1. Đặt vấn đề
Khi xác định thời điểm ra đời của trường đại học, các nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục đại học phương Tây đã thống nhất với nhau rằng khi nào xuất hiện loại nhà trường có quyền tự chủ (đối với nhà nước và tôn giáo), thì xem như bắt đầu có trường đại học[1]. Ở châu Âu vào khoảng thế kỷ thứ 12, với trường Bologna ở Ý và một số trường khác ở Anh, Pháp. Sau đó khái niệm tự chủ đại học được nhắc đến nhiều nhất với sự ra đời của đại học kiểu Humboldt vào đầu thế kỷ 19 ở Đức, với các tiêu chí: tự chủ, tự do học thuật và gắn kết giữa giảng dạy với nghiên cứu[2]. Anh Quốc coi tự chủ đại học như lý tưởng của đại học, bảo vệ các trường đại học khỏi bị áp lực từ bên ngoài. Nhật Bản hiểu tự chủ đại học trong quan hệ điều phối của Bộ Giáo dục và các bộ liên đới.
Giáo dục đại học Việt Nam gồm hệ thống các trường đại học và một số cơ sở nghiên cứu có tham gia đào tạo trình độ sau và trên đại học, trải qua quá trình hình thành, phát triển đến nay đã hơn 75 năm (tính từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, năm 1945). Chất lượng giáo dục đại học ở một số ngành, lĩnh vực, cơ sở giáo dục đại học có những chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ có trình độ đại học và trên đại học đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, giáo dục đại học chưa vững chắc, chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu học tập của nhân dân và yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Những yếu kém, bất cập về cơ chế quản lý, cơ cấu hệ thống, cơ cấu ngành nghề, mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, quy trình đào tạo, phương pháp giảng dạy và học tập, đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục, hiệu quả sử dụng nguồn lực, những tiêu cực trong thi cử, cấp bằng và một số hoạt động giáo dục khác cần sớm được khắc phục.
Để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, giáo dục đại học nước ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ, cơ bản và toàn diện, trọng tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, xác định tự chủ đại học là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa đột phá để phát triển giáo dục đại học lên một tầm cao mới.
Vận dụng kinh nghiệm quốc tế, trong thập niên đầu đổi mới sau năm 1986 ở nước ta, khái niệm quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học đã được đưa vào Luật Giáo dục đầu tiên năm 1998 và thực thể Hội đồng trường được đưa vào Điều lệ trường đại học đầu tiên năm 2003. Như vậy, có thể hiểu tự chủ đại học ở Việt Nam là tự chủ của cơ sở đào tạo và cơ sở đào tạo có trách nhiệm giải trình xã hội về các hoạt động theo hướng tự chủ của mình. Cơ chế tự chủ bao gồm các điều kiện để thực hiện tự chủ như: có hội đồng trường, hội đồng đại học; có quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính; có quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác; có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định…
2. Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tự chủ đại học
Thể chế hóa chủ trương của Đảng về tự chủ đại học Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam 2006 - 2020, xác định trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại học, kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước và việc đảm bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại học. Phát huy tính tích cực và chủ động của các cơ sở giáo dục đại học trong công cuộc đổi mới mà nòng cốt là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của toàn xã hội Thực hiện hạch toán thu - chi đối với cơ sở giáo dục đại học công lập, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ cao trong thu - chi theo nguyên tắc lấy các nguồn thu bù đủ các khoản chi hợp lý, có tích lũy cần thiết để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu. Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính. Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của cộng đồng; phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát chất lượng giáo dục đại học. Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 ngày 18/6/2012 của Quốc hội khóa XIII quy định quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học: (1). Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục; (2). Cơ sở giáo dục đại học không còn đủ năng lực thực hiện quyền tự chủ hoặc vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tùy thuộc mức độ, bị xử lý theo quy định của pháp luật. Luật đã cho phép các cơ sở giáo dục thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học; ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi.
Tiếp tục đẩy mạnh tự chủ đại học, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013) xác định nhiệm vụ, giải pháp giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng trường.
Để cụ thể hoá các nội dung về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học trong khung khổ pháp lý được quy định, đồng thời để thúc đẩy hoạt động tự chủ đại học tại Việt Nam, Nghị quyết số 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014 của Chính phủ ban hành về “thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017” quy định rõ quyền tự chủ: (i) Tự chủ về đào tạo và nghiên cứu khoa học; (ii) Tự chủ về tổ chức bộ máy, nhân sự; (iii) Tự chủ về tài chính. Trường đại học công lập khi cam kết tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện trên các mặt: thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học; tổ chức bộ máy và nhân sự; tài chính; chính sách học bổng, học phí với đối tượng chính sách; đầu tư, mua sắm; các nội dung tự chủ khác theo quy định của pháp luật. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/2/2015 của Chính phủ về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, quy định tại Điều 4: “Khuyến khích và tạo điều kiện cho tất cả các trường đại học công lập có đủ điều kiện, cam kết tự đảm bảo kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính”. Nghị định số 141/2016/NĐ-CP, ngày 14/2/2016 của Chính phủ quy định tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực kinh tế và sự nghiệp khác: Xây dựng pháp luật về quản lý nhà nước; khuyến khích, tạo điều kiện, thiết lập môi trường hoạt động bình đẳng, cạnh tranh cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác. Nghị quyết số 89/NQ-CP, ngày 10/10/2016, phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2016 quyết nghị nhằm đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ, tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp công lập hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Chính phủ thống nhất chủ trương đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học gắn với nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Theo đó, các trường đại học được giao quyền tự chủ cả về chuyên môn, tổ chức nhân sự, tài chính và tăng cường trách nhiệm giải trình; quy định rõ về kiểm định chất lượng và cơ chế học bổng nhằm bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục đại học chất lượng cao cho con em hộ nghèo, đối tượng chính sách; giảm mạnh sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động của các trường đại học, tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản; đổi mới mô hình quản trị đại học theo hướng chuyển từ chế độ thủ trưởng (hiệu trưởng) sang chế độ tập thể lãnh đạo (hội đồng trường) tương tự như đã thực hiện đối với đổi mới doanh nghiệp nhà nước; quy định hội đồng trường là cấp có thực quyền, phân định rõ trách nhiệm giữa hội đồng trường với ban giám đốc (hiệu trưởng, phó hiệu trưởng), bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đẩy mạnh thực hiện công khai, dân chủ, tôn trọng quyền tập thể cán bộ, giảng viên.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đơn vị sự nghiệp công lập” (Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017) yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ các trường đại học. Thực hiện chuyển đổi hoạt động của các trường đại học công lập đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoạch toán như doanh nghiệp. Áp dụng mô hình quản trị đối với các trường đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng Hội đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học; bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch hội đồng trường.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14 của Quốc hội khóa XIV) quy định quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học: (1). Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học; (2). Điều kiện thực hiện quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học: (a) Đã thành lập hội đồng trường, hội đồng đại học; đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp; (b) Đã ban hành và tổ chức thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động; quy chế tài chính; quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác và có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định; (c) Thực hiện phân quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đến từng đơn vị, cá nhân trong cơ sở giáo dục đại học; (d) Công khai điều kiện bảo đảm chất lượng, kết quả kiểm định, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm và thông tin khác theo quy định của pháp luật; (3). Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật; (4). Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật; (5). Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật; (6). Trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học đối với chủ sở hữu, người học, xã hội, cơ quan quản lý có thẩm quyền và các bên liên quan: (a) Giải trình về việc thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, về việc quy định, thực hiện quy định của cơ sở giáo dục đại học; chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu không thực hiện quy định, cam kết bảo đảm chất lượng hoạt động; (b) Công khai báo cáo hằng năm về các chỉ số kết quả hoạt động trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất với chủ sở hữu và cơ quan quản lý có thẩm quyền; (c) Giải trình về mức lương, thưởng và quyền lợi khác của chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ sở giáo dục đại học tại hội nghị cán bộ, viên chức, người lao động; thực hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán hằng năm, kiểm toán đầu tư và mua sắm; giải trình về hoạt động của cơ sở giáo dục đại học trước chủ sở hữu, cơ quan quản lý có thẩm quyền; (d) Thực hiện công khai trung thực báo cáo tài chính hằng năm và nội dung khác trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; (đ) Thực hiện nội dung, hình thức giải trình khác theo quy định của pháp luật; (7). Chính phủ quy định chi tiết về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học.
Để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật số 34/2018/QH14, tại Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định: Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học: (1). Quyền tự chủ về học thuật và hoạt động chuyên môn: (a) Được quyền ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về hoạt động tuyển sinh, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp quy định của pháp luật; (b) Xác định, công bố công khai phương thức, chỉ tiêu tuyển sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý trực tiếp; (c) Quyết định phương thức tổ chức và quản lý đào tạo đối với các trình độ, hình thức đào tạo; xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo phù hợp với quy định về Khung trình độ quốc gia Việt Nam, về chuẩn chương trình đào tạo, bảo đảm không gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng, không xuyên tạc lịch sử, ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục và đoàn kết các dân tộc Việt Nam, hòa bình, an ninh thế giới, không có nội dung truyền bá tôn giáo; biên soạn, lựa chọn, thẩm định, phê duyệt và sử dụng tài liệu giảng dạy, giáo trình giáo dục đại học (trừ các môn học bắt buộc); tổ chức thực hiện, đánh giá chất lượng các chương trình đào tạo của giáo dục đại học; thiết kế mẫu, in phôi, cấp phát, quản lý văn bằng, chứng chỉ phù hợp với quy định của pháp luật; (d) Quyết định đào tạo từ xa, liên kết đào tạo trình độ đại học theo hình thức vừa làm vừa học với cơ sở giáo dục trong nước đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; (đ) Quyết định hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với quy định của pháp luật; (e) Nếu