/10/2023

4. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 | Ban Chấp hành Trung ương Đảng (dangcongsan.vn), ngày 22/3/2021

5. PGS.TS. Vũ Văn Hà: Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, https://hdll.vn/, ngày 8/10/2022.

6. Nguyễn Thị Lan và Lương Quỳnh Hoa:  Những vấn đề mới về quản lý phát triển xã hội từ Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, http://lyluanchinhtri.vn/, ngày 23/9/2021

7. Ngô Thắng Lợi: Quản lý phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 6/2021



[1] Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 7 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo https:// baochinhphu.vn/ phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-be-mac-hoi-nghi-trung-uong-giua-nhiem-ky-10223051717175679.htm, ngày 18/5/2023

[2] Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-be-mac-hoi-nghi-trung-uong-8-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-11923100816244722.htm, ngày 9/10/2023

[4] Việc bảo đảm an sinh xã hội đối với khu vực phi chính thức ở Việt Nam không chỉ là mở rộng khu vực chính thức thông qua các chính sách khuyến khich các doanh nghiệp phát triển, các hộ kinh doanh nhỏ, cá thể chuyển sang mô hình doanh nghiệp, mà trước mắt cần thực hiện bắt buộc tham gia bảo hiểm với một số đối tượng có thu nhập mà nhà nước có thể quản lý như đối với các hộ có đăng ký kinh doanh, lái xe hợp đồng, bán hàng trực tuyến…Đi liền với đó, nghiên cứu đổi mới chế độ đóng và thụ hưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng nhà nước tăng mức hỗ trợ một phần phí bảo hiểm và cho phép người tham gia bảo hiểm tự nguyện được hưởng đầy đủ các chế độ bảo hiểm; hoặc triển khai mô hình tự chọn đóng và thụ hưởng lương hưu gồm 2 phần, một phần với tài khoản bảo hiểm cá nhân do đóng góp của người lao động và một phần được phân phối bởi quỹ bảo hiểm xã hội với hình thức thụ hưởng theo mức xác định. Nếu người tham gia bảo hiểm rút bảo biểm một lần thì chỉ được hưởng phần từ tài khoản bảo hiểm các nhân do người lao động đóng góp.

[5] Nếu không cải thiện nguồn thu thì sẽ không thể đảm bảo đủ kinh phí chi cho đổi mới hệ thống đến năm 2030 do phần lớn khoản chi tăng lên sẽ được lấy từ ngân sách nhà nước và như vậy, nguồn ngân sách sẽ là nguồn chi chủ yếu phần lớn cho các khoản gia tăng chi đảm bảo xã hội cho các giai đoạn sau.  

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết