Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Thực hiện tốt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, sớm đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao ​

Ngày phát hành: 02/04/2021 Lượt xem 3394

 

I. Về mục tiêu, tiêu chí và hệ chỉ tiêu trong xây dựng và phát triển đất nước

 

1. Ở các nước trên thế giới, khi bàn tới mục tiêu, tiêu chí, chỉ tiêu phát triển, thường đề cập các nội dung về phát triển kinh tế- xã hội, bao hàm cả môi trường. Đây là các vấn đề cơ bản có giá trị phổ quát, có sự đo lường quốc tế, dù tên gọi, mục tiêu đề ra ở các nước có thể khác nhau. Việc đo lường "phát triển kinh tế- xã hội" và"phát triển đất nước”, có những điểm chung, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Phát triển đất nước phải dựa trên sự phát triển kinh tế- xã hội, coi đây là trụ cột, trung tâm. Tuy nhiên, sự phát triển đất nước còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác về chính trị, quốc phòng, an ninh, các nhân tố bên trong, bên ngoài... Bởi vậy, những vấn đề lý luận chung về mục tiêu, tiêu chí và chỉ tiêu tham khảo quốc tế, chỉ đề cập trực tiếp đến phát triển kinh tế- xã hội. Cho đến nay, mục tiêu phát triển ở các nước tuy có khác nhau, nhưng đánh giá về trình độ phát triển giữa các quốc gia, về cơ bản đã có nhiều điểm tương đồng, dựa trên các tiêu chí của Liên hợp quốc, WB, IMF và một số tổ chức quốc tế lớn, uy tín khác. Xét về khái niệm, mục tiêu phát triển đất nước (goal) là thể hiện kết quả đầu  ra của nền  kinh tế, mỗi quốc gia cần đạt được tại một giai đoạn cụ thể.Có những loại mục tiêu dài hạn, trung hạn, ngắn hạn. Về tiêu chí (criterion) dùng để đo lường, đánh giá việc đạt các mục tiêu đặt ra trong một thời kỳ nhất định. Các tiêu chí dùng để nhận diện và phân biệt các nền kinh tế, được sắp xếp theo một hệ thống có logic, được gọi là hệ tiêu chí, mỗi tiêu chí có thể được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu cụ thể. Chỉ tiêu (indicator) là sự cụ thể hóa của các tiêu chí, phản ánh các khía cạnh cấu thành nên tiêu chí đó,phản ánh nội dung và bản chất của tiêu chí, trong điều kiện không gian và thời gian, để nhận diện và phân biệt trình độ phát triển của quốc gia này so với quốc gia khác. Mục tiêu có vai trò quan trọng trong việc làm rõ hướng đích của sự phát triển, trong khi tiêu chí có vai trò cụ thể hóa các mục tiêu đó. Các mục tiêu vừa mang đặc điểm  riêng, đồng thời cũng phản ánh xu thế quốc tế, mang tính thời đại và được dùng để nhận diện và đánh giá mức độ phát triển.Các chỉ tiêu cơ bản phải đo lường được, có nguồn dữ liệu rõ ràng, minh bạch, làm rõ chuẩn mực và thể hiện rõ mức độ phát triển của các quốc gia trong từng thời kỳ, trong sự so sánh với các quốc gia khác. Liên hợp quốc đã đề ra mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, được 189 quốc gia thành viên nhất trí phấn đấu  đạt được vào năm 2015, gồm 8 mục tiêu chung,18 mục tiêu cụ thể, 48 chỉ tiêu; Mục tiêu phát triển bền vững được 193 thành  viên nhất trí, để thay cho các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và được thực hiện đến năm 2030, gồm 17 mục tiêu toàn cầu và 169 chỉ tiêu cụ thể.

Để đo lường sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu sau:i). Tổng sản phẩm  trong nước (GDP) phản ánh giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ  được tạo ra của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. GDP được tính theo giá hiện  hành và giá so sánh, có thể được tính bằng 3 phương pháp. ii).Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) là một chỉ tiêu kinh tế, được tính  như tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ  mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào đó, thông thường là một năm  tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước). iii) Tổng thu nhập quốc gia (GNI) là chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập lần đầu, được tạo ra từ các yếu tố thuộc sở hữu của quốc gia, tham gia vào hoạt động sản xuất trên phạm vi lãnh thổ quốc gia hoặc ở trên lãnh thổ nước ngoài tại một thời kỳ nhất định. iv). GNI bình quân đầu người, là chỉ tiêu được tính bằng tổng thu nhập quốc dân chia cho dân số trung bình năm. Khi so sánh và đánh giá sự tăng trưởng của các quốc gia, nhiều tổ chức có thể dùng các tiêu chí như GDP, GNP hay GNI hay GNI/người, GDP/người tính theo sức mua tương đương. Tuy nhiên, các tiêu chí này chỉ phản ánh sự tăng trưởng kinh tế về  lượng đơn thuần. Chính vì vậy, UNDP đã lượng hóa tác động của sự tăng trưởng đến sự phát triển con người, thể hiện ở cuộc sống khỏe mạnh và trường thọ, có tri thức và những nguồn lực, để đảm bảo một cuộc sống tốt hơn qua chỉ số phát triển con  người HDI. Đây là chỉ số tổng hợp phản ánh chất lượng cuộc sống, đặc biệt còn được sử dụng để xác định sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế đến chất lượng cuộc sống.

Cho đến nay, dựa vào các chỉ tiêu và một số dấu  hiệu khác, trên thế giới đã có sự phân loại các quốc gia theo mức độ phát triển như: Căn cứ vào thay đổi cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển của các quốc gia đã hoàn thành công nghiệp hóa, năm 1955, Rostow xác định, các quốc gia cần qua 5 giai đoạn; căn cứ thu nhập theo đầu người, WB chia các quốc gia thành 4 nhóm: Thấp, Trung bình thấp, Trung bình cao, Cao; căn cứ theo thu nhập, đầu tư và khả năng trả nợ, IMF chia các nền kinh tế thành 2 nhóm: Các nước tiên tiến và các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi; căn cứ vào chỉ số phát triển con người, UNDP phân loại các nước thành 4 nhóm: Trình độ phát triển con người thấp, trung bình, cao và rất cao; phân loại quốc gia theo các giai đoạn thực hiện quá trình công nghiệp hóa, UNIDO, năm 2012 chia thành 4 nhóm nước: Đã công nghiệp hóa, nền kinh tế công nghiệp mới nổi; nền kinh tế đang phát triển khác và nền  kinh tế kém  phát triển. Ngoài ra, tùy theo mục tiêu, các nhà nghiên cứu còn  phân loại theo các chỉ số: Chỉ số hạnh phúc hành tinh; chỉ số hạnh phúc thế giới; hiệu quả hoạt động môi trường; đổi mới sáng tạo toàn cầu; kinh tế tri thức; tự do kinh tế; năng lực cạnh tranh toàn cầu; năng lực cạnh tranh công nghiệp; chỉ số chất lượng cuộc sống tốt hơn; chỉ số GINI; chỉ số dân chủ; chỉ số cảm nhận tham nhũng; chỉ số hòa bình toàn cầu.Gần đây, đã có một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trường như:GDP xanh;chỉ số(MDGs) quan tâm nhiều hơn đến cảm nhận về hạnh phúc và quyền tự do trong các quốc gia…

 

 

2. Việc xác định mục tiêu phát triển trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của một quốc gia luôn có vị trí quan trọng hàng đầu đối với các chính phủ, là cơ sở để xây dựng các chính sách, giải pháp thực hiện, vừa thể hiện trọng tâm ưu tiên, thông qua vai trò Nhà nước và sự vận động của cơ chế thị trường để phân bổ có hiệu quả các nguồn lực. Các mục tiêu khi được xác định là tiền đề cho việc xây dựng hệ chỉ tiêu trên từng lĩnh vực, thông qua việc thực hiện cũng thể hiện uy tín của chính phủ đối với người dân. Bởi vậy, có một số nguyên tắc chung trong việc xây dựng mục tiêu và chỉ tiêu nhiều quốc gia đã thực hiện là:

Một là, mục tiêu cần được xác định rõ ràng trong quá trình thực hiện, phù hợp với đặc điểm mỗi quốc gia và xu thế phát triển của thế giới.

Xây dựng mục tiêu cần phải đảm bảo các yêu cầu: i).Tạo được động lực phấn đấu của người dân, doanh nghiệp thông qua việc chỉ rõ lợi ích người dân được thụ hưởng, tránh  để tham vọng chính trị lấn át khả năng hiện thực hóa trên thực tế; ii).Các mục tiêu đặt ra kỳ vọng phát triển, song phải rõ ràng, không mơ hồ, có thể định lượng được, có tính khả thi; iii).Vừa có tính kế thừa, vừa dự liệu khả năng đạt được gắn với bối cảnh trong nước, thế giới luôn thay đổi, phù hợp với đặc điểm mỗi nước và mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc; iv). Xác định mục tiêu vừa có tính động, mở nhưng phải rõ hướng ưu tiên, có khả năng điều chỉnh qua từng giai đoạn. Kinh nghiệm đưa ra định hướng mục tiêu của một số nước khá rõ ràng, thể hiện khát vọng, không gây tranh cãi, như: Mục tiêu trong Chiến lược 2011-2025: Phát triển Inđônêxia tự chủ, tiến bộ, công bằng và thịnh vượng; với Thái Lan là tầm nhìn phát triển 2017-2036: An ninh, Thịnh vượng và bền vững; Trung Quốc xây dựng toàn diện xã hội khá giả..

Hai là, các chỉ tiêu đặt ra không nên quá nhiều, nhất là các chỉ tiêu pháp lệnh, đồng thời chuyển từ đo lường tăng trưởng, phát triển về lượng sang chất lượng phúc lợi người dân được thụ hưởng.

Xây dựng và thực hiện hệ chỉ tiêu phục vụ mục tiêu phát triển đất nước chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của Nhà nước và mức độ hoàn thiện của thị trường. Các nước phát triển, vai trò can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế ít hơn, chẳng hạn ở Anh, khi xây dựng mục tiêu dài hạn, xác định xây dựng một nền kinh tế mạnh  hơn và bảo đảm  tốt hơn cho sự phát triển đất nước bằng việc xác định 5 chỉ tiêu: giảm thâm hụt ngân sách; cắt giảm thuế; tạo thêm việc làm; bảo đảm phúc lợi và giảm nhập cư; cung cấp trường học tốt nhất. EU chỉ xác định có 6 chỉ tiêu pháp lệnh. Các mục tiêu, chỉ tiêu này phần lớn mang ý nghĩa cam kết của chính phủ, hoặc để giải trình chi tiêu, không có ý nghĩa pháp lý chính  phủ  phải đạt được. Bên cạnh đó, điểm mới trong việc xây dựng mục tiêu, tiêu chí hiện nay là chuyển  từ đo lường tăng trưởng, phát triển kinh tế và thu nhập sang phúc lợi cho người dân, lấy người dân làm trung tâm.Cách  tiếp cận này có sự giống nhau ở các nước phát triển, đặc biệt là các nước Bắc Âu.

Ba là, việc xây dựng và thực hiện mục tiêu, hệ tiêu chí luôn tính đến các nhân tố bất thường khi nền kinh tế gặp cú sốc lớn, nhất là chiến tranh, thiên tai, khủng hoảng, bệnh dịch...điều đó đòi hỏi:

- Xây dựng cơ chế tự điều chỉnh các chỉ tiêu, các ngưỡng tài chính, ngân sách. Khi có nhân tố bất thường, các cơ chế điều chỉnh tự động và phản hồi chính sách được kích hoạt, giúp chính phủ tăng cường hiệu lực thực, điều chỉnh các nguồn lực. Chẳng hạn, đối với nợ công: Ba Lan và Slovakia đặt mức trần nợ công ở mức tương đương 60% GDP. Tại Slovakia, khi tỷ lệ nợ lên 50% GDP, Bộ trưởng Tài chính có nghĩa vụ giải trình trước Quốc hội và đưa ra những giải pháp giảm nợ công; khi lên tới mức 53% GDP, chính phủ có thể sẽ thông qua một gói các biện pháp để giảm mức nợ; và khi tới mức 55% GDP, chi tiêu công có thể sẽ bị cắt giảm tự động 3% và chi tiêu cho năm kế tiếp sẽ bị “đóng băng”, trừ các quỹ liên kết với EU. Đối với cân đối NSNN: Quy tắc cân bằng cơ cấu ngân sách của Thụy Sĩ và Đức có cơ chế tự điều chỉnh nhằm “phanh  nợ”. Khi sự chênh lệch tích lũy vượt một ngưỡng thì cơ chế “chỉnh sửa” nhằm  làm giảm chênh lệch sẽ được kích hoạt, với thời hạn cho điều chỉnh được xác lập sẵn.

- Quy định trường hợp được phép miễn áp dụng các nguyên tắc tài chính, ngân sách hiện hành khi khẩn cấp. Các điều khoản miễn áp dụng các quy định tài chính, ngân sách, cụ thể là : i). Giới hạn và xác định rõ những yếu tố, những trường hợp được phép miễn áp dụng; ii). Đưa ra chỉ dẫn rõ ràng về việc nội dung, cách thức giải trình, lý giải và việc xác định các trường hợp; iii).Xác định lộ trình quay trở lại áp dụng các quy định đã bị hoãn để xử lý những sai lệch.Các điều khoản miễn áp dụng này được thực hiện ở Brazil, Colombia, Đức, Mexico, Jamaica, Panama, Peru, Romania, Slovakia, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ, nhất là trong giai đoạn suy thoái kinh tế, thiên tai hay giải cứu hệ thống ngân hàng (Slovakia).Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, nhiều nước đã tạm thời không áp dụng cơ chế, nguyên tắc tài chính, ngân sách hoặc được điều chỉnh bằng cách nới lỏng theo hướng linh hoạt hơn…

Bốn là, một số chỉ tiêu là ngưỡng an toàn cần phải điều chỉnh theo giai đoạn, nhất là khi bối cảnh mới tác động mạnh đến điều kiện thực hiện

- Các ngưỡng nêu trên hầu hết có ý nghĩa cảnh báo cho các nước, trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô, điển hình là trường hợp ngưỡng an toàn về nợ công, nợ nước ngoài như ở một số quốc gia châu Âu. Đối với ngưỡng về dự trữ ngoại hối, một số nước như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,..  không tính đến các ngưỡng thông thường do có dự trữ  nhiều. Gần đây, IMF (2013) đã đưa yếu tố nhận kiều hối, là nhân tố quan trọng trong đánh giá tính bền vững của nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia..

- Một số nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng và cảnh báo các chỉ  tiêu có liên quan tới chuẩn mực an toàn, quy định về thống kê, thu thập dữ liệu, việc phân tích, công khai chỉ tiêu và khả năng so sánh quốc tế, đặc biệt là các yếu tố chính trị, kinh tế,… ảnh hưởng tới việc xây dựng và áp dụng các chỉ tiêu kinh tế của mỗi quốc gia cũng cần được điều chỉnh.

Năm là, xây dựng và thực hiện mục tiêu, hệ tiêu chí phát triển đất nước hiện nay ở các nước ASEAN  cần tính đầy đủ, sâu sắc các nhân tố tác động mới, như: i). Tác động của Đại dịch Covid-19; ii). Tác động của căng thẳng thương mại Mỹ-Trung lên các lĩnh vực thương mại và đầu tư, tài chính; iii). Gia tăng xu hướng Nam tiến (ASEAN) của các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, vùng lãnh thổ Đài Loan; iv). Tranh chấp lãnh hải và thay đổi lớn trong các tuyến hàng hải quốc tế qua Biển Đông; v). Tác động của tiến bộ công nghệ, đặc biệt là Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; vi). Sự phân tán đầu tư quốc tế từ một số nước lớn ra các nước khác; vii).Chi phí nhân công trong nước ngày càng tăng; viii). Nguy cơ tăng ô nhiễm môi trường; viiii). Hệ lụy của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn.

 

 

II. Về mục tiêu, hệ chỉ tiêu phát triển đất nước trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng

 

1. Các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đã nêu các mục tiêu đến 2045, 2030 và 2025 với mục tiêu tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Theo đó,  Báo cáo Chính trị xác định mục tiêu tổng quát với 7 nội dung: ” Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa[1]. Đồng thời, xác định 3 mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn:

- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Căn cứ theo các mục tiêu cụ thể này, các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2025 được xác định theo 3 nhóm về kinh tế, xã hội và môi trường, theo đó về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5-7%/năm. GDP bình quân đầu người khoảng 4.700- 5000 USD; đóng góp của năng xuất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng xuất xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa khoảng 45%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 25% GDP; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP. Về xã hội: Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5%/năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh trên một vạn dân; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình khoảng 74,5% tuổi; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn kiểu mẫu. Về môi trường: Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95-100%, nông thôn là 93-95%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%[2].

  Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030, xác định 7 nội dung lớn của mục tiêu tổng quát : ”….Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”, nhấn mạnh đến năm 2030, Việt Nam có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo… không ngừng nâng cao mọi mặt đời sống của người dân. Đồng thời, cũng đưa ra 3 nhóm chỉ tiêu gồm: 7 chỉ tiêu về kinh tế; 4 chỉ tiêu về xã hội và 5 chỉ tiêu về môi trường. Việc xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, hệ thống các chỉ tiêu trên có một số điểm đáng lưu ý:

Một là, các mục tiêu cơ bản  đã rõ ràng, cụ thể, có tính kế thừa, hợp lý hơn giữa nhóm chỉ tiêu về kinh tế và nhóm chỉ tiêu về xã hội và môi trường, phản ánh được đặc điểm, trình độ phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Để thực hiện tốt các chỉ tiêu, luôn coi trọng các điều kiện đảm bảo.

Hai là, mục tiêu, chỉ tiêu đã mang tính động lực, thể hiện được mục tiêu phấn đấu và hướng kết quả người dân được thụ hưởng. Phản ánh được thành quả phát triển của đất nước theo các mốc sự kiện lịch sử, nhưng vẫn phù hợp với xu thế, chuẩn mực chung của thế giới về phân loại quốc gia, thu nhập, có thể đo lường được.

Ba là, cơ cấu các chỉ tiêu đã có xu  hướng giảm, năm 2025 khoảng 19 tiêu chí,  năm 2030 còn 17 chỉ tiêu, từng bước phản ánh được mức độ hiện đại của nền kinh tế, như các chỉ tiêu về TFP, chỉ tiêu về kinh tế số…Từng bước xác định, thể hiện gắn bó hữu cơ giữa các nhóm chỉ tiêu về phát triển, phản ánh khái quát tình hình phát triển trong từng giai đoạn 2025, 2030 và tầm nhìn 2045. Nhóm chỉ tiêu về chất lượng phát triển của nền kinh tế, liên quan đến tính bao trùm, tính bền vững của nền kinh tế và chất lượng cuộc sống của người dân. Nhóm chỉ tiêu về động lực phát triển, tập trung vào các vấn đề thể chế phát triển, môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, chất lượng đổi mới sáng tạo và nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Đã chú ý tới nhóm chỉ tiêu về động lực phát triển, bám sát các khâu đột phá trong từng giai đoạn 2030, 2045.

Bốn là, từng bước tách dần các chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội chung hướng tới mục tiêu phát triển trong từng thời kỳ với chỉ tiêu phục vụ quản lý, điều hành của Nhà nước, như các cân lớn cần đạt, các chỉ tiêu về tăng tổng tích lũy tài sản khoảng 27-28% GDP; duy trì tỷ trọng tiêu dùng cuối cùng không thấp hơn 73% GDP; tổng đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32-34% GDP; tỷ lệ huy động nguồn ngân sách nhiệm kỳ khóa XIII đạt khoảng 15-16% GDP; nợ công 60% GDP…

Năm là, đã từng bước chuyển trọng tâm xác định tiêu chi theo hướng đo lường tăng trưởng kinh tế và thu nhập, sang chất lượng cuộc sống, mức độ hạnh phúc của người dân, lấy người dân làm trung tâm, không ai bị bỏ lại phía sau. Chẳng hạn, bên cạnh việc xác định chỉ tiêu tăng trưởng GDP và GDP theo đầu người, Việt Nam cũng đưa ra các chỉ tiêu theo lộ trình nhằm phấn đấu giảm bất bình đẳng về thu nhập, về chất lượng giáo dục, y tế, tác hại về môi trường, điều này thực chất là sự phản ánh tính ưu việt của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn gắn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế với các chính sách xã hội, gắn ngay từ đầu, trong từng bước đi, từng chính sách phát triển.

 

 

III. Bối cảnh, nguyên tắc và định hướng một số giải pháp thực hiện tốt các chỉ tiêu, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước ở Việt Nam thời gian tới

 

1. Bối cảnh mới của đất nước đặt ra nhiều thời cơ và thách thức trong việc thực hiện các chỉ tiêu, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước 2025 đến 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, từng giai đoạn thực hiện tốt, sẽ là tiền đề để thực hiện các mục tiêu của giai đoạn tiếp theo và trước hết mục tiêu là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025. Các nhân tố bên ngoài tác động đến việc thực hiện các chỉ tiêu trong từng giai đoạn, trước hết là một số xu thế lớn của thế giới đang nổi lên hiện nay về hòa bình, hợp tác, liên kết để phát triển đi kèm theo là chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tranh chấp lãnh thổ; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn cùng với sự điều chỉnh chiến lược, chính sách ở nhiều quốc gia; tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp. Một số nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế, như Covid-19, các liên kết kinh tế khu vực bị ảnh hưởng bới liên kết kinh tế toàn cầu; xu hướng đa cực, nhiều trung tâm kinh tế làm xuất hiện nhiều nền kinh tế mới nổi; nhiều mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đi đối với việc gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại phi thuế quan. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các thách thức về biến đổi khi hậu, suy thoái môi trường, thiên tai dịch bệnh… là những thách thức, thời cơ đan xen đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển.

Ở trong nước, thuận lợi căn bản chính là cơ đồ, vị thế, uy tín và tiềm lực của đất nước sau 35 năm đổi mới, tình hình chính trị và xã hội, kinh tế vĩ mô ổn định. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo chiều sâu, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Các lĩnh vực văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường…Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều rủi ro, thách thức trong việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khả năng tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là thách thức lớn; một số khó khăn nội tại của nền kinh tế vẫn chậm được khắc phục. Độ mở của nền kinh tế lớn làm cho những tác động bất lợi từ bên ngoài diễn ra nhanh và mạnh hơn. Một số vấn đề xã hội gây áp lực lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội, ảnh hưởng tới việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển giai đoạn 2021- 2025 và những năm tiếp theo, như già hóa dân số, chênh lệch giầu nghèo, thiên tai dịch bệnh, đặc biệt là những diễn biến phức tạp của đại địch Covid-19 trên thế giới và trong nước hiện nay.

 

2. Các nguyên tắc trong thực hiện hệ chỉ tiêu phù hợp với thực tiễn Việt Nam

Để thực hiện tốt các chỉ tiêu, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, cần xác định đúng đắn một số nguyên tắc cơ bản sau:

a, Quán triệt đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo được nêu trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng; xử lý đúng đắn 10 mối quan hệ lớn trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đây là các nguyên tắc chung, bao trùm chi phối toàn bộ sự phát triển của đất nước hiện nay và giai đoạn tiếp theo.

 b, Đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; giữa phát triển bên trong và tranh thủ bên ngoài, trong đó giữ ổn định, phát triển bên trong có vai trò quyết định.

c, Luôn xác định các hướng ưu tiên, khâu đột phá trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu, phục vụ mục tiêu phát triển, nhất là trong điều kiện có những tác động bất lợi từ bên ngoài. Đây là cơ sở để tạo đột biến trong phát triển.

 

3. Định hướng một số giải pháp cơ bản trong thời gian tới

 Một là, đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về thuận lợi và khó khăn, nội dung cơ bản các văn kiện Đại hội, nhiệm vụ, mục tiêu, các nhóm biện pháp cụ thể thực hiện các chỉ tiêu ngay sau Đại hội Đảng, cũng như sớm kiện toàn các cơ quan trong hệ thống chính trị của nhiệm kỳ mới. Mục tiêu, hệ chỉ tiêu cần đạt trong mỗi giai đoạn cần phải quán triệt sâu rộng, thiết thực, hiệu quả tới tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân, các cấp, các ngành trong cả nước. Lòng tin, sự kỳ vọng vào một giai đoạn mới, khát vọng phát triển là một động lực quan trọng để biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hành động cách mạng cụ thể. Tuy nhiên, việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phải dựa trên kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, có lộ trình, điều kiện đảm bảo và rõ trách nhiệm. Vì thế yêu cầu kiện toàn bộ máy lãnh đạo, các cơ quan trong hệ thống chính trị ngay từ đầu nhiệm kỳ là hết sức quan trọng để tổ chức thực hiện.

   Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị xã hội của các cơ quan công quyền, đẩy nhanh quá trình xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số trong điều kiện mới. Thể chế phát triển, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khi được hoàn thiện có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường pháp lý minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy hiệu quả các đột phá chiến lược, các giải pháp để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính hiện đại, xây dựng đội ngũ cán bộ công quyền chuyên nghiệp; đổi mới mạnh mẽ việc phân cấp, phân quyền, từng bước cụ thể hóa các mục tiêu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số đứng trong nhóm 50 và môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu thế giới.

  Ba là, tiếp tục thúc đẩy đi vào chiều sâu việc cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Cơ cấu lại nền kinh tế trong điều kiện cách mạng công nghiệp lầ thứ tư ở Việt Nam phải được thực hiện quyết liệt, thực chất. Mô hình tăng trưởng phải hướng tới năng xuất, sức cạnh tranh dựa trên khoa học và công nghệ. Do vậy, đẩy nhanh phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh, các mô hình sản xuất kinh doanh mới. Cần cơ cấu lại đầu tư theo các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên, nhất là các chỉ tiêu có tính động lực, phản ánh chất lượng tăng trưởng. Xây dựng và hoàn thiện nền tài chính quốc gia hiện đại, đảm bảo hiệu  quả hoạt động, năng lực cạnh tranh, tính minh bạch và áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

 Bốn là, trong điều kiện mới, việc thực hiện các chỉ tiêu phục vụ mục tiêu phát triển phụ thuộc rất nhiều vào khoa học, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực, các lĩnh vực văn hóa, xã hội con người. Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế, có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ, lấy doanh nghiệp làm trung tâm.Tiếp tục mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường khoa học, công nghệ gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu. Phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, coi đó là động lực chính để tăng trưởng kinh tế. Thúc đẩy sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn, lý luận chính trị. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.

Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, quản lý xã hội. Tạo sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, gắn đào tạo với sử dụng, đặc biệt là những lĩnh vực, mục tiêu đất nước ưu tiên..Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, an toàn trong gia đình, nhà trường và xã hội. Nâng cao chất lượng dân số, sức khỏe cho người dân. Phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu theo Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.

  Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong thực hiện các chỉ tiêu phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Việc giảm dần các chỉ tiêu pháp lệnh trong thiết kế mô hình phát triển là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới, điều này cũng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Do đó vai trò lãnh đạo, định hướng của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng. Các cấp ủy Đảng căn cứ theo chủ trương chung, xác định các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm để lãnh đạo việc tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp phải có chương trình hành động cụ thể, nâng cao hiệu quả quản trị công, xây dựng bộ máy công quyền hoạt động hiệu lực, hiệu quả; huy động các nguồn lực, đặc biệt là các nguồn lực ngoài ngân sách. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu, các mục tiêu cũng như xử lý kịp thời các vấn đề đặt ra trong thực tiễn./.

                                       PGS.TS Phạm Văn Linh

                                         Phó Chủ tịch Hội Đồng lý luận TW

 

 

       



[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB CTQGST.H. 2021. Tr 112

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB CTQGST.H. 2021. Tr 114

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết