1.Tư tưởng của Ph.Ăngghen về đoàn kết các dân tộc
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Ph. Ăngghen đã cùng với Mác bàn về vấn đề nhà nước vô sản với các dân tộc; xem xét vấn đề dân tộc dưới góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản để tiến tới thực hiện quyền bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc (2), phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” (3). Để có sự bình đẳng, đoàn kết thật sự, chặt chẽ và lâu dài giữa các dân tộc, theo Ph. Ăngghen, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra bất bình đẳng, áp bức dân tộc, đó là: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người, thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ” (4). Sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ quốc gia, dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo. Tất nhiên, để thực hiện sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải được tập hợp, đoàn kết xung quanh bộ tham mưu chiến đấu của mình là Đảng Cộng sản – nơi tập trung những đại biểu kiên trung nhất, cách mạng nhất và ưu tú nhất của giai cấp công nhân. Những tư tưởng, quan điểm trên đây của Ph.Ăngghen và C. Mác đã đặt nền móng cho việc nhận thức và giải quyết cơ bản vấn đề bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa một cách rõ ràng, phù hợp với thực tiễn.
V. I. Lênin là người đầu tiên vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc vào thực tiễn cách mạng nước Nga và phát triển vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, trong đó, vấn đề dân tộc luôn gắn liền với vấn đề thuộc địa - Chính là vấn đề dân tộc thuộc địa. Lênin coi phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Khẩu hiệu của C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra:“Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” đã được V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Cương lĩnh nổi tiếng về vấn đề dân tộc của Lênin là kim chỉ nam cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh tự giải phóng mình khỏi áp bức dân tộc.
2. Kế thừa truyền thống đoàn kết dân tộc và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Ph.Ăngghen và chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc; bình đẳng dân tộc phải gắn liền với độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong “Tuyên ngôn độc lập” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi…”. Người còn chỉ ra rằng: nếu không xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì không thể có sự bình đẳng của các dân tộc, không tạo nên sức mạnh để dựng nước và giữ nước. Ngày 19-4-1946 trong “Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây-ku”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xê Đăng hay Ba Na…đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau…nước Việt Nam là nước chung của chúng ta…Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta…Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt” (5).
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng thiên tài của Ph.Ăngghen, C.Mác, V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc, đoàn kết các dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(năm 2013) tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đó là: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”.
(1) Đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết toàn dân tộc - di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đã chứng minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều kết thành sức mạnh vô địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đấu tranh giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang trong giữ nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong suốt hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh to lớn, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên đấu tranh giành chính quyền làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho nhân dân; khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á. Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…” và sự đồng lòng của toàn dân tộc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc ”(6). Với tinh thần yêu nước và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trong suốt chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ lâu dài, gian khổ, để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. “Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
Trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ với khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được phát huy cao độ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” được vận dụng một cách sáng tạo, với nhiều hình thức phong phú trong điều kiện mới. Trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, nhiều phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực ở cả miền Nam và miền Bắc với khẩu hiệu hành động: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, xâm lược”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”... đã lôi cuốn, khơi dậy được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất. Tất cả những hành động đó đã biểu thị tinh thần đoàn kết của toàn thể dân tộc Việt Nam xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ, đã huy động được cao độ sức mạnh chính trị tinh thần và nhân tài, vật lực to lớn lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và dốc toàn lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc toàn thắng, giành thắng lợi vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, nam bắc sum họp một nhà, dân tộc Việt Nam hoà bình thống nhất.
(2) Tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, nhằm phát huy, khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện vì mục tiêu:“ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước - một cuộc cách mạng vô cùng khó khăn, phức tạp nhằm xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, Đảng đã nhận thức đúng đắn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều sống trong môi trường an toàn, an ninh và được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Trong 35 năm qua, Đảng ta đã chú trọng không ngừng hoàn thiện đường lối, chủ trương về đại đoàn kết toàn dân tộc và Nhà nước kịp thời thể chế hóa bằng các chính sách, pháp luật. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc như: Nghị quyết số 23-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX “ về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Nghị quyết số 24- NQ/TW “về công tác dân tộc”; Nghị quyết số 25 – NQ/TW “về công tác tôn giáo”; Nghị quyết số 20-NQ/TW BCHTW, khoá X “về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước”; Nghị quyết số 26-NQ/TW “ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Nghị quyết số 27-NQ/TW “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Nghị quyết số 09-NQ/TW, khoá XI“ về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 25-NQ/TW BCHTW, khoá X “ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Nghị quyết số 36- NQ/TW, khoá X của Bộ Chính trị“ về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”; Nghị quyết số 11 – NQ/TW, khoá X của Bộ Chính trị, “ về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Nghị quyết số 25 – NQ/TW, khoá XI “ về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, khoá XI“ về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã cụ thế hoá và ban hành nhiều chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo, thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, người Việt Nam ở nước ngoài... nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đảng đã khẳng định:“Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(7). Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Giai đoạn 2011- 2020, hệ thống chính sách dân tộc đã bao phủ hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách dân tộc cũng còn một số bất cập: Chính sách còn dàn trải, manh mún, không đồng bộ, thiếu kết nối, rất khó lồng ghép, thời gian thực hiện ngắn, chính sách chủ yếu hộ trợ giải quyết tình thế; bố trí nguồn lực chưa tương xứng, chưa phù hợp với văn hoá, tập quán của đồng bào; nhiều đầu mối quản lý, chưa rõ trách nhiệm; chưa tạo được động lực, khuyến khích người dân, cộng đồng vươn lên thoát nghèo; thiếu những cơ chế, chính sách khuyến khích làm giàu dành cho đối tượng là những người biết sản xuất, kinh doanh và có khả năng tạo ra việc làm, thu nhập cho người dân và cộng đồng. Cơ sở hạ tầng còn thấp kém; tỷ lệ hộ nghèo, thoát nghèo, cận nghèo thiếu bền vững. Hơn nữa, trong quá trình đổi mới, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề mới đặt ra, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân... còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận cùng với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chĩa mũi nhọn tấn công, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tế này đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân, trở thành thách thức đối với mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Trước tình hình đó, đòi hỏi phải tiếp tục củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện những chủ trương, chính sách vào cuộc sống, góp phần xây đắp khối đại đoàn kết trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tạo sự đồng thuận xã hội vì sự phát triển của đất nước. Mọi tầng lớp nhân dân đã nỗ lực chung sức, đồng lòng cùng Đảng, Nhà nước vượt qua khó khăn, thử thách, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 35 năm qua tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhờ kế thừa và tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đất nước ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”(8). Để thực hiện thắng lợi toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CM 4.0), chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn xã hội đối với việc xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc..
(3) Những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kịp thời thể chế hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát và dân thụ hưởng” thành những chính sách, quy chế, quy định cụ thể ở từng loại hình cơ sở để nhân dân phát huy quyền làm chủ trên thực tế và thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà nước và cộng đồng xã hội. Chú trọng xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức cho phù hợp với những điều kiện mới của tình hình mới để nhân dân phát huy được đầy đủ quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có điều kiện phát triển tài năng, sức sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho bản thân, gia đình và cho đất nước. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của bộ máy công quyền, chấn chỉnh thái độ của cán bộ, công chức thực sự phục vụ nhân dân; hoạt động hướng mạnh về cơ sở, sát địa bàn, sát đối tượng. Cần chú trọng quan tâm thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả các nội dung phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, dựa vào dân để làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị khoá XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; xây dựng các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm, nói ít, làm nhiều, thực sự phục vụ nhân dân. Đề cao vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Kiên quyết chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong bộ máy công quyền trên cơ sở làm rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi coi thường và làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân; xử lý nghiêm minh, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật, củng cố lòng tin và sự hài lòng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Ba là, thực hiện chính sách dân tộc phải đồng bộ, đa mục tiêu, tập trung phát triển toàn diện, bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi đi đôi với đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo sự đột phá về chính sách, chuyển từ hỗ trợ sang đầu tư, theo hướng tập trung phát triển kinh tế - xã hội có trọng tâm, trọng điểm, gắn với việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá đặc sắc của các dân tộc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền biên giưới quốc gia. Khai thác mạnh tiềm năng, lợi thế vùng; đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư. Khơi dậy và phát huy ý chí tự lực, tự cường của người dân là yếu tố rất quan trọng để thực hiện có hiệu quả “ Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030”(9). Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển bền vững, gắn liền với xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới quốc gia, xây dựng tuyến biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đối với các nước láng giềng. Chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn nước, hệ động thực vật, đa dạng sinh học, đặc biệt là bảo vệ và phát triển rừng.
Bốn là, quan tâm chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội; huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân; phát huy dân chủ gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở từng loại hình cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân phát huy trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực, chủ động tham gia xây dựng, giám sát và phản biện xã hội việc thực hiện các chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đời sống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân; xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết ổn định những vụ việc khiếu kiện đông người, không để kéo dài, phức tạp. Chủ động định hướng dư luận và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động, sai trái của các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu xấu hòng gây mất đoàn kết trong nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi và vùng đồng bào có đạo; rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc, vùng tôn giáo và thực hiện nhiệm vụ công tác dân tộc, công tác tôn giáo trong tình hình mới. Quan tâm chăm lo từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Qua đó, tăng cường đoàn kết các dân tộc và sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người không tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; đồng thời, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc và những hành vi tà đạo, mê tín, dị đoan, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, thực hiện tốt công tác dân vận, công tác dân tộc; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức nhân dân trong thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.Thực hiện tốt phương châm công tác dân tộc “Chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị và vững chắc”. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên nhân dân đồng tâm, hiệp lực thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực nắm bắt, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên; đồng thời làm tốt vai trò giám sát đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân cùng với Ðảng, Nhà nước phát triển kinh tế - xã hội; hợp tác và hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, tham gia tích cực cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động:“Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Ngày vì người nghèo”; “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “ Người Việt Nam tự hào hàng Việt Nam”; tích cực phòng, chống, đẩy lùi đại dịch COVID- 19, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, thực hiện “ mục tiêu kép vừa phòng chống dịch vừa phát triển kinh tế” đảm bảo sự ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sáu là, đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân để tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam với nhân dân các nước, các dân tộc trên thế giới. Tăng cường các hoạt động đối ngoại nhân dân, tích cực vận động và có chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, để họ đóng góp trí tuệ, tài năng, tiền của xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, hình ảnh con người, đất nước Việt Nam. Chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng nước sở tại có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới vì hoà bình, tiến bộ và phát triển.
Bảy là, thường xuyên tăng cường củng cố, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của người dân, được nhân dân tham gia ý kiến, đồng tình và đồng thuận thực hiện. Quyền làm chủ của người dân phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ việc nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Phải làm cho nhân dân hiểu, thấm nhuần mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, biến thành ý chí và hành động của toàn dân, toàn dân tộc đi vào cuộc sống. Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tập hợp các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn vững chắc trong công cuộc đổi mới toàn diện, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
TS. Nguyễn Văn Hùng,
Hội động Lý luận Trung ương
…………………………………………………………….
Tài liệu tham khảo:
(1) Từ điển triết học, Nxb Sự thật – Hà Nội 1960, tr18.
(2) Bản tiếng Anh năm 1888 dịch là “Tự xây dựng thành giai cấp thống trị trong dân tộc” (theo chú thích trong “Các Mác và Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen”, tuyển tập, tập 1, nxb Sự thật, Hà Nội 1980, tr.565
(3) C.Mác và Ph. Ăngghen. Sđd, tr.565
(4) C.Mác và Ph. Ăngghen. Sđd, tr.565
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tập 4, tr.249.
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.4, tr.480.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.158-159.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.65.
(9) Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18/11/2019, Quốc hội khoá XIV.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.