đủ điều kiện thực hiện quyền tự chủ thì được tự chủ mở ngành đào tạo theo quy định. Các đại học được tự chủ ra quyết định mở ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài cho trường đại học thành viên và đơn vị đào tạo thuộc đại học khi đáp ứng điều kiện mở ngành theo quy định. Các trường đại học thành viên của đại học được tự chủ ra quyết định mở ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài khi đáp ứng điều kiện mở ngành theo quy định, phù hợp với quy chế tổ chức và hoạt động của đại học. Cơ sở giáo dục đại học chưa đáp ứng điều kiện theo quy định thì thực hiện mở ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài theo quy định của pháp luật; (g) Thực hiện các quyền tự chủ khác về học thuật và hoạt động chuyên môn phù hợp với quy định của pháp luật; (2). Quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự: (a) Cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và các quy định hiện hành về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; về số lượng người làm việc và vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập; có quyền tự chủ về tổ chức, bộ máy và nhân sự để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhưng không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương, mức lương (bao gồm cả lương và phụ cấp) từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp; (b) Cơ sở giáo dục đại học tư thục, cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thực hiện quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học; có trách nhiệm công bố công khai về cơ cấu tổ chức, người đại diện theo pháp luật trên trang thông tin điện tử của nhà trường; (c) Các cơ sở giáo dục đại học phải ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về tổ chức bộ máy và nhân sự; thực hiện các quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự khác theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và pháp luật có liên quan; (d) Việc thành lập phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học, thành lập doanh nghiệp trực thuộc cơ sở giáo dục đại học thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành; (3). Quyền tự chủ về tài chính và tài sản: (a) Cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và các quy định hiện hành về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; (b) Cơ sở giáo dục đại học tư thục, cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và các quy định của pháp luật khác có liên quan; được Nhà nước hỗ trợ phát triển phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và các quy định về đầu tư phát triển giáo dục đại học; (c) Các cơ sở giáo dục đại học phải ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về tài chính và tài sản, thực hiện các quyền tự chủ về tài chính và tài sản khác theo quy định của Luật Giáo dục đại học, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và pháp luật khác có liên quan; (4). Trách nhiệm giải trình: (a) Cơ sở giáo dục đại học thực hiện đầy đủ các quy định, yêu cầu về chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất của chủ sở hữu và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; (b) Chịu trách nhiệm trước người học, chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan về việc bảo đảm chất lượng đào tạo theo quy định của pháp luật, quy định nội bộ và cam kết của cơ sở giáo dục đại học; (c) Thực hiện công khai đầy đủ trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học về các nội dung: sứ mạng, tầm nhìn của cơ sở giáo dục đại học; các quy chế, quy định nội bộ; danh sách giảng viên theo ngành, trình độ, chức danh và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo khác; kết quả kiểm định chương trình đào tạo, kiểm định cơ sở giáo dục đại học; chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, kế hoạch tổ chức đào tạo; đề án tuyển sinh và kế hoạch tuyển sinh, danh sách nhập học và tốt nghiệp hằng năm theo ngành, trình độ đào tạo, quy mô đào tạo và tỷ lệ sinh viên có việc làm sau 12 tháng tốt nghiệp; mẫu văn bằng, chứng chỉ, danh sách cấp văn bằng, chứng chỉ cho người học hằng năm; chi phí đào tạo, mức thu học phí, mức thu dịch vụ tuyển sinh và các khoản thu khác của người học cho từng năm học và dự kiến cả khóa học; chế độ, chính sách miễn, giảm học phí, học bổng; các nội dung khác theo quy định của pháp luật; (d) Công khai thông báo chỉ tiêu tuyển sinh, quyết định mở ngành, quyết định liên kết đào tạo cùng với hồ sơ chứng minh đủ điều kiện theo quy định lên trang thông tin điện tử của nhà trường trước khi thực hiện ít nhất 30 ngày làm việc; gửi thông báo, quyết định tới Bộ Giáo dục và Đào tạo trong thời hạn 30 ngày, tính từ ngày thông báo hoặc ra quyết định; (đ) Thường xuyên cập nhật cơ sở dữ liệu của nhà trường lên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đã ban hành, các quyết định, các hoạt động tự chủ thực hiện; (e) Thực hiện chế độ báo cáo tài chính theo quy định và công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học, trừ những thông tin thuộc danh mục bí mật Nhà nước; (5). Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học thuộc lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện theo quy định của Nghị định số 99-NĐ/CP và quy định của pháp luật có liên quan.
Văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công -tư”; “Tăng cường công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; xếp hạng các trường đại học. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ”.
Có thể khẳng định, tự chủ đại học đã Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, thể chế hóa thành quy định, hướng dẫn khá đầy đủ, nhận thức về tự chủ đại học ngày càng rõ ràng, có nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ toàn thể hệ thống giáo dục đại học Việt Nam như một trường đại học lớn, chịu sự quản lý nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông qua Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ. Hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý cho các trường đại học thực hiện quyền tự chủ, bảo đảm hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước. Việc thực hiện tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường đại học công lập bước đầu có kết quả nhất định, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng tính chủ động, linh hoạt trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá tích cực ở một số cơ sở giáo dục đại học, đạt được những thành tựu nhất định và được xã hội công nhận, góp phần đưa giáo dục đại học Việt Nam từng bước hội nhập tốt hơn với giáo dục đại học trên thế giới.
Tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn, làm cơ sở pháp lý để các cơ sở giáo dục đại học triển khai thực hiện tự chủ theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2021/NĐ-CP, ngày 27/8/2021, quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhằm kịp thời đã tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt đã giao quyền chủ động cho các địa phương xem xét, quyết định không thu học phí khi thiên tai, dịch bệnh, sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra; Nghị định số 86/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 quy định việc công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật. Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành các Thông tư[3] về quy chế tuyển sinh và đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, quy định về chuẩn chương trình đào tạo, danh mục thống kê ngành đào tạo nhằm hoàn thiện khung khổ chính sách để nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo theo Luật Giáo dục đại học.
3. Kết quả thực hiện tự chủ đại học
Trong những năm qua, chính sách tự chủ trong giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước có một vai trò quan trọng, giúp các cơ sở giáo dục đại học phát huy nội lực, khả năng sáng tạo, hoạt động một cách có hiệu quả và từng bước đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết nguồn nhân lực có chất lượng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung, việc triển khai thực hiện chính sách tự chủ đã trở thành một nhu cầu tự thân, một xu thế tất yếu và có tính khách quan, vừa là mục tiêu, vừa là động lực giúp các cơ sở giáo dục đại học phát huy tính chủ động, sáng tạo, tháo gỡ những vướng mắc về quản lý nhà nước, hoạt động của nhà trường, quản lý của bộ chủ quản; giúp các nhà trường quyết định cách thức và phương thức thực hiện sứ mạng, tự chịu trách nhiệm trước công chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của chính mình để nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh, tạo ra một sức sống mới hướng tới cung cấp cho thị trường lao động nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Năm 2014, thực hiện Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động cho các trường đại học công lập giai đoạn 2014-2017, đầu tiên áp dụng với 04 trường đại học trong cả nước: Kinh tế Quốc dân, Kinh tế TP. HCM, Ngoại thương và Đại học Hà Nội cho thấy, các trường trở nên năng động hơn, nỗ lực hơn; không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế; nguồn tài chính được cải thiện, qua đó giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước…. Tiếp theo, 23 trường đại học công lập thực hiện tự chủ trên nhiều mặt: nguồn nhân lực, tuyển sinh, đào tạo, tài chính, hợp tác quốc tế...Tuy nhiên, dưới góc độ thực thi các quyền tự chủ khác thì chủ yếu cũng chỉ dừng lại trên các văn bản hành chính, việc triển khai thực hiện trong thực tế tại các trường trong toàn quốc còn rất hạn chế, các cơ quan nhà nước có chức năng vẫn thiếu các quy định cụ thể về tự chủ và quyền của các trường đại học trong việc xác định quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường; nhiều quy định, văn bản pháp lý chưa thay đổi kịp để hỗ trợ các trường đại học trong quá trình thực hiện tự chủ; nhiều trường chưa nhận được sự hướng dẫn cụ thể từ phía cơ quan quản lý nhà nước khi triển khai thí điểm tự chủ,…
Đến nay, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và Luật Giáo dục đại học (Luật số 08/2012/QH13), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14) của Quốc hội, Nghị định số 99/NĐ-CP thực hiện quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và cả nước có 154/170 cơ sở giáo dục đại học công lập đã thành lập Hội đồng trường và đi vào hoạt động (đạt tỷ lệ 90,6%); trong đó, có 36/36 cơ sở giáo dục đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Hội đồng trường. Các trường trực thuộc các bộ, ngành, địa phương thành lập Hội đồng trường đạt tỷ lệ 91,18%, trong đó, 15 cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc các bộ, ngành, địa phương đang xây dựng và trình cấp có thẩm quyền công nhận Hội đồng trường. 142/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật số 34/2018/QH14. Có 32,7% trường đại học tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; 13,7% trường đảm bảo chi thường xuyên. Tổng thu của các cơ sở giáo dục đại học tự chủ tăng rõ rệt. Thu nhập bình quân tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý. Trong đó số giảng viên có thu nhập trên 200 triệu đồng/năm tăng từ 19,4% lên 31,3%; thu nhập trên 300 triệu trở lên tăng từ 0,7% lên 5,9% sau 3 năm thực hiện tự chủ.
Các cơ sở giáo dục đại học tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Vai trò của Hội đồng trường được cụ thể hóa và nâng cao trong tổ chức quản trị hoạt động của hầu hết các cơ sở giáo dục đại học. Chủ động tăng số lượng giảng viên và giảm số lượng lao động khối hành chính[4]; đồng thời, thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học[5] với mục tiêu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô, nâng cao thu nhập cho giảng viên; đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng; liên kết với thị trường lao động, đào tạo đi vào thực chất; tăng cường kiểm soát các khoản chi, gia tăng tiết kiệm, bảo đảm tính hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn lực.
Thực hiện tự chủ về chuyên môn học thuật mở ngành đào tạo/chương trình liên kết đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học là một nội dung quan trọng trong hoạt động tự chủ, bên cạnh việc mở ngành đào tạo mới, phát triển các chương trình liên kết đào tạo trong và ngoài nước, các trường đại học cũng tích cực điều chỉnh các chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu người học[6]; đổi mới phương pháp giảng dạy tiên tiến, tiếp cận với chuẩn đào tạo và chương trình đào tạo quốc tế, chủ động tăng cường công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục; tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong tuyển sinh, thu hút sinh viên giỏi. Quy mô tuyển sinh sinh viên hệ đại trà sau tự chủ có xu hướng giảm và thay vào đó là tăng quy mô tuyển sinh các chương trình đào tạo tiên tiến, đào tạo chất lượng cao, liên kết đào tạo với nước ngoài và đào tạo bằng tiếng Anh. Nhiều chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học trên thế giới, chương trình đào tạo tiên tiến tiếp tục được nhiều cơ sở giáo dục đại học quan tâm phát triển. Tính đến tháng 12/2021, cả nước có 408 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động[7]. Trong đó, các cơ sở sở giáo dục đại học tự chủ đã phê duyệt tổng cộng 186 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, 124 chương trình ở trình độ đại học; 58 chương trình ở trình độ thạc sĩ và 04 chương trình ở trình độ tiến sĩ.
Các cơ sở giáo dục đại học ngày càng chủ động hơn trong việc quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các nhiệm vụ khoa học công nghệ, từ đó chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Tính riêng các trường trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, số công bố khoa học quốc tế[8], công bố trong nước, sáng chế và tài sản trí tuệ khác tăng dần qua các năm; nhiều đề tài, nhiệm vụ đã đóng góp quan trọng, thiết thực cho các ngành công nghiệp, cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa phương[9]. Số lượng cơ sở giáo dục đại học được kiểm định ngày càng tăng. Tính đến ngày 30/6/2022, theo tiêu chuẩn trong nước, có 266 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đánh giá chu kỳ 1 (trong đó, có 236 cơ sở GDĐH và 28 trường Cao đẳng sư phạm) và 22 cơ sở giáo dục đại học hoàn thành tự đánh giá chu kỳ 2; 174 cơ sở giáo dục đại học và 11 trường cao đẳng sư phạm được các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; 705 chương trình đào tạo hoàn thành báo cáo tự đánh giá (trong đó có 559 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài) và 470 chương trình đào tạo được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo bộ tiêu chuẩn Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành[10]. Theo tiêu chuẩn nước ngoài, có 07 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng Cấp cao về Đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) và AUN-QA; 308 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận bởi 10 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài có uy tín.
Theo kết quả xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021 của USNEWS[11], Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020 (tuy nhiên vẫn xếp sau một số nước trong khu vực Đông Nam Á[12]). Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. So với các năm trước, năm 2022 là một bước nhảy vọt khi có tới 5 đại diện của Việt Nam được lọt vào bảng xếp hạng THE[13]; có 05 cơ sở giáo dục đại học trong Bảng xếp các trường đại học tốt nhất toàn cầu năm 2022 (Best Global Universities)[14]; có thêm 02 cơ sở giáo dục đại học (tổng là 05 cơ sở) có tên trong bảng xếp hạng QS World University Rankings 2023[15]; 10 cơ sở giáo dục đại học trong bảng xếp hạng Webometrics[16]; 05 cơ sở giáo dục trong bảng xếp hạng các trường đại học ở các nền kinh tế mới nổi 2021 (THE Emerging Economies University Rankings 2021)[17]; 11 cơ sở giáo dục đại học trong bảng xếp hạng đại học châu Á (QS Asian University Rankings 2022)[18]; 07 cơ sở giáo dục đại học tại bảng xếp hạng THE Impact Rankings năm 2022[19].
4. Một số vấn đề đặt ra trong thực hiện tự chủ đại học
Bên cạnh những kết quả khích lệ về thực hiện tự chủ đại học, trong quá trình thực hiện tự chủ còn nảy sinh nhiều vấn đề, việc giao quyền tự chủ hầu như chưa trở thành nhu cầu nội tại của cơ sở giáo dục đại học. Cụ thể:
4.1. Nhận thức của xã hội, của các cơ quan, cơ sở giáo dục đại học đối với tự chủ đại học; đối với vai trò, chức năng của hội đồng trường nhìn chung còn hạn chế, dẫn tới việc ban hành các định chế chồng chéo, mâu thuẫn và khó thực hiện, có sự nhầm lẫn giữa khái niệm tự chủ đại học với tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Thực tiễn cho thấy, tự chủ đại học là một quá trình phát triển, cần có điều kiện, thời gian để chuyển đổi từ nhận thức, ý thức và văn hóa chất lượng trong hệ thống giáo dục đại học và toàn xã hội, sự đổi mới tư duy của các trường đại học vẫn yếu tố có tính quyết định thành công đến tự chủ đại học.
4.2. Khái niệm “Bộ chủ quản” hoặc “Cơ quan quản lý trực tiếp” còn nhiều tranh luận, tuy nhiên với hệ thống pháp lý hiện nay, nếu không còn vai trò “Bộ chủ quản” nhì nhiều cơ sở giáo dục đại học có thể sẽ lúng túng trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể mà từ trước đến nay vẫn do “Bộ chủ quản” quyết định.
4.3. Việc phân định về vai trò, trách nhiệm của đảng ủy, hội đồng trường và ban giám hiệu trong các cơ sở giáo dục đại học chưa đầy đủ, rõ ràng dẫn tới vị thế của hội đồng trường, chủ tịch hội đồng trường trong một trường đại học tự chủ còn mờ nhạt, chưa phát huy những quyền được quy định trong Nghị định số 99/NĐ-CP. Hội đồng trường được quy định nhiều quyền nhưng không gắn với trách nhiệm và lợi ích. Việc thực hiện chức năng giám sát điều hành và quản lý đối với ban giám hiệu, hiệu trưởng theo quyết nghị của Hội đồng trường chưa thực hiện đầy đủ. Bộ máy giúp việc Hội đồng trường chưa được thành lập và chưa có cơ chế hoạt động. Vai trò giám sát việc thực hiện các quyết nghị: về chiến lược phát triển; các kế hoạch, đề án; về bộ máy tổ chức, nhân sự; hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế…chưa thực sự hiệu quả, chỉ dừng ở mức độ xem xét các báo cáo của ban giám hiệu mà ít thẩm định hoặc chất vấn, phản biện. Nhận thức của nhiều cán bộ, giảng viên và bản thân các thành viên hội đồng trường còn hạn chế, nhiều thành viên hội đồng trường chưa hiểu rõ chức năng và thể thức hoạt động của hội đồng trường cũng như trách nhiệm, quyền hạn của mình.
4.4. Chính sách tự chủ đại học về tổ chức, liên kết đào tạo, tài chính, nghiên
cứu khoa học chưa tạo động lực cho sự phát triển cho các trường đại học công lập. Chính sách sử dụng nguồn lực (con người, tài chính…) để phát huy hiệu quả của các nguồn lực từ ngân sách, từ các nhà đầu tư, từ doanh nghiệp làm đổi mới mô hình quản trị, quản lý chưa thật hiệu quả. Các công cụ chính sách thực hiện các nội dung tự chủ còn hạn chế, chẳng hạn về tự chủ bộ máy tổ chức nhân sự hiện nay nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa được tự chủ trong lựa chọn, bổ nhiệm, bãi nhiệm người đứng đầu. Điều kiện thực hiện tự chủ chủ yếu mới chỉ tiếp cận từ góc độ tổ chức nhân sự, tài chính và tài sản, hầu như chưa tính đến tự chủ về chuyên môn, học thuật. Hơn nữa, tự chủ tài chính là một nội dung quan trọng trong thực hiện tự chủ, nhưng thực tế, có nhiều cơ sở giáo dục đại học lại đang rất vất vả thực hiện, đặc biệt đối với cơ sở đại học công lập. Song song với giao quyền tự chủ và thực hiện quyền tự chủ là tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học. Quyền tự chủ đến đâu thì trách nhiệm tương xứng tới đó. Sự cân bằng giữa quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trở thành một chính sách hết sức quan trọng trong quản trị cơ sở giáo dục đối với nhiều quốc gia. Trách nhiệm giải trình không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa “chịu trách nhiệm”, mà còn là “công khai, minh bạch thông tin” và trách nhiệm giải trình bằng những minh chứng cụ thể, định tính, định lượng về hoạt động của nhà trường, phải được đo lường bởi các tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể. Chính vì vậy, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học sao cho phù hợp với những điều kiện thực tiễn và có hiệu quả nhất, bảo đảm chính sách, pháp luật về tự chủ phải đồng bộ và cụ thể. Hiện nay, khung pháp lý về tự chủ không phải chỉ nằm gọn trong Luật Giáo dục đại học điều chỉnh hoạt động, song hoạt động giáo dục đại học còn chịu sự điều chỉnh trực tiếp trong các bộ luật liên quan khác như Luật Cán bộ công chức và Viên chức, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Quản lý tài sản công…dẫn đến chồng chéo, vướng mắc cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ. Chẳng hạn, Luật Quản lý tài sản công không đồng bộ với Luật Giáo dục đại học cho phép cơ sở giáo dục được sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách. Luật Ngân sách không đồng bộ với việc hội đồng trường được phê duyệt kế hoạch, quyết toán tài chính…Do đó, cần nghiên cứu nâng cao mức chi từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học, đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách theo hướng chi đặt hàng các trường đại học trong việc nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và chi trực tiếp cho người học.
4.5. Tự chủ không phải đơn thuần là tập trung vào yếu tố tự chủ, tăng quyền cho hiệu trường, mà cần phải trao thêm quyền tự chủ cho các nhà khoa học, giảng viên để khai thác tốt hơn năng lực và tạo môi trường sáng tạo tri thức cho đội ngũ này. Vì vậy, phát triển đội ngũ giảng viên theo hướng tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội; thực hiện tiêu chuẩn cán bộ quản lý, giảng viên, các nhà nghiên cứu khoa học; nhanh chóng xây dựng quy chế tuyển dụng, làm việc, đề bạt cán bộ quản lý, giảng viên và nghiên cứu viên để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho công tác quản lý và điều hành hoạt động của cơ sở giáo dục đại học hiệu quả, huy động các nguồn lực phục vụ cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học phù hợp với nhu cầu thực tế của xã hội.
4.6. Yếu tố mấu chốt tạo sự đột phá trong công tác đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục đại học không phải chủ yếu tiếp cận từ góc độ tự chủ về tổ chức nhân sự, tài chính và tài sản mà phải tập trung sâu vào tự chủ về chuyên môn và học thuật. Do đó, điều kiện tiên quyết thực hiện thành công tự chủ là các cơ sở giáo dục đại học phải thường xuyên đổi mới chương trình đào tạo theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, nâng cao kỹ năng thực hành cho cả người dạy và người học; đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học làm trung tâm; tăng cường liên kết với doanh nghiệp; liên thông đào tạo giữa các ngành, các trường trong và ngoài nước; mở các ngành học mới theo nhu cầu của thực tiễn và theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo.
4.7. Thiết lập một hệ thống giáo dục đại học mở, công bằng, bình đẳng, chất lượng, hiệu quả và phục vụ nhu cầu học tập suốt đời; đáp ứng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, tăng cường ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước; bảo đảm đầu tư công bằng, khách quan, khoa học, công khai, minh bạch và hiệu quả làm cơ sở huy động nguồn lực xã hội phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học. Vì vậy, phải nhan chóng, khẩn trương triển khai quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học để phân định một cách rõ ràng và chi tiết các chức năng cơ bản, nhiệm vụ cụ thể và sứ mệnh cốt lõi của các trường đại học công lập địa phương theo các khung yêu cầu phù hợp, nhiệm vụ thực tế và xu hướng phát triển giáo dục đại học là đào tạo theo địa chỉ của các bên có nhu cầu. Các cơ sở giáo dục đại học công lập địa phương nên cung cấp các gói dịch vụ đào tạo và chuyển giao khoa học công nghệ theo địa chỉ cụ thể của các bên có nhu cầu trên cơ sở tiềm lực thực tế và điều kiện vốn có của chính mình. Đây là một trong những lợi thế quan trọng nhất của các trường đại học công lập địa phương. Các doanh nghiệp hiện nay cũng ưu tiên ký kết các hợp đồng đào tạo và cung ứng nguồn lao động chất lượng cao theo đúng nhu cầu công việc và vị trí việc làm cụ thể. Làm tốt công tác này, các trường đại học công lập địa phương vừa giải quyết được vấn đề đầu ra của chính mình vừa tạo dựng được niềm tin và nâng cao tính hấp dẫn của các ngành học đối với người học. Các trường đại học công lập địa phương phải đẩy mạnh hợp tác với các nền giáo dục tiên tiến và tổ chức khoa học công nghệ hiện đại để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực mà thị trường lao động đang có nhu cầu lớn, xây dựng mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ đại học theo hướng hội nhập quốc tế để khẳng định chất lượng đào tạo, đồng thời cũng tăng cường năng lực hội nhập quốc tế của các trường đại học địa phương.
4.8. Kiểm định chất lượng giáo dục được coi là phương thức để bảo đảm cân bằng giữa tự chủ và nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm. Khi đã có nhu cầu thực sự sử dụng hiệu quả công quỹ (với trường công lập) và học phí mà xã hội đầu tư cho con em học tập trở thành một khái niệm liên quan đến đánh giá và đo lường hiệu suất, theo dõi tất cả các hoạt động của một trường đại học chính là kiểm định và công nhận chất lượng bởi một tổ chức độc lập trở thành một lựa chọn để thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát, đồng thời thúc đẩy các trường đại học phải xây dựng một hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ hiệu quả và bao phủ toàn bộ các hoạt động của nhà trường đại học thay cho việc ban hành các định chế.
Trong bối cảnh hội nhập, với xu hướng tự chủ đại học trên thế giới ngày càng mở rộng thì vấn đề cấp bách hiện nay là Việt Nam phải có những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học và việc quản trị đại học cần phải có những cải cách thực chất hơn nữa để các cơ sở giáo dục đại học trở thành một thực thể trưởng thành, tự kiểm soát hành vi, tự chịu trách nhiệm, giải phóng những năng lực, khả năng, tiềm năng từ nội tại, mở đường cho sự sáng tạo trong mọi hoạt động của nhà trường.
TS. Đỗ Đức Hồng Hà,
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Luật số 34/2018/QH14, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại
học;
2. Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, Hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục đại học;
3. Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg, Ban hành Điều lệ trường đại học;
4. Quyết định số 24/2013/QĐ-TTg, Ban hành quy định về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân
chuyển, từ chức và miễn nhiệm cán bộ công chức lãnh đạo.
5. Đặng Ứng Vận, “Đổi mới giáo dục đại học từ ý tưởng đến thực tiễn”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Hội thảo Giáo dục Việt Nam 2020, “Tự chủ trong giáo dục đại học- từ chính sách đến thực tiễn”, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, Quốc hội khóa XIV.
7.https://tuoitre.vn/tu-chu-dai-hoc-da-co-luat-nhung-vuong-du-thu-20201126211350175.htm.
8. https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/thong-nhat-hanh-dong-de-thao-go-kho-khan-trong-thuc-hien-tu-chu-dai-hoc-1491897479
9. https://baodautu.vn/rao-can-trong-thuc-hien-tu-chu-dai-hoc-d171471.html/
10. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=8014.
[1] The History of Higher Education, 1997.
[2] Lâm Quang Thiệp, 2018.
[3] (1) Thông tư số 23/2021/TT-BGDĐT ngày 30/8/2021 của Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ; (2) Thông tư số 26/2021/TT-BGDĐT ngày 17/9/2021 của Bộ trưởng Bộ GDĐT quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong CSGDĐ; (3) Thông tư số 35/2021/TT-BGDĐT ngày 06/12/2021 của Bộ trưởng Bộ GDĐT quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình GDĐH; (4) Thông tư số 02/2022/TT-BGDĐT ngày 18/01/2022 của Bộ trưởng Bộ GDĐT quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; (5) Thông tư số 03/2022/TT-BGDĐT ngày 18/01/2022 của Bộ trưởng Bộ GDĐT quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đại học, thạc sĩ, tiến sĩ và chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non; (6) Thông tư số 08/2022/TT-BGDĐT ngày 06/6/2022 của Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non; (7) Thông tư số 09/2022/TT-BGDĐT ngày 06/6/2022 của Bộ trưởng Bộ GDĐT quy định Danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục đại học.
[4] Theo thống kê đến hết năm 2021 của Bộ GDĐT, tỷ lệ giảng viên trên tổng số cán bộ, giảng viên và người lao động của các cơ sở GDĐH chiếm 71%, lớn nhất trong cơ cấu nhân lực của nhà trường, hơn gấp đôi số cán bộ quản lý và chuyên viên hành chính.
[5] Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 25% (năm 2018) lên trên 31% (năm 2021). Tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư và phó giáo sư cũng tăng dần đều hằng năm (tỷ lệ giáo sư tăng thêm 0,5%/năm; phó giáo sư tăng thêm 5-6%/năm). Tỷ lệ trợ giảng có trình độ đại học giảm mạnh (giảm trên 50% từ 2016 đến 2021).
[6] Từ đầu năm 2018 đến 31/12/2021, có 818 ngành đào tạo do cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) tự chủ mở; trong đó đã có các ngành đáp ứng nhu cầu nhân lực trong các lĩnh vực mới như: khoa học dữ liệu, phân tích kinh doanh, IoT và trí tuệ nhân tạo ứng dụng, nghệ thuật số, robot và trí tuệ nhân tạo, digital marketing…
[7] Phân loại theo quốc gia chủ yếu vẫn là các chương trình liên kết đào tạo với các cơ sở GDĐH tại Vương quốc Anh (101 chương trình), Hoa Kỳ (59), Cộng hòa Pháp (53), Australia (37) và Hàn Quốc (27); các nước có nền GDĐH phát triển và các cơ sở GDĐH uy tín, xếp thứ hạng cao trên thế giới như New Zealand (16 chương trình), CHLB Đức (10 chương trình) và Vương quốc Bỉ (10 chương trình). Phân loại các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài theo nhóm ngành đào tạo, tỷ lệ các chương trình đào tạo trong nhóm ngành kinh tế và quản lý vẫn chiếm đa số với 64% (trong đó có 85/408 chương trình đào tạo ngành quản trị kinh doanh). Các chương trình đào tạo các ngành trong nhóm ngành khoa học và công nghệ chiếm 25%; trong nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn chiếm 8% và các ngành khác (như Y khoa, Dược, Luật) chỉ chiếm 3%
[8] Năm 2021, các trường trực thuộc công bố 4.332 bài báo khoa học trên tạp chí thuộc cơ sở dữ liệu Web of Science, tăng gần 20% so với năm 2020.
[9] Sở hữu trí tuệ 2019-2021 (số đăng ký/số cấp bằng): Sáng chế: 129/41; Giải pháp hữu ích: 124/57; Tài sản trí tuệ khác: 45/19.
[10] Bộ tiêu chuẩn được xây dựng theo hướng tiếp cận với tiêu chuẩn đánh giá chương trình đào tạo của Mạng lưới bảo đảm chất lượng các trường đại học ASEAN.
[11] Kết quả xếp hạng giáo dục quốc gia của USNEWS dựa trên khảo sát toàn cầu về ba thuộc tính cùng trọng số của mỗi quốc gia: có hệ thống giáo dục công phát triển tốt; mọi người có cân nhắc theo học đại học ở đó hay không; quốc gia đó có cung cấp nền giáo dục chất lượng hàng đầu hay không.
[12] Như Singapore (hạng 21), Malaysia (38), Thái Lan (46), Indonesia (54), Philippines (55).
[13] Trường Đại học Duy Tân: vị trí 401-500, Trường Đại học Tôn Đức Thắng: vị trí 401-500, Đại học Quốc gia Hà Nội: vị trí 1.001-1.200, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội: vị trí 1.201+, ĐH Quốc gia TP.HCM: vị trí 1.201+.
[14] Trường Đại học Tôn Đức Thắng (vị trí 387, tăng 236 bậc),Trường Đại học Duy Tân (vị trí 577, lần đầu tiên có mặt trong danh sách), Đại học Quốc gia Hà Nội (vị trí 938, tăng 11 bậc), Đại học Quốc gia TP.HCM (vị trí 1.187, tăng 84 bậc), Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội (vị trí 1.449).
[15] Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP.HCM, Trường Đại học Duy Tân(trong nhóm 801-1000), Trường Đại học Tôn Đức Thắng (trong nhóm 1001-1200), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (trong nhóm 1201-1400).
[16] Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Huế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM; Trường Đại học Mỏ Địa chất.
[17] Trường Đại học Tôn Đức Thắng (vị trí 82) và Trường Đại học Duy Tân (vị trí 107); Đại học Quốc gia Hà Nội (vị trí 301-350); Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (vị trí 401-500) và Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội (vị trí 501+).
[18] Đại học Quốc gia Hà Nội (vị trí 147); Trường Đại học Tôn Đức Thắng (vị trí 142); Đại học Quốc gia TP.HCM (vị trí 179); Trường Đại học Duy Tân (vị trí 210); Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (trong nhóm 281-290); Đại học Huế (trong nhóm 401-450); Trường Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng (trong nhóm 501-550); Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM (trong nhóm 551-600; Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM (trong nhóm 601-650).
[19] Đại học Quốc gia Hà Nội (vị trí 601-800), Trường Đại học Tôn Đức Thắng (vị trí 601-800), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (vị trí 601-800) và Trường Đại học Phenika (vị trí 801-1000), Trường Đại học Duy Tân (vị trí 601-800), Trường Đại học Kinh tế quốc dân (vị trí 601-800) và Trường ĐH FPT (vị trí 801-1000).