Cách tiếp cận
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ cần được đặt trong tổng thể các mối quan hệ sau:
1. Đặt trong tổng thể đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với tư cách là hạt nhân lãnh đạo chính trị của hệ thống chính trị, trọng tâm là đối với Nhà nước pháp quyền.
2. Đặt trong tổng thể Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới; thống nhất, đồng bộ giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy cao nhất vai trò, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền; với việc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy cao nhất vai trò chủ thể của nhân dân.
3. Đảm bảo sự lãnh đạo của Ban Chấp hàng Trung ương Đảng, mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đối đối với Chính phủ; đồng thời đảm bảo cho Chính phủ hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm theo Hiến pháp và luật pháp của Nhà nước pháp quyền.
4. Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ, với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, đối với nền hành chính quốc gia từ Trung ương xuống cơ sở; có sự phân công, phân cấp hợp lý, hiệu quả giữa các cấp.
5. Đảm bảo phát huy cao nhất vai trò, trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý - quản trị phát triển của Chính phủ đối với sự phát triển tất cả các lĩnh vực của đất nước theo các nguyên tắc pháp quyền, thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước theo đường lối, chủ trương của Đảng; đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước, nhất là trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi đột biến, khó lường.
6. Xác định rõ nội dung, phương thức, chế độ trách nhiệm lãnh đạo chính trị của Đảng đối với Chính phủ (và đối với nền hành chính các cấp nói chung).
II. Nhận thức và các quy định về Đảng lãnh đạo Chính phủ trong tổng thể Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhà nước pháp quyền
1. Một số đặc điểm hoạt động của Chính phủ trong thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Phương thức lãng đạo của Đảng đối với Chính phủ được chế định bởi nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung (đồng bộ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp), được nêu trong các Văn kiện của Đảng; đồng thời phải tôn trọng và đảm bảo để Chính phủ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ hành chính - hành pháp theo các nguyên tắc pháp quyền được hiến định trong Hiếp pháp 2013 và chế định trong Luật Tổ chức Chính phủ.
Trong Hiến pháp 2013 đã chế định rõ[1]: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ”. Trong Hiến pháp 2013 cũng đã chế định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ; nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ; nhiệm vụ và quyền hạn của các Bộ trưởng[2].
Trong Luật Tổ chức Chính phủ 2019 đã cụ thể hóa và chế định rõ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ; nhiệm vụ và quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ trong tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật và trong hoạch định chính sách và trình dự án luật, pháp lệnh[3]. Đồng thời chế định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ (bao gồm 22 nhóm nhiệm vụ) về quản lý và phát triển tất cả các lĩnh vực của đất nước; chế định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ. Điều đó cho thấy, Chính phủ phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và luật pháp, và quản lý xã hội bằng pháp luật, bao quát tất cả các lĩnh vực của đất nước.
2. Quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ
Sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư đối với Chính phủ thông qua Ban Cán sự Đảng Chính phủ, được thể hiện tập trung ở các quy định do Ban chấp hành Trung ương ban hành[4], trong đó xác định rõ Ban Cán sự đảng Chính phủ do Bộ Chính trị quyết định thành lập; có chức năng “lãnh đạo, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; tuân thủ Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, kết luật của Đảng; chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những đề xuất và quyết định của mình”. Đồng thời cũng quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ban Cán sự đảng Chính phủ; nguyên tắc, chế độ làm việc của Ban Cán sự đảng Chính phủ, trong đó nêu rõ: Ban cán sự làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, quyết định theo đa số và đề cao trách nhiệm của mỗi thành viên Ban cán sự.
Bộ Chính trị cũng đã ban hành “Quy chế về quan hệ công tác giữa Ban cán sự đảng Chính phủ với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, với các đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương, đảng ủy các đơn vị sự nghiệp Trung ương, các ban đảng Trung ương và các tinh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương”[5]. Trong đó nêu rõ trong quan hệ công tác giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản sau: “Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng; thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”; “Phù hợp với nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, tồ chức đã được quy định tại Điều lệ Đảng, Hiến pháp, pháp luật”. “Bảo đảm việc tham mưu giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ…Đồng thời, phát huy sự chủ động linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp, pháp luật”; “Bảo đảm kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả trên cơ sở hợp tác, phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cơ quan, tổ chức hoàn thành tốt nhiệm vụ”. “Ban Cán sự đảng Chính phủ thảo luận, lãnh đạo, chỉ đạo Chính phủ triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước”. Bí thư Ban cán sự đảng Chính phủ là người đứng đầu Ban cán sự chỉ đạo chung sự hoạt động của ban cán sự “theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, quyết định theo đa số và đề cao trách nhiệm của mỗi thành viên Ban cán sự”. Điều này cho thấy có sự khác biệt về thẩm quyền, trách nhiệm và cơ chế làm việc của Bí thư ban cán sự đảng với thẩm quyền và trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ theo luật định.
III. Yêu cầu và những vấn đề đặt ra
Trong quá trình đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung, đối với Chính phủ và nền hành pháp nói riêng, từng bước được đổi mới (như đã nêu trong Văn kiện các Đại hội của Đảng), góp phần quan trọng vào nâng cao năng lực và chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Tuy nhiên, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (trong đó có Chính phủ) vẫn còn những bất cập, như đã được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao” (Báo cáo Chính trị); “Việc thể chế hoá, cụ thể hoá một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi. Cải cách hành chính trong Đảng còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu” (Báo cáo Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ đảng). Đứng trước yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, trọng tâm là đối với Nhà nước. Việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, trong đó có Chính phủ, đang đặt ra một số vấn đề chủ yếu sau:
1. Nhận thức về “đảng lãnh đạo”, “đảng cầm quyền”, về phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước, trong đó có Chính phủ, vẫn còn những bất cập, chưa rõ. Mối quan hệ giữa hai chủ thể “đảng lãnh đạo - cầm quyền” và “Nhà nước quản lý”, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật, vẫn chưa được nhận thức đầy đủ và chế định rành mạch.
Nhận thức và thực tiễn việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước gắn đồng bộ với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân vẫn còn những bất cập; nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, để Đảng không rơi vào tình trạng lạm quyền, bao biện làm thay các công việc Nhà nước, trái lại phát huy được cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền, nhưng cũng không hạ thấp, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhất là trong hệ thống hành pháp. Đây là vấn đề rất hệ trọng cả về lý luận và thực tiễn, cần phải được tiếp tục làm rõ và chế định phù hợp.
2. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo sự thống nhất quyền lực nhà nước, đồng thời phải phù hợp với từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhưng hiện nay vẫn còn những vấn đề chưa hợp lý. Về phương diện pháp lý, lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp có bản chất và cơ chế vận hành khác nhau; do đó, nội dung, phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với từng lĩnh vực hoạt động nhà nước đó cũng có khác nhau; cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn để làm rõ hơn nội dung, phương thức, cơ chế Đảng lãnh đạo trong thể chế dân chủ pháp quyền, đối với lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
3. Đổi mới sự lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ (và nền hành chính - hành pháp nói chung) phải đảm bảo sự gắn kết hữu cơ giữa yêu cầu tuân thủ nguyên tắc “thực hiện đúng đường lối, chủ trương, định hướng…” của Đảng, với yêu cầu Chính phủ phải bám sát thực tiễn, năng động, sáng tạo trong thực hiện thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; đồng thời từ thực tiễn kịp thời đề xuất với Đảng những vấn đề quan trọng về đổi mới, bố sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, định hướng lãnh đạo chính trị của Đảng. Đảm bảo cho Chính phủ thực hiện có hiệu lực, hiệu quả cao chức năng “là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp” trong thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4. Ban cán sự đảng Chính phủ (gồm Bí thư Ban cán sự và các thành viên Ban cán sự) là một tổ chức lãnh đạo của Đảng, đồng thời về mặt chính quyền lại là Thủ tướng Chính phủ, các phó thủ tướng Chính phủ và một số thành viên khác của Chính phủ, do đó vấn đề “hài hòa” hợp lý, hợp pháp, hiệu quả giữa các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng (của Ban cán sự đảng) với các nguyên tắc hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền là vấn đề rất quan trọng; cần được tiếp tục làm rõ và hoàn thiện trong cơ chế lãnh đạo của Đảng, Ban cán sự đảng Chính phủ đối với Chính phủ.
5. Chính phủ tuân thủ thực hiện sự lãnh đạo của Đảng (Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) chủ yếu thông qua sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự đảng Chính phủ; nhưng “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất…, thực hiện quyền hành pháp” không chỉ đối với “nội bộ” Chính phủ, mà còn đối với tất cả các bộ, ngành, với toàn bộ nền hành chính các cấp từ Trung ương xuống cơ sở theo các nguyên tắc pháp quyền thống nhất (dù có sự phân công, phân cấp quyền lực). Điều này đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện chức năng và phương thức lãnh đạo của của Đảng, của Ban Cán sự đảng Chính phủ trong quan hệ với hệ thống cấp ủy đảng, tổ chức đảng trong các bộ, ngành và trong chính quyền các cấp, để đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng trong nền hành chính - hành pháp của cả nước.
Đồng thời, theo Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ, cũng như Quy chế làm việc của Ban cán sự đảng Chính phủ do Bộ Chính trị ban hành, Chính phủ có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quản lý, phát triển tất cả các lĩnh vực của đất nước. Đối với mỗi lĩnh vực đều có yêu cầu, nội dung, khung khổ pháp lý và cơ chế quản lý của Nhà nước (Chính phủ) khác nhau. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, cụ thể hóa, thể chế hóa đồng bộ, phù hợp, hiệu quả nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ phù hợp với từng lĩnh vực.
6. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới, trong đó có nhiệm vụ xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển - quản trị phát triển, “phải coi trọng đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội”[6]. Điều này đặt ra vấn đề tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ (và nền hành chính - hành pháp nói chung), gắn liền với tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Chính phủ đáp ứng với yêu cầu nâng cao năng lực kiến tạo phát triển, hiệu lực, hiệu quả quản lý - quản trị phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
7. Trong Văn kiện của Đảng qua các nhiệm kỳ Đại hội, và lại được nhấn mạnh tại Đại hội XIII là vấn đề lãnh đạo tổ chức thực hiện vẫn là một trong những khâu yếu nhất. Điều này nói lên sự lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ương xuống cơ sở vẫn đang có những vấn đề chưa phù hợp, hiệu lực và hiệu quả chưa cao cả trong sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng và trong cơ chế hoạt động chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền; đồng thời, năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu, một bộ phận không nhỏ bị suy thoái biến chất. Đây là vấn đề cần được kiên quyết khắc phục trong giai đoạn mới.
8. Thể chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và trong Nhà nước chưa được chế định đầy đủ, đồng bộ, phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; vừa chưa ngăn chặn được triệt để tình trạng vi phạm các nguyên tắc của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước, đồng thời cũng chưa có đủ cơ chế để đẩy mạnh đề cao tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của các cấp lãnh đạo trong Đảng và trong Nhà nước, nhất là những người đứng đầu, theo nguyên tắc mà Bác Hồ đã chỉ rõ “việc gì có lợi cho dân thì gắng mà làm, việc gì có hại cho dân thì gắng mà tránh”. Đây là một trong những nhiệm vụ cần được kiên quyết khắc phục đồng bộ trong thời gian tới.
IV. Một số định hướng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ trong giai đoạn mới
1. Cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn để nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn, đúng hơn về “Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm quyền”, “phương thức lãnh đạo”, “phương thức cầm quyền” trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Đảng lãnh đạo cách mạng Việt nam, lãnh đạo Nhà nước”, “Đảng ta là đảng cầm quyền”; đồng thời cũng nói rõ “Nhà nước của dân - do dân - vì dân”, “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Như vậy, cần nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền”. Hiện nay, trên thế giới cũng như trong nước ta, đang dùng hai khái niệm “Đảng lãnh đạo Nhà nước” và “Đảng cầm quyền”. Hai khái niệm này đều thể hiện một bản chất cốt lõi chung là một đảng chính trị đang nắm quyền lực lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước; tuy nhiên, khái niệm “Đảng lãnh đạo Nhà nước” thiên hàm ý về phương diện lãnh đạo chính trị của một đảng đối với nhà nước, còn khái niệm “Đảng cầm quyền” thiên về hàm ý đảng trực tiếp “nắm và sử dụng” quyền lực nhà nước. Bản chất cơ bản nhất của mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhà nước (và xã hội) trong “Thể chế pháp quyền” là sự chế định tương hỗ về quyền, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình giữa chủ thể Đảng lãnh đạo - cầm quyền với Nhà nước quản lý (và vai trò chủ thể của nhân dân), theo các nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật. Đảng không phải là đại diện pháp lý cho đất nước, cho xã hội; đảng không thể “đứng trên” Nhà nước, không thể “sử dụng” Nhà nước làm “công cụ” riêng của đảng để “quản lý” xã hội; Nhà nước là một thiết chế pháp quyền độc lập theo Hiến pháp.
Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền là mối quan hệ giữa một tổ chức chính trị được nhân dân “ủy thác” trách nhiệm chính trị đứng ra “lãnh đạo” (“cầm quyền”) Nhà nước, với thiết chế Nhà nước được nhân dân thành lập bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện quyền lực nhà nước theo sự “ủy quyền” của nhân dân. Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng đối với Nhà nước rất quan trọng, nhưng trong thể chế pháp quyền, Nhà nước mới là trung tâm, là cầu nối cơ bản nhất, chủ yếu nhất mang tính pháp lý giữa Đảng (cầm quyền) với xã hội (nhân dân).
Mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng (cầm quyền) mang tính hai mặt: một mặt, chịu sự lãnh đạo chính trị của Đảng cầm quyền, có trách nhiệm thể chế hóa chủ trương, chính sách phát triển của đảng cầm quyền thành cơ chế, chính sách của nhà nước; mặt khác, Nhà nước phải thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công quyền được chế định trong Hiến pháp và pháp luật và chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội. Mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhà nước (và thông qua Nhà nước với xã hội - nhân dân) chứa đựng tổng hợp rất nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, đạo đức, xã hội…Tính hiệu lực, hiệu quả của mối quan hệ giữa ba chủ thể Đảng lãnh đạo - cầm quyền với Nhà nước pháp quyền và xã hội (nhân dân) tạo thành “cỗ xe tam mã” để tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Trong đó, Đảng cầm quyền có vai trò định hướng chính trị cho sự phát triển và hoạt động của cả Nhà nước và xã hội; Nhà nước đóng vai trò trung tâm của thể chế pháp quyền; còn xã hội (nhân dân, và các tổ chức trong xã hội) đóng vai trò chủ thể mục tiêu và động lực của sự phát triển. Cả sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đều phải hướng tới phục vụ cho sự phát triển quyền và lợi ích của chủ thể mục tiêu này, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Khái niệm “Đảng lãnh đạo” được hiểu là Đảng đề ra Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, tuyên truyền vận động nhân dân tin theo và Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện. Các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện vai trò tiền phong, gương mẫu, phụng sự Tổ Quốc, phục vụ nhân dân để giành được sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân đối với Đảng, đi theo Đảng, nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng đề ra. Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm Đảng lãnh đạo rất cụ thể và sâu sắc: “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và làm cho tốt”[7]; “Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”[8], có như vậy nhân dân mới tin, tín nhiệm và đi theo. Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ rằng: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”[9]. Như vậy trong khái niệm “Đảng lãnh đạo” chứa đựng nội dung bản chất về uy tín - tín nhiệm - thừa nhận - ủng hộ - đi theo của quần chúng nhân dân đối với Đảng, khi Đảng có Cương lĩnh, đường lối đúng thể hiện được ý chí, nguyện vọng và lợi ích của đai đa số nhân dân. Trong bản chất, sự lãnh đạo của Đảng không có quyền lực áp đặt (nhất là quyền lực nhà nước, quyền lực pháp luật); hay nói đúng hơn Đảng lãnh đạo bằng “quyền lực mềm” ở uy tín chính trị của mình.
“Đảng cầm quyền” là Đảng “nắm chính quyền”, trực tiếp lãnh đạo chính quyền. Khi Đảng được cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được thể hiện qua sự tín nhiệm của nhân dân trao cho quyền thành lập và lãnh đạo Nhà nước; đồng thời Đảng thực hiện sự “cầm quyền” bằng thông qua nhà nước - bằng con đường pháp luật (pháp quyền) mà nhân dân ủy quyền cho nhà nước để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Như vậy, Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước (Chính phủ), thông qua quyền lực nhà nước để thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của mình và qua Nhà nước để thực hiện chúng trong toàn xã hội, chứ không phải Đảng đưa ra các quyết định nhân danh đảng buộc Nhà nước và xã hội phải tuân theo[10]. Khái niệm “Đảng cầm quyền” còn được hiểu là thông qua các tổ chức đảng và những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà nước (Chính phủ). Như vậy, Đảng cầm quyền là một khái niệm gắn với quyền lực nhà nước, còn “Đảng lãnh đạo” không tất yếu gắn với quyền lực Nhà nước.
Do vậy, hoạt động của Đảng cầm quyền vừa có “sự lãnh đạo”, vừa có “sự cầm quyền”, với các phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có những nội dung khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau. Trong đó bản chất và phương thức lãnh đạo đúng đắn, khoa học, “tất cả vì lợi ích của nhân dân”, tạo được niềm tin và sự tín nhiệm trong nhân dân phải là nền tảng cốt lõi của sự cầm quyền của Đảng. Chính vì vậy, trong Di chúc, Bác Hồ viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[11]. Bác đã nói rất rõ: “là một đảng cầm quyền…phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân”, chứ không phải là tổ chức đứng trên Nhà nước và nhân dân. Tất cả những điều này đều trực tiếp gắn với hoạt động của Chính phủ, của nền hành chính - hành pháp nói chung.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống cơ chế, phương pháp, hình thức, biện pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện sự lãnh đạo chính trị (tác động lên) hệ thống chính trị và toàn xã hội nhằm hiện thực hóa Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối, quan điểm, mục tiêu của Đảng trong thực tiễn. Phương thức lãnh đạo của Đảng tập trung chủ yếu ở việc xác định đúng đắn đường lối, mục tiêu thể hiện trong Cương lĩnh, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục để nhân dân tin tưởng, tự nguyện làm theo, thực hiện thắng lợi đường lối, mục tiêu của Đảng. Còn phương thức cầm quyền của Đảng tập trung chủ yếu ở thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, thể chế, cơ chế của Nhà nước và lãnh đạo - chỉ đạo tổ chức thực hiện bằng hệ thống pháp luật nhà nước nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách mục tiêu của Đảng đề ra. Như vậy, khi Đảng cầm quyền, phương thức cầm quyền của Đảng phải là sự kế tiếp, gắn kết hữu cơ - biện chứng với phương thức lãnh đạo. Sự “lãnh đạo” và “cầm quyền” là hai phương diện có quan hệ gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với nhau khi Đảng cầm quyền. nhận thức đúng chức năng lãnh đạo chính trị và chức năng cầm quyền của Đảng, mối quan hệ giữa đảng lãnh đạo chính trị và Nhà nước quản lý trên nền tảng pháp quyền là cơ sở để xác lập phương thức lãnh đạo - cầm quyền đúng đắn của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Có thể nói phương thức cầm quyền của Đảng là một “phương thức lãnh đạo đặc biệt” của Đảng khi được trao sứ mệnh trực tiếp lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Nhận thức đầy đủ, đúng đắn những vấn đề nêu trên là cơ sở để không lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo chính trị của Đảng với chức năng quản lý xã hội theo pháp luật của Nhà nước; khắc phục cả tình trạng Đảng bao biện, làm thay, lấn sân sang nhiệm vụ của Nhà nước, cả tình trạng buông lỏng, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, nhất là đối với hệ thống hành pháp.
2. Xác định rõ hơn nội dung và hoàn thiện các phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng đối với Chính phủ
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với Chính phủ nói riêng, phụ thuộc trước hết ở xác định vai trò và nội dung lãnh đạo chính trị của Đảng, vào cách thức tổ chức thực hiện (hiện thực hóa) sự lãnh đạo đó đối với Nhà nước, Chính phủ. Cương lĩnh của Đảng năm 2011 và tiếp đó là các Nghị quyết Đại hội Đảng đã khảng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Nội dung Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước thể hiện trên các phương diện chủ yếu sau: i) - Đảng quyết định đường lối chính trị cho sự phát triển đất nước; ii) - Đảng lãnh đạo xây dựng đồng bộ “Thể chế nhà nước pháp quyền của dân - do dân - vì dân”; iii) - Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối của Đảng thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước và lãnh đạo tổ chức thực hiện trong toàn xã hội; iv) - Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống Nhà nước; v) - Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ (và hệ thống hành pháp nói chung) phải bao hàm đầy đủ, đồng bộ các nội dung trên, đồng thời cần phải được cụ thể hóa phù hợp với lĩnh vực hành chính - hành pháp, mà điểm cơ bản chất là Chính phủ (và hệ thống hành pháp nói chung) hoạt động theo các nguyên tắc pháp quyền, chế độ thủ trưởng.
Cương lĩnh của Đảng đã nêu lên các phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội[12]. Các phương thức lãnh đạo đó đều cần được cụ thể hóa phù hợp đối với từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Riêng đối với Chính phủ (nền hành chính - hành pháp nói chung) cần đặc biệt chú trọng cụ thể hóa và thể chế hóa các phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ (nền hành chính - hành pháp nói chung):
(1) - Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn về phát triển đất nước
Điều này đặt ra yêu cầu trong các Nghị quyết của Đảng (đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, kết luật của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) cần nêu rõ các nội dung mà Ban cán sự đảng Chính phủ phải lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa, thể chế hóa và lãnh đạo tổ chức thực hiện theo đúng chức năng của Chính phủ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong bối cảnh hiện nay, trước những thay đổi nhanh, đột biến của tình quốc tế, có nhiều có hội lớn đồng thời cũng có nhiều thách thức nghiêm trọng; trước yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước, đòi hỏi các nội dung lãnh đạo của Đảng phải có “tầm nhìn vượt trước”, đặt ra các yêu cầu, trách nhiệm và “không gian chủ động, sáng tạo” làm cơ sở định hướng cho sự lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ đối với Chính phủ trong việc cụ thể hóa, thế chế hóa, xây dựng cơ chế, chính sách và chỉ đạo, điều hành thích ứng nhanh, linh hoạt, hiệu quả trong giai đoạn mới.
Đồng thời, trên thực tế, Chính phủ (dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự đảng) còn được giao chủ trì và tham gia xây dựng nhiều chủ trương, nghị quyết, định hướng chính sách trình Trung ương, Bộ Chính trị. Điều này cần được thể chế hóa rõ hơn về nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, trách nhiệm giải trình của Ban án sự đảng Chính phủ về nâng cao hơn chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ này. Mặt khác, “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”, nhưng đang thực hiện nhiệm vụ quan trọng gắn trực tiếp với công tác lập pháp là xây dựng các dự thảo luật, pháp lệnh, chính sách để trình Quốc hội xem xét, thông qua. Việc xây dựng dự thảo luật, pháp lệnh, chính sách trình Quốc hội đều nhằm cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Đây cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng của Ban cán sự đảng Chính phủ đối với việc lãnh đạo Chính phủ, cần được chế định rõ hơn cả về thẩm quyền, trách nhiệm, quy trình nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả xây dựng thể chế, luật pháp, chính sách; tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”, cục bộ, “lợi ích nhóm” có thể xẩy ra.
(2) - Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền cần xác định rõ cơ chế thực hiện “phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước” - xét từ phương diện lãnh đạo Chính phủ.
Trong điều kiện là đảng duy nhất cầm quyền, để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực theo con đường pháp quyền, thì Đảng phải dựa vào (và thông qua) Nhà nước, vào hệ thống hành chính - hành pháp đứng đầu là Chính phủ, để cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành các cơ chế, chính sách của nhà nước và được thực thi trong thực tiễn. Song cần khắc phục nhận thức sai lệch khi “coi” Nhà nước, Chính phủ chỉ là “công cụ”, “phương tiện”, “cánh tay nối dài” của Đảng để “quản lý” xã hội. Nhà nước là một thiết chế quyền lực pháp lý, do nhân dân lập nên thông qua Hiến pháp; sự lãnh đạo chính trị của Đảng không phải là quyền lực pháp lý đối với xã hội; sự lãnh đạo chính trị đó phải được “hóa thân” thành các chế định pháp lý của Nhà nước, mà Chính phủ (và nền hành chính - hành pháp nói chung) có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện trên toàn xã hội theo các nguyên tắc pháp quyền. Sự “hóa thân” này được thể hiện tập trung ở vai trò, chức năng lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ, vừa với tư cách là tổ chức lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với Chính phủ, vừa đồng thời là tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu theo pháp luật trong thực tiễn. Có thể nói, mối quan hệ giữa Ban cán sự đảng Chính phủ và Chính phủ là mối quan hệ “hai trong một”, “một mà là hai”, sự “hóa thân” này đặt ra yêu cầu “kép”, đó là: (i) - Mọi tổ chức đảng và đảng viên trong Chính phủ phải đề cao tính đảng, quán triệt các nguyên tắc lãnh đạo chính trị của Đảng (Ban cán sự Đảng), nêu gương đạo đức cầm quyền, trước hết là những người đứng đầu; (ii) - Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó thủ tướng Chính phủ và các thành viên chính phủ, cùng với mọi cán bộ, công chức đều phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật, đề cao đạo đức công vụ. Điểm quy tụ cơ bản nhất của mối quan hệ này là phải hướng tới và đảm bảo tạo động lực cho sự phát triển năng động, sáng tạo, nhanh - bền vững đất nước. Về vấn đề này, rất cần thấu suốt ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn: “Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”, “Không thể buông lỏng lãnh đạo các cơ quan chính quyền, song cũng không thể bao biện công việc của chính quyền”, “Chống khuynh hướng coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước”, “Việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý của nhà nước”, “Đảng không thể nào thực hiện được sự lãnh đạo của mình đối với xã hội mà không thông qua chính quyền nhà nước”, “Đảng cầm quyền thì phải không ngừng làm cho chính quyền vững mạnh”, “Hiệu lực của bộ máy nhà nước chính là biểu hiện năng lực lãnh đạo của Đảng và thông qua bộ máy nhà nước”, “Sức mạnh của Đảng cầm quyền và sức chiến đấu của nó biểu hiện chính là ở hiệu lực và sức mạnh của bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng”[13]. Như vậy, đòi hỏi phải xử lý một cách rất khoa học - rất thực tiễn giữa hai vấn đề “khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”, đồng thời “chống quan niệm phân công máy móc, tách rời hoạt động của cấp ủy Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”, “đối lập giữa việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc nâng cao vai trò và hiệu lực của chính quyền nhà nước”. Đó là những luận điểm rất quan trọng gợi mở cho việc nhận thức đúng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với Chính phủ nói riêng. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn và chế định cơ chế lãnh đạo của Đảng phù hợp, hiệu lực, hiệu quả hơn đối với Nhà nước nói chung và đối với Chính phủ nói riêng.
(3) - Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong hệ thống hành pháp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Phương thức lãnh đạo này của Đảng đối với Chính phủ cũng cần được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện, gắn với đặc điểm mang tính đặc thù của hệ thống hành pháp. Trong Điều lệ đảng quy định[14] “hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước…; có chức năng lãnh đạo toàn diện ở mỗi cấp và của toàn Đảng”, đảm bảo cho hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và phát luật. Điều này đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Ban cán sự đảng Chính phủ về một số phương diện sau:
Một là, cơ cấu tổ chức của Ban cán sự đảng Chính phủ hiện nay bao gồm: Thủ tướng Chính phủ (Bí thư Ban cán sự), các Phó Thủ tướng Chính phủ, và một số ít bộ trưởng. Nhưng Chính phủ có chức năng, nhiệm vụ phải lãnh đạo, chỉ đạo quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện tất cả các lĩnh vực của đất nước; do đó, để nâng cao năng lực và chất lượng lãnh đạo toàn diện của Ban cán sự đảng, sẽ là cần thiết (và hợp lý) khi cơ cấu tổ chức của Ban cán sự đảng Chính phủ bao gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và tất cả bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ (khi đó có thể nghiên cứu hình thành bộ phận Thưởng trực của Ban cán sự đảng Chính phủ).
Hai là, về cơ chế lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ đối với Chính phủ và cơ chế quan hệ công tác của Ban cán sự đảng Chính phủ với các tổ chức đảng ở các cơ quan Trung ương và địa phương cũng cần được nghiên cứu hoàn thiện. Theo các quy định hiện hành của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo Chính phủ, Thủ tưởng Chính phủ; còn Ban cán sự đảng các bộ (do Ban Bí thư quyết định và trực thuộc Ban bí thư) lãnh đạo, chỉ đạo Bộ trưởng và tập thể lãnh đạo các bộ; giữa Ban cán sự Đảng Chính phủ và Ban cán sự đảng các Bộ chỉ là quan hệ “phối hợp”, không có những quy định mang tính ràng buộc với nhau về trách nhiệm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cũng như công tác cán bộ[15]. Nhưng theo luật định, Chính phủ (bao gồm cả cả các bộ trưởng), Thủ tướng Chính phủ lại có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo nền hành chính - hành pháp của cả nước thống nhất từ trung ương xuống cơ sở, bao gồm tất cả các bộ, ngành, trên tất cả các lĩnh vực. Điều này cho thấy về mặt lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đang không có sự “liền mạch” trong sự lãnh đạo giữa Ban cán sự đảng Chính phủ với Ban can sự đảng các bộ, ngành, làm cơ sở cho việc thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo các quy định của pháp luật. Xét về yêu cầu Đảng phải lãnh đạo để đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành, quản lý thống nhất về chuyên môn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với tất cả các bộ, ngành, lĩnh vực, thì cần nghiên cứu chế định cơ chế mang tính ràng buộc về trách nhiệm lãnh đạo giữa Ban cán sự đảng Chính phủ và Ban cán sự đảng các bộ, ngành (không thể đơn thuần là cơ chế “phối hợp”).
Ba là, hiện nay, tại Chính phủ và Văn phòng Chính phủ (cũng như tại các Bộ) đang tồn tại hai tổ chức đảng: Ban cán sự đảng Chính phủ (trực thuộc Bộ Chính trị) và Đảng bộ Văn phòng Chính phủ (trực thuộc Đảng ủy khối các cơ quan Trung ương). Đảng bộ Văn phòng Chính phủ có chức năng lãnh đạo đảm bảo (trong đó có cả công tác cán bộ tại Văn phòng Chính phủ) để bộ máy Văn phòng Chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Cùng một “đối tượng” lãnh đạo và phục vụ lãnh đạo là Chính phủ, nhưng hai tổ chức đảng này lại trực thuộc hai cấp trên khác nhau với chức năng và quyền hạn lãnh đạo khác nhau; hơn nữa giữa Ban cán sự đảng Chính phủ và Đảng ủy Văn phòng Chính phủ phải có một “quy chế phối hợp” công tác là “không phù hợp” trong một cơ quan hành chính cao nhất của đất nước. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu để hình thành một tổ chức đảng thực hiện cả chức năng của Ban cán sự đảng Chính phủ và chức năng của Đảng bộ Văn phòng Chính phủ; phù hợp với quy định trong Điều lệ Đảng là “hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước…; có chức năng lãnh đạo toàn diện ở mỗi cấp và của toàn Đảng”.
Bốn là, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ban can sự đảng Chính phủ là rất quan trọng; một mặt chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, mặt khác trực tiếp lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa, thế chế hóa và chỉ đạo tổ chức, quản lý thực hiện trên thực tế. Nhưng Ban cán sự đảng Chính phủ không phải là một tổ chức đảng có biên chế chuyên trách, không có cơ quan tham mưu giúp việc, Văn phòng Ban cán sự chỉ có mấy cán bộ làm công tác hành chính; do đó, để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ (và cũng chính là của Chính phủ), cần nghiên cứu thành lập một tổ chức nghiên cứu chiến lược, chính sách quản lý - quản trị phát triển quốc gia, làm tham mưu cho Chính phủ, Ban cán sự đảng Chính phủ; đồng thời, cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Ban cán sự đảng Chính phủ với Ban cán sự đảng các bộ, ngành, với các cơ quan chức năng của các Bộ, ngành trong việc phối hợp nghiên cứu xây dựng các đề án trình Trung ương, các nội dung và giải pháp lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ.
(4) - Xác định rõ hơn và hoàn thiện các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ (và hệ thống hành chính - hành pháp nói chung), để đảm bảo nâng cao năng lực, hiệu lực lãnh đạo - cầm quyền của đảng, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của Chính phủ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trước hết, cần xác định rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ (và đối với nền hành chính - hành pháp nói chung) được thể hiện ở hai cấp độ: cấp độ định hướng chính trị đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước của Đảng thể hiện trong các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban bí thư); cấp độ lãnh đạo cụ thể hóa, thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách của nhà nước thông qua sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự đảng Chính phủ đối với Chính phủ. Dù Ban cán sự đảng đã “hóa thân” rất cao vào bộ máy của Chính phủ, thì cũng cần xác định sự lãnh đạo của Đảng không “lấn sang” quyết định thay, hay can thiệp sâu vào thẩm quyền và những hoạt động của Chính phủ được chế định theo Hiến pháp và pháp luật. Ở đây đòi hỏi phải kết hợp rất có hiệu quả nguyên tắc “tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách” của Đảng với nguyên tắc “tập trung dân chủ, chế độ thủ trưởng” trong nền hành chính - hành pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo chính trị của Đảng thường bao gồm các định hướng lớn, có tính chất chỉ đạo lâu dài; nhưng hoạt động của Nhà nước, nhất là của hệ thống hành pháp (đứng đầu là Chính phủ) luôn phải “thích ứng”, “hành động kịp thời” với những thay đổi nhanh, đa dạng, đa cấp độ của thực tiễn, nhất là trong bối cảnh thế giới biến đổi đột biến, khó lường, vượt ra ngoài các dự báo. Chính vì vậy, cần đổi mới cách tiếp cận lãnh đạo của Đảng về xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển đất nước, theo đó, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, cần có sự phân cấp theo 4 cấp độ sau: i) - Quy định những vấn đề yêu cầu phải thực hiện đúng các quy định của Trung ương; ii) - Quy định những vấn đề thực hiện theo các quy định của Trung ương có một phạm vi tự chủ nhất định; iii) - Quy định những vấn đề cho phép có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cao, miễn không trái với Hiến pháp và pháp luật hiện hành; iv) - Quy định những vấn đề cho phép làm thí điểm hoặc thực hiện một số chế định (khác với quy định hiện hành, hay chưa có quy định) trong một phạm vi nào đó và trong một thời gian nào đó. Đương nhiên, gắn với đó phải chế định rõ trách nhiệm giải trình về sự lãnh đạo của cả tổ chức đảng gắn với trách nhiệm giải trình của tổ chức nhà nước.
Chính phủ có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý phát triển tất cả các lĩnh vực của đất nước, mỗi lĩnh vực đòi hỏi thể chế, cơ chế quản lý khác nhau; do đó cần thiết phải xác định rõ các nội dung lãnh đạo, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ phù hợp với từng lĩnh vực. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý để đề cao tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của đất nước và nhân dân của Ban cán sự đảng Chính phủ, Chính phủ, của các cấp lãnh đạo đảng và chính quyền, nhất là những người đứng đầu, theo nguyên tắc của Bác Hồ “việc gì có lợi cho dân thì gắng mà làm, việc gì có hại cho dân thì gắng mà tránh”.
Sự phát triển nhanh, mang tính đột biến của tình hình thế giới và trong nước, nhất là dưới tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc, đòi hỏi Đảng (và thông qua Ban cán sự đảng Chính phủ) lãnh đạo để xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Chính phủ (và các bộ, ngành) theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực phù hợp, tinh gọn, không trùng chéo, bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ; hoạt động theo các nguyên tắc pháp quyền, “liêm chính - hành động - chủ động - sáng tạo - hiệu lực - hiệu quả”; hoàn thiện và nâng cao năng lực kiến tạo phát triển - quản trị phát triển, ứng phó năng động, sáng tạo, linh hoạt, kịp thời của Chính phủ trong xây dựng và thực thi thể chế, pháp luật và cơ chế, chính sách phát triển nhanh - bền vững; chế định rõ hơn chế độ trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của lãnh đạo các bộ, nhất là người đứng đầu, về chất lượng xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Lãnh đạo hoàn thiện đồng bộ cơ chế thực thi công vụ; lấy mục tiêu phát triển đất nước, sự hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp làm thước đo cơ bản đánh giá sự lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ, Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp.
(5) - Tiếp tục hoàn thiện thể chế về Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống hành chính - hành pháp, làm cơ sở cho Ban cán sự đảng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chủ động, sáng tạo trong xây dựng, đào tạo, sử dụng, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
Trên cơ sở các nguyên tắc chung về Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị, cần đề cao hơn và chế định cụ thể hơn quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của Ban cán sự đảng Chính phủ và Chính phủ trước Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác cán bộ trong hệ thống hành chính - hành pháp, trước hết là ở các bộ, các ngành, nhất là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Ban cán sự đảng Chính phủ, Chính phủ cần xác định rõ hơn các yêu cầu, tiêu chí, cơ cấu của đội ngũ cán bộ công chức trong nền hành chính - hành pháp, nhất là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý theo nguyên tắc “thực đức - thực tài”; cần hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, đánh giá, đề bạt, sàng lọc phù hợp và kịp thời đối với tất cả các loại cán bộ: chỉ định, bổ nhiệm, bầu cử, thi tuyển. Chế định rõ hơn trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của Ban cán sự đảng Chính phủ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và người đứng đầu các cơ quan trực thuộc Chính phủ về công tác cán bộ; xây dựng cơ chế thực hiện dân chủ hóa, công khai, minh bạch, khắc phục triệt để tình trạng tham nhũng trong công tác cán bộ. Thể chế quản lý công tác cán bộ của Đảng đối với nền hành chính - hành pháp từ Trung ương xuống cơ sở phải gắn liền với thể chế thực thi công vụ ở từng cấp, đảm bảo xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là những người đứng đầu “thực đức - thực tài”, có tín nhiệm cao trong hệ thống công quyền và trong xã hội.
(6) - Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực trong Đảng gắn liền với kiểm soát quyền lực trong Nhà nước và từ phía xã hội, nhất là trong hệ thống hành chính - hành pháp. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý chủ yếu để Đảng thực hiện sự lãnh đạo bằng tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong hệ thống hành pháp.
Trong đó chế định gắn hữu cơ giữa quyền lực với trách nhiệm; kỷ luật đảng với pháp luật nhà nước; tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền gắn với đề cao dân chủ, trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và sáng tạo, trong việc thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Hoàn thiện và công khai hóa cơ chế thực thi công vụ.
Bao trùm lên tất cả, cần nghiên cứu chế định rõ, đồng bộ cơ chế để Đảng (các cấp ủy đảng) thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình đối với Nhà nước và xã hội như đã nêu trong Cương lĩnh của Đảng và Điều 4 của Hiến pháp là: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó nói lên Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền đồng bộ về lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật, không có mục tiêu nào khác hơn, cao hơn mục đích tối thượng xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân, của cả dân tộc; Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng Đảng không “đứng trên” Nhà nước, mà phải đề cao vai trò quản lý - quản trị phát triển xã hội bằng pháp quyền; Đảng không “đứng” ngoài pháp luật, mà phải là biểu tượng tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Đảng chịu trách nhiệm trước Nhân dân về sự lãnh đạo của mình thông qua Nhà nước, trong đó có Chính phủ và hệ thống hành chính - hành pháp.
Cần hoàn thiện “quy trình”, “cơ chế” trong việc thực hiện các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với Chính phủ nói riêng phù hợp với từng lĩnh vực; đồng bộ hóa từ khâu ra nghị quyết lãnh đạo, lãnh đạo cụ thể hóa, thể chế hóa, lãnh đạo tổ chức thực hiện, lãnh đạo giám sát, kiểm tra việc thực hiện, lãnh đạo tổng kết, đánh giá... Trong mỗi “công đoạn” đó cần chế định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân liên quan, nhất là những người đứng đầu. Trong giai đoạn mới, cần phải đẩy mạnh nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, định hướng chính sách và năng lực lãnh đạo cụ thể hóa, thể chế hóa của Đảng; đẩy mạnh khoa học hóa, hiện đại hóa các phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng với yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, gắn với xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số đã được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
PGS.TS Trần Quốc Toản
[1] Hiến pháp 2013, Điều 94 và điều 95.
[2] Hiến pháp 2013, Điều 96, Điều 98, Điều 99, Điều 100 .
[3] Luật tổ chức Chính phủ 2015 sửa đổi 2019, Điều 5, Điều 6, Điều 7.
[4] Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN, Quy định về thi hành Điều lệ Đảng, số 24-QĐ/TW, ngày 30 tháng 7 năm 2021; Quy chế làm việc của Ban Cán sự đảng Chính phủ, số 49-QĐ/TW, ngày 11 tháng 11 năm 2016.
[5] Ban Chấp hành Trung ương, Quyết định số 198-QĐ/TW, ngày 18 tháng 9 năm 2013.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, tr.81.
[7] Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 222. [8] Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 323.
[9] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 3, tr. 139.
[10] Xem: Nguyễn Văn Huyên: Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.36-38.
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tập 12, tr. 510.
[12] 1). Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; 2) Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; 3) Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị; 4) Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu; 5) Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị; 6) Đồng thời khi Đảng cần quyền, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền thì một phương thức lãnh đạo rất quan trọng và cơ bản của Đảng đối với Nhà nước cần được nhấn mạnh là “phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”.
[13] Lê Duẩn, Toàn tập, t. II; Lê Duẩn và cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007
[14] Điều lệ Đảng; Khoản 1, Điều 10.
[15] Trên thực tế, có những đề án, nhiệm vụ Ban Bí thư giao trực tiếp cho Ban cán sự các bộ, và Ban cán sự các bộ báo cáo trực tiếp cho Ban Bí thư; Ban cán sự Đảng Chính phủ cũng không biết và không được hỏi ý kiến. Cũng có trường hợp, Ban cán sự đảng các bộ lại có công văn xin ý kiến của Ban cán sự đảng Chính phủ.