1. Khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là mô hình kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp với thông lệ và xu hướng phát triển chung của thời đại.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, hai yếu tố mâu thuẫn, trái ngược nhau như nhận thức, quan điểm của một số người, mà là một mô hình kinh tế phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam và xu hướng của thời đại. Sai lầm của một số người có quan điểm cho rằng không thể có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, rằng định hướng xã hội chủ nghĩa cản trở, thủ tiêu sự phát triển của kinh tế thị trường là bắt nguồn từ chỗ đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho rằng chỉ có một loại kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa; không thấy rằng mặc dù chủ nghĩa tư bản đã hình thành, phát triển trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường nhưng kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản là những quan hệ kinh tế khác nhau. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã lấy kinh tế thị trường làm cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình, làm cho kinh tế thị trường mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, sai lầm của những người đối lập kinh tế thị trường với định hướng xã hội còn do đã cho kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là một mô hình kinh tế “nhất thành bất biến”, không có sự thay đổi, không có sự vận động, phát triển theo thời gian; không thấy rằng tùy theo từng trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện đặc thù của từng nước mà ở các nước tư bản trên thế giới đã có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau, ở các giai đoạn phát triển hoàn cảnh khác nhau.
Thực tế lịch sử cho thấy ở các nước tư bản, kinh tế thị trường ban đầu là kinh tế thị trường tự do cạnh tranh. Trong quá trình phát triển, kinh tế thị trường tự do cạnh tranh đã dẫn tới những mất cân đối lớn trong nền kinh tế, đưa tới các cuộc khủng hoảng chu kỳ, làm phân hóa, phân cực xã hội sâu sắc, gây bất ổn xã hội; đồng thời, dẫn tới hình thành các tổ chức kinh tế độc quyền, thao túng thị trường, cản trở cạnh tranh, cản trở sự phát triển kinh tế. Sự can thiệp, điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường trở nền cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trường, điều kiện cho kinh tế thị trường ổn định, phát triển.
Kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của nhà nước trở thành mô hình kinh tế phổ biến ở các nước tư bản trên thế giới hàng trăm năm qua. Đồng thời, do điều kiện đặc thù, cụ thể của các nước mà trong quá trình phát triển, nền kinh tế thị trường trên thế giới lại có nhiều mô hình khác nhau. Có mô hình kinh tế thị trường tự do với sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế ở mức thấp, tối thiểu (thị trường lớn, nhà nước nhỏ), nhà nước chủ yếu bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, duy trì trật tự, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế phát triển, ít điều tiết, định hướng phát triển kinh tế (tiêu biểu như ở Mỹ). Có mô hình kinh tế thị trường xã hội, ngoài việc tạo khung khổ pháp luật, môi trường, điều kiện ổn định, thuận lợi cho kinh tế thị trường vận động, phát triển, nhà nước còn quan tâm nhiều tới lĩnh vực xã hội, có chính sách khuyến khích, định hướng cho các doanh nghiệp vào thực hiện các mục tiêu xã hội (tiêu biểu là cộng hòa liên bang Đức). Có mô hình kinh tế thị trường phúc lợi, trong đó, cùng với việc quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, nhà nước đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực bảo đảm phúc lợi xã hội cho người dân, nhất là những đối tượng khó khăn, yếu thế. Bằng chính sách thuế, nhất là thuế thu nhập, nhà nước điều tiết thu nhập của doanh nghiệp, những người có thu nhập cao để tạo nguồn tài chính trợ cấp cho các đối tượng xã hội (tiêu biểu là ở các nước Bắc Âu). Có mô hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển, trong đó, nhà nước không chỉ tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động, phát triển, mà còn có chiến lược phát triển, sử dụng đầu tư nhà nước, các nguồn lực của nhà nước, các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nươc trong từng giai đoạn, thúc đẩy và định hướng phát triển kinh tế đất nước (tiêu biểu như Nhật Bản, Hàn Quốc).
Trong những thập kỷ gần đây, nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản, nhất là các nước tư bản phát triển đều được nhà nước định hướng vào phát triển bền vững; bao trùm; cùng với phát triển kinh tế, các nước đều quan tâm tới lĩnh vực an sinh, phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Kinh tế thịt trường tư bản chủ nghĩa ở những nước này đã có những yếu tố mới, vượt qua chủ nghĩa tư bản, là những mầm mống của xã hội mới hình thành trong lòng chủ nghĩa tư bản. Không chỉ ở phạm vi quốc gia, các nước còn liên kết, thông qua các tổ chức, các diễn đàn quốc tế, nhất là Liên hiệp quốc và các tổ chức, các diễn đàn của Liên hiệp quốc, đưa ra các Chương trình về phát triển bền vững (cả về kinh tế, xã hội, môi trường) về phát triển bao trùm, tạo cơ hội cho mọi người dân tham gia và hưởng thụ thành quả phát triển, không để ai bị bỏ lại phía sau. Tuy việc thực hiện những Chương trình, mục tiêu này còn rất nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng đây là xu hướng tiến bộ, tất yếu của thời đại.
Ở nước ta, sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành, phát triển, đến nay đã có những yếu tố của một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường, thị trường trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị trường đã phát huy vai trò trong việc xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; nền kinh tế đã vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhà nước vừa xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà nước để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển bền vững cả kinh tế, xã hội, môi trường; gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng với các định hướng xã hội của các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Như vậy, cả từ thực tiễn và lý luận, có thể khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta là một mô hình kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế không chỉ phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại mà còn có thể khẳng định là mô hình kinh tế phù hợp với các nước kinh tế chưa phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay.
2. Về vai trò và định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta, các thành phần kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật, đều là những bộ phận hợp thành của nền kinh tế; khi tuân thủ đầy đủ luật pháp, chính sách của nhà nước, đóng góp tích cực vào phát triển đất nươc, nâng cao đời sống nhân dân đều được khuyến khích và trân trọng. Tuy nhiên, mỗi thành phần kinh tế, đồng thời, có vai trò riêng, khác nhau. Kinh tế nhà nước được xác định giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể là nền tảng, kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Tuy nhiên, về vấn đề này vẫn còn những ý kiến khác nhau và cách hiểu khác nhau cần được làm rõ, tạo sự thống nhất về nhận thức.
-Về vai trò và định hướng phát triển của nền kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước bao gồm các nguồn lực kinh tế của nhà nước (đất đai, các tài nguyên, các nguồn vốn, tài sản thuộc sở hữu của nhà nước)và các doanh nghiệp nhà nước. Trên thế giới, các nước kinh tế phát triển, có nền kinh tế thị trường hiện đại đều có kinh tế nhà nước, dù ở quy mô khác nhau. Kinh tế nhà nước đều được nhà nước sử dụng để điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế, nhất là ở những thời điểm quan trọng (khủng hoảng, chiến tranh, bước ngoặt phát triển). Ở nước ta, nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng sử dụng các lực lượng của kinh tế nhà nước để vừa tạo ra khung khổ pháp luật, môi trường, điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, vừa thúc đẩy, định hướng phát triển của nền kinh tê. Cùng với luật pháp, chính sách, kinh tế nhà nước là công cụ quan trọng được nhà nước sử dụng để thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển mà nhà nước đề ra, thông qua đó điều tiết, thúc đẩy, định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế. Cụ thể là: các nguồn lực đất đai, tài nguyên, nguồn vốn, tài sản của nhà nước được huy động, sử dụng phải phù hợp và phục vụ cho việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế nhà nước; đồng thời việc phân bổ, sử dụng phải theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu cạnh tranh có sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để các nguồn lực này đến tay những người sử dụng các nguồn lực này đúng mục tiêu, tiết kiệm, có hiệu quả cao.
Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước đầu tư, phát triển ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh của đất nước (mà các thành phần kinh tế khác không được, không muốn hay không đủ sức đầu tư), làm lực lượng nòng cốt cho sự phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn này. Chỉ trừ những trường hợp rất đặc biệt (nhất là liên quan đến quốc phòng, an ninh), các doanh nghiệp nhà nước phải hoàn toàn tự chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường, có hiệu quả; nếu nhà nước giao thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội phải được thực hiện theo đơn đặt hàng nhà nước. Khi ngành, lĩnh vực, địa bàn nào không nhất thiết cần phải có doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành vai trò đi đầu, thu hút các thành phần kinh tế khác đầu tư vào ngành, lĩnh vực, địa bàn này), thì nhà nước có thể thoái vốn của mình khỏi doanh nghiệp, cổ phần hóa doanh nghiệp để các thành phân kinh tế khác tham gia, chuyển vốn nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng khác ở thời điểm này, thực hiện các chiến lược, mục tiêu mới của nhà nước. Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cần hiểu với ý nghĩa là công cụ quan trọng, có hiệu quả để nhà nước điều tiết, thúc đẩy, định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước, không phải là được ưu đãi, giữ độc quyền hay phải chiếm tỷ trọng chi phối, chèn ép, lất át các thành phần kinh tế khác. Với ý nghĩa đó, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là đúng đắn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển đất nước.
Hiện nay, ở nước ta để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, cần phải, thứ nhất là, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà nước thông qua việc đổi mới, nâng cao chất lượng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ, sử dụng các nguồn lực, cũng như chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực (không để có những chồng chéo, trái ngược, mâu thuẫn giữa các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch này); cần phải xóa bỏ cơ chế “xin-cho”, thực hiện đúng cơ chế thị trường (đấu thầu cạnh tranh, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế) trong việc phân bổ các nguồn lực để các nguồn lực được sử dụng đúng mục tiêu, tiết kiệm, có hiệu quả cao nhất. Thứ hai là: đẩy mạnh đổi mới, cơ cấu lại, doanh nghiệp nhà nước; sớm hoàn thành việc thoái vốn, cổ phần hóa, chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ của doanh nghiệp, hoạt động theo cơ chế thị trường, đổi mới quản lý, nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; thực hiện phá sản theo luật những doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ đúng theo cơ chế thị trường.
-Về vai trò và định hướng phát triển kinh tế tập thể. Trong tất cả các nền kinh tế thị trường trên thế giới, luôn luôn tồn tại một số lượng rất lớn, đông đảo những người sản xuất nhỏ cá thể, dưới hình thức các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong hầu khắp các ngành kinh tế. Đó là các hộ (và cả các trang trại) trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, làm các dịch vụ vận tải, sửa chữa các máy móc, thiết bị phục vụ sản xuât và sinh hoạt, cũng như các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các lĩnh vực của nền kinh tế. Kinh tế hộ có sức sống lâu bền, có khả năng chống chịu, vượt qua được các cú sốc, các cuộc khủng hoảng kinh mà nhiều doanh nghiệp lớn khó vượt qua được. Kinh tế hộ và các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò và đóng góp quan trọng trong việc tạo việc làm, thu nhập cho người dân, hàng hóa, dịch vụ cho xã hội (kể cả cho xuất khẩu), đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, giữ gìn ổn định xã hội…
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, với sự phát triển của phân công, chuyên môn hóa sâu trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh; một sản phẩm lớn, hoàn chỉnh có thể được lắp ghép từ hàng nghìn, hàng vạn chi tiết được tiêu chuẩn hóa tạo thêm cơ hội cho kinh tế hộ và các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Các hộ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể trở thành đối tác, liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp lớn, được doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ để sản xuất các sản phẩm trung gian, các chi tiết, linh kiện, tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng hay tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp lớn, giúp doanh nghiệp lớn giảm bớt chi phí sản xuất. Tuy nhiên, khi tham gia thị trường, những người sản xuất nhỏ do quy mô nhỏ, tiềm lực kinh tế yếu, thiếu thông tin nên thường ở thế yếu, bị các đối tác, nhất là các doanh nghiệp lớn, chèn ép, bị thua thiệt. Do đó, trong quá trình phát triển, những người sản xuất nhỏ tự nguyện liên kết với nhau hình thành nên các hợp tác xã, một hình thức kinh tế tập thể để làm dịch vụ, hỗ trợ, giúp đỡ cho các hộ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành viên phát triển. Ở nhiều nước, nhất là các nước kinh tế phát triển, các hợp tác xã rất phát triển, với thành viên là những người sản xuất nhỏ cả tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, cả sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. Các hợp tác xã liên kết với nhau thành liên hợp, liên minh hợp tác xã theo vùng, khu vực, theo lĩnh vực hoạt động, có vai trò và ý nghĩa ngày càng lớn cả về kinh tế và xã hội. Nhà nước có các chính sách hỗ trợ các hợp tác xã hoạt động, phát triển. Đây là một xu hướng tiến bộ, rất phát triển ở các nước kinh tế phát triển trên thế giới.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, do đó, có một lực lượng đông đảo những người sản xuất nhỏ cá thể trong tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là trong nông nghiệp. Trong những năm đổi mới vừa qua, kinh tế tư nhân cá thể dưới nhiều hình thức (cá nhân, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp) được khuyến khích phát triển. Nhiều hợp tác xã kiểu cũ của thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp cũ bị tan vỡ, giải thể; số còn lại được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, chuyển sang làm các dịch vụ cho các hộ thành viên, hỗ trợ các hộ thành viên nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, nhiều hộ cá thể tự nguyên liên kết với nhau tạo nên các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng về quy mô, mức độ liên kết và sở hữu tập thể. Đã có những hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, vốn, quỹ, tài sản, cơ sở vật chất thuộc sở hữu tập thể của hợp tác xã ngày càng lớn, hỗ trợ ngày càng tốt hơn cho các thành viên của mình, cung cấp cho các thành viên các dịch vụ sản xuất, cung ứng vật tư, thu mua, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, giúp các thành viên giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây thực sự là những hợp tác xã, những tổ chức kinh tế tập thể kiểu mới, thực hiện đúng vai trò của hợp tác xã, của kinh tế tập thể là hỗ trợ những người sản xuất nhỏ hoạt động, phát triển trong nền kinh tế thị trường, dẫn dắt họ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế nhà nước có vai trò là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết, thúc đẩy, định hướng phát triển nền kinh tế, tạo điều tiết cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Kinh tế tập thể, dưới hình thức phổ biến là các hợp tác xã, có vai trò liên kết, hỗ trợ những nguồn sản xuất nhỏ hoạt động, phát triển, dẫn dắt họ đi lên chủ nghĩa xã hội. Với những vai trò đó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể được xác định là nền tảng của nền kinh tế. Nền tảng với ý nghĩa là cơ sở, tạo điều kiện và cùng với luật pháp, chính sách của nhà nước, định hướng cho các thành phần kinh tế khác, cho các doanh nghiệp tư nhân, cho những nguồn sản xuất nhỏ phát triển; không phải với ý nghĩa là chiếm tỷ trọng cao, tuyệt đối trong nền kinh tế, lấn át, cản trở, thay thế các thành phần kinh tế khác.
- Về vai trò và định hướng phát triển kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân với đặc trưng là dựa trên sở hữu tư nhân, đã tồn tại, phát triển trong suốt lịch sử tồn tại, phát triển của xã hội loài người, từ chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản cho đến ngày nay. Trong các chế độ xã hội này, kinh tế tư nhân đều có hai loại: kinh tế tư nhân cá thể của những người sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân và lao động của bản thân, gia đình và kinh tế tư nhân lớn của các chủ nô, lãnh chúa phong kiến, các nhà tư bản, dựa trên sở hữu tư nhân và sử dụng lao động của người khác. Loại kinh tế tư nhân lớn này giữ vai trò chi phối, quyết định tính chất của chế độ xã hội và là động lực thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, các doanh nghiệp, công ty của tư bản giữ vai trò chi phối đã phát triển trở thành các công ty, tập đoàn đa quốc gia, siêu quốc gia, quy mô to lớn, hoạt động trên quy mô toàn cầu. Đồng thời, trong quá trình này, cơ cấu sở hữu, mô hình tổ chức, quản lý hoạt động của công ty cũng có những thay đổi lớn. Các công ty này trở thành công ty cổ phần có cổ phiếu được niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán. Chủ sở hữu công ty không còn là của một cá nhân, một gia đình mà của cộng đồng xã hội, hàng trăm, có khi tới hàng nghìn người. Đại hội cổ đông, hội đồng quản trị trở thành cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Chủ nghĩa tư bản đã được “dân chủ hóa”. Tác động lớn thứ hai đến hoạt động của các công ty tập đoàn tư bản là vai trò quản lý của nhà nước. Bằng luật pháp, chính sách, nhà nước tư bản quản lý, đòi hỏi các công ty phải bảo đảm tiền lương, điều kiện làm việc, các phúc lợi cho người lao động; phải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, đáp ứng các yêu cầu xã hội. Chủ nghĩa tư bản đã có “sự giám sát xã hội”. Đây là những xu hướng tiến bộ.
Ở nước ta, trong những năm đổi mới vừa qua, nhận thức, quan điểm của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước về kinh tế tư nhân đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển; vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển đất nước được nâng lên. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khuyến khích phát triển thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn, không chỉ hoạt động trong nước mà còn vươn ra nước ngoài; phấn đấu có những doanh nghiệp có tầm cỡ khu vực và thế giới. Quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của kinh tế tư nhân được pháp luật bảo vệ. Các doanh nghiệp tư nhân hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế, được quản lý theo cùng một Luật doanh nghiệp chung, thống nhất. Kinh tế tư nhân, được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có khả năng huy động được các nguồn lực vật chất to lớn của xã hội vào phát triển kinh tế. Đây là những cơ sở kinh tế hết sức năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với các diễn biến trên thị trường. Thực tế, trong những năm qua, kinh tế tư nhân nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ; đã có hàng chục triệu hộ sản xuất kinh doanh, hơn 700 nghìn doanh nghiệp tư nhân trong hầu hết các lĩnh vực; trong đó, đã hình thành một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn có tài sản hàng tỷ USD, như Vingroup, Thaco, FLC, Vietjet air, Hòa phát, Mac San... Kinh tế tư nhân đã trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế đất nước, tạo việc làm, thu nhập cho hàng chục triệu người, đóng góp hơn 40% GDP của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng phát triển của kinh tế tư nhân là: thứ nhất: đối với kinh tế tư nhân cá thể, quy mô nhỏ (kinh tế hộ) thì định hướng phát triển là liên kết với nhau hình thành các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế tập thể từ thấp lên cao hay phát triển thành các doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai, đối với doanh nghiệp tư nhân, thì định hướng phát triển là đi vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước, cụ thể là: tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ luật pháp, chính sách của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo trong mọi hoạt động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa trong doanh nghiệp, thực hiện tốt các chính sách tiền lương, bảo hiểm phúc lợi xã hội cho người lao động, bảo vệ môi trường; góp phần vào thực hiện thắng lợi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước của nhà nước; đồng thời, phát triển các doanh nghiệp tư nhân theo hướng thành các công ty cổ phần đại chúng, có sự tham gia rộng rãi của các lực lượng xã hội, của người lao động. Phát triển theo những định hướng này, kinh tế tư nhân sẽ không mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa mà góp phần quan trọng vào phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Về cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Vấn đề vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Là một nền kinh tế thị trường thật sự thì phải vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đó là các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, trong đó trung tâm là quy luật giá trị. Kinh tế thị trường là cạnh tranh, các doanh nghiệp, các chủ thể kinh tế luôn phải cạnh tranh với nhau để chiếm lĩnh các nguồn lực các dự án đầu tư, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm. Điều kiện để có cạnh tranh là trong nền kinh tế thị trường phải có nhiều hình thức sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ. Các chủ thể, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tề đều tự chủ, bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Cạnh tranh là động lực, sức ép để các doanh nghiệp, các chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là mạnh được, yếu thua. Đây là mặt tích cực của cạnh tranh, thúc đẩy xã hội phát triển. Mặt khác, cạnh tranh cũng có tác động tiêu cực. Để nâng cao sức cạnh tranh, các chủ thể kinh tế tìm cách khai thác tối đa, cạn kiệt sức lực của người lao động, tăng giờ làm, giảm tiền công, giảm các chi phí cho cải thiện điều kiện lao động, tạo ra phân hóa xã hội sâu sắc và khai thức cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường và thậm chí còn sử dụng nhiều biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, như: làm hàng giả, bán hàng kém chất lượng, ăn cắp công nghệ, buôn lậu, trốn thuế…
Tự do kinh doanh gắn với tự do lưu thông, tự do lưu chuyển hàng hóa, với sự hình thành, phát triển các loại thị trường. Lưu thông hàng hóa chịu sự tác động của quy luật cung - cầu. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống. Ngược lại, khi cầu lớn hơn cung, hàng hóa trở nên khan hiếm, giá cả hàng hóa đó sẽ tăng lên. Khi đó, hàng hóa sẽ được chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi giá thấp đến nơi giá cao và doanh nghiệp sẽ giảm hoặc dừng sản xuất những hàng hóa cung đã lớn hơn cầu, tăng sản xuất những hàng hóa cung nhỏ hơn cầu. Đây chính là sự điều tiết sản xuất và lưu thông tự động, linh hoạt, nhanh nhạy của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, những người sản xuất luôn mong muốn đạt được lợi nhuận tối đa, lại không xác định được tổng cầu của thị trường, nên xu hướng chung, phổ biến là sản xuất thừa, cung vượt cầu, tạo nên các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ (bản chất là khủng hoảng sản xuất thừa). Thông qua khủng hoảng chu kỳ, phá hủy lực lượng sản xuất của xã hội để lập lại những cân đối, ổn định của nền kinh tế. Đây là mặt trái của cơ chế tự điều tiết của kinh tế thị trường tự do.
Quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu cùng với các tác động của nó như nêu trên là cơ chế vận hành, hình thức biểu hiện của quy luật cơ bản của kinh tế thị trường là quy luật giá trị. Giá trị, với biểu hiện bên ngoài (biểu hiện bằng tiền) của nó là giá cả, là cơ sở của toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp, cạnh tranh nhau để chiếm đoạt các yếu tố sản xuất, các thị trường, cải tiến quản lý, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, … là để chi phí sản xuất và lưu thông hàng hóa của mình thấp hơn mức trung bình xã hội, thấp hơn mức giá được xã hội chấp nhận, do đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Như vậy, yếu tố quan trọng hàng đầu ở đây là giá trị và giá cả hàng hóa. Các doanh nghiệp cạnh tranh nhau giành lợi thế trong sản xuất và lưu thông là để chi phí sản xuất cá biệt của mình thấp hơn giá trị và giá cả chung được xã hội thừa nhận, nhờ đó thu được lợi nhiều hơn. Còn quan hệ cung – cầu làm cho giá cả biến động xoay quanh giá trị, cao hơn hay thấp hơn giá trị, do đó tạo ra dòng chảy của hàng hóa từ nơi có giá thấp hơn (cung lớn hơn cầu) đến nơi có giá cao hơn (cầu lớn hơn cung). Đây chính là cơ chế điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị, quy luật cơ bản, trung tâm của kinh tế thị trường.
Điều kiện để quy luật giá trị vận hành là tất cả những điều kiện cho quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu vận hành. Tác động của quy luật giá trong nền kinh tế thị trường là tổng hợp những tác động của cả quy luật cạnh tranh và quy luật cung – cầu, cả về mặt tích cực và tiêu cực. Đó là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa một cách tự động, linh hoạt như có một “bàn tay vô hình”, thúc đẩy việc cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém, phát triển lực lượng sản xuất; đồng thời, dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kỳ, làm phân hóa xã hội, khai thác cạn kiện tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường và cả những thủ đoạn kinh doanh gian dối…
Trong nền kinh tế thị trường, còn có quy luật lưu thông tiền tệ, đó là quy luật về mối quan hệ giữa hàng hóa và tiền tệ, về số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông hàng hóa, theo đó, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông là do tổng giá trị hàng hóa trong xã hội cần lưu thông và tốc độ luân chuyển hay tốc độ quay vòng của tiền quyết định. Thời kỳ sử dụng tiền vàng, tiền có đủ giá trị, thì khi số lượng tiền vượt qua nhu cầu của lưu thông, tiền vàng sẽ tự động được rút khỏi lưu thông. Khi sử dụng tiền giấy thay cho tiền vàng (tiền giấy chỉ là “ký hiệu của giá trị”, “đại biểu của giá trị”) nếu số lượng tiền vượt quá yêu cầu của lưu thông hàng hóa thì giá trị của đồng tiền sẽ giảm xuống, gây ra hiện tượng lạm phát, giá cả hàng hóa tăng cao.
Trong nền kinh tế thị trường tự do, các quy luật kinh tế điều tiết kinh tế một cách tự phát, bên cạnh tác động tích cực, đã gây ra những hiệu quả tiêu cực, do đó, đòi hỏi phải có vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước. Hiện nay, tất cả các nền kinh tế thị trường ở các nước kinh tế phát triển trên thế giới đều vừa vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Công cụ quản lý của nhà nước là luật pháp, chính sách, các định mức, tiêu chuẩn và các nguồn lực kinh tế của nhà nước. Mục tiêu của quản lý nhà nước là tạo ra môi trường ổn định, thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động, hạn chế khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, định hướng các hoạt động kinh tế tới các mục tiêu xã hội và bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, bao trùm. Quản lý của nhà nước như vậy trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nhưng không có ai cho rằng nó cản trở, thủ tiêu cơ chế thị trường, nền kinh tế ở các nước kinh tế phát triển trên thế giới vẫn được xem là chuẩn mực của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Ở nước ta, sau gần 35 năm đổi mới, đến nay, nền kinh tế đất nước đã trở thành một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có đầy đủ các yếu tố của một nền kinh tế thị trường hiện đại: có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, có đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường; các quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông được bảo đảm, bảo vệ của pháp luật. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Giá cả hàng hóa hình thành do sự cạnh tranh của các doanh nghiệp và quan hệ cung – cầu trên thị trường quyết định; quan hệ cung-cầu, giá cả điều tiết lưu thông hàng hóa. Với sự tồn tại và hoạt động của các yếu tố đó, các quy luật của kinh tế thị trường đã vận hành đầy đủ, đồng bộ trong nền kinh tế nước ta; đã phát huy vai trò trong thúc đẩy phát triển và điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, của người tiêu dùng, của cả nền kinh tế. Tuy trong thực tế, vẫn còn một số trường hợp các quy luật kinh tế thị trường bị cản trở là do sự can thiệp không đúng, quá mức của một số cơ quan nhà nước, như cơ chế “xin - cho” trong phân bổ nguồn lực hay vẫn giữ quyền quyết định giá cả đối với một số hàng hóa. Nhưng đây chỉ là những trường hợp cụ thể trong quá trình thực hiện của bộ máy quản lý nhà nước. Những vi phạm nguyên tắc thị trường như thế cũng có nhiều ở các nền kinh tế thị trường khác.
Đồng thời, trong nền kinh tế thị trường nước ta, các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, tăng cường. Giữa định hướng xã hội chủ nghĩa và các quan hệ thị trường, các quy luật của kinh tế thị trường có quan hệ gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời chứ không phải là loại trừ, đối lập nhau. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường có sự tham gia, đóng góp của tất cả các thành phần kinh tế và đặc biệt là vai trò quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo để định hướng phát triển các thành phần kinh tế, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; thực hiện quan hệ phân phối kết hợp giữa phân phối theo hoạt động, hiệu quả kinh tế vốn theo mức đóng góp vốn cùng các yếu tố sản xuất khác và phân phối qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lịch sử hình thành, phát triển của kinh tế thị trường trên thế giới, nền kinh tế thị trường ban đầu là kinh tế thị trường tự do, được điều tiết và vận hành bởi “bàn tay vô hình” của thị trường. Song do những hậu quả tiêu cực do sự điều tiết tự phát của “bàn tay vô hình” của thị trường gây ra, nhà nước đã phải can thiệp, tham gia vào điều tiết nền kinh tế, tạo ra kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Ngày nay, các tổ chức xã hội đại biểu cho quyền lợi của các đối tượng xã hội, các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp tham gia ngày càng tích cực vào các quan hệ thị trường để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên của mình, do đó, tham gia vào cơ chế vận hành, điều tiết hoạt động kinh tế. Đây là xu hướng tiến bộ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước kinh tế phát triển trên thế giới ngày nay, nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ gắn bó chặt chẽ, phối hợp với nhau, tạo nên cơ chế vận hành của nền kinh tế. Thị trường, với sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan tạo nên cơ chế thị trường, là cơ sở, nền tảng cho vận hành của nền kinh tế, là yếu tố chủ yếu quyết định giá cả hàng hoá, dịch vụ, việc huy động và phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Nhà nước tạo ra khung khổ pháp luật, môi trường điều kiện thuận lợi cho thị trường và các tổ chức xã hội ra đời, hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, ngược lại, nhà nước cũng phải tuân thủ, tôn trọng hoạt động của cơ chế thị trường: việc phân bổ các nguồn lực kinh tế của nhà nước thực hiện theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp của nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường và phải tôn trọng vai trò phản biện, giám sát của các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội một mặt phải tuân thủ luật pháp, chính sách của nhà nước, tác động của cơ chế thị trường; mặt khác tác động trở lại cả tới nhà nước và thị trường; phản ánh với nhà nước nhu cầu của các tầng lớp nhân dân, của doanh nghiệp, phản biện và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách của nhà nước; bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quan hệ với người sử dụng lao động; giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hoạt động của thị trường, bảo vệ người tiêu dùng… Tuy nhiên, ở các nước khác nhau, vai trò tác động của nhà nước, các tổ chức xã hội vào thị trường có những điểm khác nhau, tạo nên những mô hình kinh tế thị trường hiện đại khác nhau.
Ở nước ta, trong 35 năm đổi mới vừa qua, cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội cũng từng bước hình thành, phát triển, quan hệ ngày càng chặt chẽ, gắn bó, tạo nên cơ chế vận hành phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và điều kiện đặc thù của nước ta. Đến nay, quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta, trong nhận thức quan điểm của Đảng, luật pháp, chính sách của nhà nước, cũng như trong thực tiễn, về cơ bản là: Nhà nước có vai trò: xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ luật pháp, môi trường cho thị trường và các tổ chức xã hội hoạt động, phát huy vai trò tích cực của của thị trường và các tổ chức xã hội; xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng lực lượng kinh tế của nhà nước để thúc đẩy, định hướng hoạt động của thị trường và các tổ chức xã hội theo mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, định hướng xã hội chủ nghĩa; kiểm tra việc thực hiện, xử lý nghiêm minh các sai phạm, bảo đảm luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của nhà nước được thực hiện. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong việc quyết định giá cả, huy động và phân bổ các nguồn lực, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, sản xuất và lưu thông hàng hoá, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém, tạo động lực phát triển kinh tế. Các tổ chức xã hội có vai trò: đại diện cho các thành viên, hội viên phản ánh với nhà nước yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, của các doanh nghiệp; phản biện, tuyên truyền vận động thực hiện và giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước; đồng thời; bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên; và vận động các thành viên, hội viên tác động vào quan hệ cung, cầu sức lao động và hàng hoá trên thị trường.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội vẫn còn nhiều vấn đề còn cần tiếp tục giải quyết để hài hòa, nhịp nhàng hơn, để mỗi yếu tố làm đúng vai trò, chức năng của mình, đóng góp tích cực vào sự phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Về tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
+ Những yêu cầu đặt ra đối với việc xác định tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(i) Các tiêu chí được xác định phải có căn cứ khoa học, có tính khoa học cao, phải thể hiện đúng những đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế trong thời đại ngày nay; đồng thời phải thể hiện được tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường, tức là thể hiện được những yếu tố đặc thù của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
(ii) Trên cơ sở đó, các tiêu chí góp phần tạo sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và nhân dân về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đất nước ta xây dựng; góp phần phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và góp phần vào công tác vận động, thuyết phục các nước trên thế giới công nhận nền kinh tế nước ta là kinh tế thị trường.
(iii) Số lượng các tiêu chí không quá nhiều, tập trung vào những đặc điểm cơ bản nhất, như đặc trưng về chế độ sở hữu, về cơ chế vận hành, về quan hệ phân phối, về gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, phát triển bền vững, bao trùm.
(iiii) Các tiêu chí cần có khả năng đo lường định hướng, đánh giá, và có tính mở để phù hợp với đối tượng đang vận động, phát triển.
+ Cơ sở để xác định tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(i) Quan điểm của Đảng, nhà nước ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được nêu trong quan điểm trên là cơ sở để xác định thành các tiêu chí.
(ii) Tham khảo quan điểm các nước, các tổ chức quốc tế (ở trong nước hầu như chưa có nghiên cứu về vấn đề này) như:
- Liên minh châu Âu (EU) đưa ra 5 tiêu chí của nền kinh tế thị trường là: (1) Mức độ ảnh hưởng của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và quyết định của doanh nghiệp; (2) Nhà nước không can thiệp quá mức vào hoạt động của doanh nghiệp khu vực tư nhân; (3) Luật doanh nghiệp minh bạch, không phân biệt đối xử; (4) Hệ thống luật thống nhất, hiệu quả, minh bạch, tôn trọng quyền sở hữu tài sản và quy chế phá sản; (5) Có khu vực tài chính độc lập với nhà nước.
- Bộ thương mại Hoa Kỳ đưa ra 6 tiêu chí của nền kinh tế thị trường: (1) Khả năng chuyển đổi của đồng tiền; (2) Tự do thoả thuận mức lương; (3) Đầu tư nước ngoài; (4) Sở hữu hoặc quản lý của nhà nước đối với các ngành sản xuất; (5) Quản lý của nhà nước đối với sự phân bổ các nguồn lực; (6) Các yếu tố khác.
- Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra 5 tiêu chí của kinh tế thị trường (1) Thương mại không phân biệt đối xử; (2) Thương mại ngày càng tự do hơn; (3) Bảo đảm tính minh bạch, dễ dự đoán trong chính sách thương mại; (4) Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh; (5) Thúc đẩy phát triển và cam kết cải cách kinh tế theo hướng thị trường.
- Tạp chí The Wall Street và Quỹ Heritage Foundation (Mỹ) đưa ra 12 chỉ số tự do kinh tế: (1) Quyền tư hữu; (2) Chính phủ liêm chính; (3) Hiệu quả tư pháp; (4) Gánh nặng thuế; (5) Chi tiêu chính phủ; (6) Tình hình tài khoá; (7) Tự do kinh doanh; (8) Tự do lao động; (9) Tự do tiền tệ; (10) Tự do thương mại; (11) Tự do đầu tư; (12) Tự do tài chính để xác định một nền kinh tế thị trường.
Dù khác nhau về số lượng tiêu chí và những quan tâm cụ thể của từng nước, từng tổ chức, nhưng tất cả các tiêu chí nêu ra đều xoay quanh các yếu tố: (1) tôn trọng quyền sở hữu tài sản, quyền tư hữu; (2) vai trò của cơ chế thị trường, thể hiện qua mức độ tư do, minh bạch, không phân biệt đối xử trong đầu tư, kinh doanh, tự do thương mại, tài chính, tiền tệ, lao động… và (3): phạm vi, mức độ can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế, thể hiện trong phân bổ nguồn lực, can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp, chính sách thuế, sự thống nhất và hiệu quả của luật pháp, của hệ thống tư pháp…
+ Từ những yêu cầu và cơ sở nêu trên, xin đề xuất tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm: 5 nhóm tiêu chí:
(1) Về sở hữu và thành phần kinh tế: có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; quyền sở hữu, quyền tài sản được pháp luật bảo vệ.
(2) Về cơ chế vận hành: cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển nhanh, bền vững.
(3) Về quan hệ phân phối: phân phối theo kết quả kinh tế; theo mức đóng góp các nguồn lực và qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, mọi người đều được hưởng thành quả phát triển.
(4) Về trình độ phát triển: là nước phát triển, có công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao.
(5) Là nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế.
5. Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm tới.
Trên cơ sở nhận thức thống nhất về nền kinh tế thị trường, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh tình hình đất nước, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm tới tập trung vào một số nội dung chính sau đây:
- Tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp, các thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân, gây phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên những rào cản cản trở sự phát triển đất nước. Đồng thời, bổ xung luật pháp, cơ chế, chính sách thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, công khai, minh bạch, thông thoáng để thu hút đầu tư, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là việc tạo môi trường thuận lợi cho hình thành, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo doanh nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực, những mô hình sản xuất kinh doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng; cơ cấu lại nền kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước thực hiện chuyển đổi số cho các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế số, kinh thế tuần hoàn, kinh tế chia xẻ, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới..
Tập trung hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của nhà nước để việc phẩn bổ các nguồn lực của nhà nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, xóa bỏ cơ chế “xin - cho” gắn liền với nạn tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm gây thất thoát lớn tài sản nhà nước, ảnh hưởng xấu tới chất lượng công trình, gây bức xúc xã hội, làm mất cán bộ, mất lòng tin của nhân dân vào Đảng, nhà nước. Đồng thời, tập trung vào hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong nước. Tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong chính sách để đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã kéo dài nhiều năm chưa thực hiện xong. Đồng thời, thực hiện đầy đủ cơ chế tự chủ để doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường như doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, tách các hoạt động xã hội công ích hay thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao theo cơ chế riêng khỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế tập thể, các hợp tác xã trong các lĩnh vực, nhất là trong sản xuất nông nghiệp, như chính sách ưu đãi vay vốn ngân hàng, hỗ trợ đào tạo cán bộ, miễn, giảm thuế thu nhập… để các hợp tác xã phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ cho các xã viên, thành viên. Đồng thời, nhà nước có chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động, tham gia các hoạt động xã hội, thực hiện các trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, tuân thủ đầy đủ pháp luật; khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân liên doanh liên kết với doanh nghiệp nhà nước, phát triển thành các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các lực lượng xã hội. Điều chỉnh, bổ xung chính sách, ưu tiên thu hút những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà đất nước cần ưu tiên phát triển; có liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
- Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá trị thị trường với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá các dịch vụ công cơ bản, thu hẹp các giá do nhà nước quyết định. Phát triển đồng bộ với cơ sở hạ tầng và phương thức giao dịch hiện đại các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường khoa học công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản để các thị trường vận hành thông suốt, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới. Phát huy đầy đủ vai trò của thị trường trong phân bổ các nguồn lực sản xuất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp và thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước; tập trung vào nâng cao chất lượng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, cho cơ chế thị trường vận hành, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiến tạo phát triển và gắn kết phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm mọi người đều có cơ hội tham gia và thưởng thụ thành quả phát triển đất nước. Tạo điều kiện và phát huy vai trò của các tổ chức xã hội tham gia vào các quan hệ và sự vận hành fcủa nền kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên của mình, phản biện luật pháp, chính sách của nhà nước, giám sát các doanh nghiệp, các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW