Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Tuyên Quang bảo tồn và phát huy di sản văn hóa: Nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội bền vững

Ngày phát hành: 06/02/2023 Lượt xem 2166

Khu du lịch Tân Trào

 

Trong suốt quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác văn hóa. Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Đảng ta không ngừng kế thừa và phát triển các chủ trương, đường lối, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam từng bước trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước. Vai trò của văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng đã được Đảng khẳng định trong nhiều văn kiện. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định: "Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế' thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” .

 

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc với 22 dân tộc anh em cùng chung sống, bao gồm 7 huyện, thành phố; 138 xã phường, thị trấn với 1.733 thôn, bản, tổ dân phố. Trong suốt quá trình phát triển, môi dân tộc đều có những giá trị văn hóa riêng, độc đáo, phản ánh chân thực đời sống văn hóa của dân tộc mình qua từng thời kỳ lịch sử. Trong lao động, sản xuất, chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã tạo dựng nên những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, đa dạng, kết tinh các giá trị văn hóa của dân tộc. Có thể kể đến những lê hội truyền thống đặc sắc như lê cầu mùa, mừng lúa mới, các trò chơi dân gian như tung còn, đẩy gậy, đánh yến; hay những đường nét kiến trúc độc đáo của các di sản đền, chùa, đình, miếu, thành quách, chuông, bia; những thần phả, ngọc phả... Toàn tỉnh có 43 lễ hội, 635 di tích lịch sử, văn hóa, trong đó có 189 di tích được xếp hạng Di tích quốc gia, 3 di tích xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt, 1 Bảo vật quốc gia. Đặc biệt, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Những giá trị văn hóa hiện diện trên vùng đất này đã phản ánh đời sống vật chất và tinh thần hết sức phong phú của người dân nơi đây, làm nên một Tuyên Quang giàu bản sắc, đầy sức cuốn hút. Là vùng đất giàu tiềm năng thiên nhiên và có truyền thống cách mạng, tỉnh Tuyên Quang được ví như một "bảo tàng cách mạng” của cả nước, tỉnh đã có nhiều hoạt động, giải pháp tích cực để’ khơi dậy, bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa.

 

Nhận thức về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế’ - xã hội, nhiều nhiệm kỳ qua, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang luôn coi trọng phát triển văn hóa, đặc biệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025 xác định: "Tiếp tục thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Tuyên Quang có trí tuệ, có tinh thần vì cộng đồng, có khát vọng vươn lên, trong sáng, lành mạnh; khơi dậy trong nhân dân tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự cường, phát huy truyền thống quê hương cách mạng; ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống" .

 

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; sự quản lý, điều hành chủ động, linh hoạt của chính quyền các cấp cùng với sự thống nhất cao trong Đảng bộ, sự đồng thuận của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch nói chung đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận và đang trở thành tiềm năng, nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh. Dựa trên các giá trị di sản văn hóa, tỉnh đã xây dựng và thực hiện đồng bộ quy hoạch, kế hoạch về bảo tồn, tôn tạo, phục hồi và phát huy giá trị các khu, điểm di tích, danh thắng thành các khu, điểm du lịch, đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá hình ảnh di sản văn hóa Tuyên Quang... Thông qua đó, đã thu hút được một số nhà đầu tư chiến lược nghiên cứu tìm hiểu, đầu tư triển khai thực hiện các chương trình, dự án phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh. Tập đoàn VinGroup đầu tư Khu nghỉ dưỡng Vinpearl Tuyên Quang tại Khu du lịch Suối khoáng Mỹ Lâm; Tập đoàn SunGroup khảo sát đầu tư vào Khu danh lam thắng cảnh quốc gia đặc biệt Na Hang - Lâm Bình; Tập đoàn Flamingo đầu tư phát triển dịch vụ tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào... Giai đoạn 2016-2020, Tuyên Quang đã thu hút 8.445.700 lượt khách du lịch; tổng thu xã hội từ du lịch đạt 7.425 tỷ đồng.

 

Tuyên Quang có hơn 600 di tích lịch sử, văn hóa, nhiều địa danh lịch sử, văn hóa đã ghi dấu mốc và in sâu trong tiềm thức nhân dân, trong lịch sử cách mạng của đất nước. Đến nay, tỉnh đã lập hồ sơ đề nghị và được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng 3 di tích quốc gia đặc biệt, gồm: Khu di tích lịch sử, văn hóa và sinh thái Tân Trào, Khu di tích lịch sử Kim Bình, Khu di tích bảo tồn thiên nhiên Na Hang, Lâm Bình; Bộ Văn hóa, Thể’ thao và Du lịch xếp hạng 180 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh quốc gia; 260 di tích được Ủy ban nhân dân tỉnh xếp hạng cấp tỉnh. Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo quản, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch đến năm 2025, trên cơ sở đó Hội đồng nhân dân tỉnh đã phê duyệt chủ trương dự án bảo quản tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị khu di tích với nhiều hạng mục công trình có giá trị lịch sử văn hóa: Khu tưởng niệm các vị tiền bối cách mạng đã sống và làm việc tại Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; Bảo tàng Tân Trào và Phòng chiếu phim... Việc tu bổ, tôn tạo các di tích cách mạng đã đạt được những kết quả tích cực, qua đó góp phần cho công tác nghiên cứu, giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho cán bộ, nhân dân trong và ngoài tỉnh. Hiện nay, tỉnh đang triển khai các bước lập quy hoạch tổng thể bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị di tích lịch sử Địa điểm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa; quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị danh thắng quốc gia đặc biệt Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang, Lâm Bình. Các quy hoạch được duyệt sẽ là tiền đề quan trọng để Tuyên Quang tập trung nguồn lực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển và đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.

 

Cùng với bảo tồn di sản văn hóa vật thể, Tuyên Quang cũng làm tốt việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể. Tỉnh đã tiến hành kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn đối với 16/26 dân tộc . Đặc biệt, sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực, tỉnh Tuyên Quang đã chủ trì, phối hợp với Viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và 10 tỉnh  xây dựng hồ sơ "Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái Việt Nam” trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Việc UNESCO ghi danh Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái Việt Nam tại Danh sách di sản văn hóa phi vật thể’ đại diện của nhân loại khẳng định bản sắc văn hóa phong phú của dân tộc Việt Nam, hòa nhập vào dòng chảy văn hóa của nhân loại; đề cao, tôn trọng đa dạng văn hóa. Từ năm 2013 đến nay tỉnh đã lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa 10 di sản của tỉnh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Lễ hội Lồng tông; Hát Then (dân tộc Tày); Hát Páo dung; Lễ cấp sắc (dân tộc Dao); Kéo co truyền thống của cộng đồng các dân tộc Tuyên Quang; Hát Soọng Cô (dân tộc Sán Dìu); Hát Sình ca (dân tộc Cao Lan); Lễ hội Đình Thọ Vực (xã Hồng Lạc, huyện Sơn Dương); Lễ hội Rước mẫu đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La (thành phố Tuyên Quang); Nghệ thuật trang trí trên trang phục truyền thống của người Dao Đỏ (huyện Sơn Dương, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, Lâm Bình)... Các di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng với nhiều sắc thái đặc sắc, hấp dẫn chính là nguồn lực văn hóa giàu giá trị, tạo nên những sản phẩm du lịch riêng có, thu hút khách du lịch. Các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh đã tích cực khai thác, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và đã hình thành một số điểm thu hút đông đảo khách du lịch tham quan, trải nghiệm, như: điểm du lịch cộng đồng tại thôn Bản Ba, xã Trung Hà (huyện Chiêm Hóa); thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, thôn Nặm Đíp, xã Lăng Can (huyện Lâm Bình); thôn Nà Khá xã Năng Khả, thôn Khau Tràng xã Hồng Thái (huyện Na Hang)... Thông qua đó, người dân đã nhận thấy lợi ích tích cực của du lịch cộng đồng mang lại và tiếp tục phát triển, mở rộng quy mô đón khách du lịch tham quan, trải nghiệm. Bước đầu khai thác có hiệu quả giá trị của di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch.

 

Nhằm bảo tồn, phát huy có hiệu quả giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong giai đoạn hiện nay, tỉnh đã triển khai thực hiện một số đề tài khoa học nghiên cứu bảo tồn văn hóa các dân tộc như: nghiên cứu văn hóa truyền thống dân tộc Pà Thẻn, Sán Dìu; nghiên cứu bảo tồn phát huy giá trị di sản Then trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Thành lập các câu lạc bộ bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc như: Câu lạc bộ hát Then - đàn Tính của dân tộc Tày; Câu lạc bộ hát Páo dung của dân tộc Dao; Câu lạc bộ hát dân ca của dân tộc Mông; Câu lạc bộ hát Sình Ca của dân tộc Cao Lan; Câu lạc bộ hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu; Câu lạc bộ giữ gìn tiếng nói và trang phục dân tộc của dân tộc Nùng... Tổ chức và tham gia các hội diên, hội thao dành cho đồng bào các dân tộc như: Liên hoan văn hóa các dân tộc, Giải thể thao dân tộc toàn tỉnh... Hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, văn nghệ quần chúng cũng đã chú trọng khai thác các làn điệu dân ca, dân vũ các dân tộc thiểu số. Thông qua hoạt động nghệ thuật, nhiều nghệ nhân người dân tộc thiểu số đã tích cực truyền dạy lại cho con cháu các di sản văn hóa của dân tộc mình. Một số nhạc sĩ, biên đạo múa đã dựa trên những chất liệu dân gian sáng tác những bài hát, bản nhạc, tiết mục múa mang đậm đà bản sắc dân tộc, qua đó góp phần giới thiệu, quảng bá, đồng thời giữ gìn và phát huy những bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc. Tỉnh cũng đã quan tâm chế độ, chính sách, kịp thời biểu dương, khen thưởng, khuyến khích các hạt nhân văn nghệ có nhiều công lao, đóng góp tích cực trong việc truyền dạy văn hóa dân tộc. Hiện nay, tỉnh Tuyên Quang có 10 nghệ nhân được Nhà nước công nhận, tặng danh hiệu, gồm: 8 Nghệ nhân ưu tú và 2 Nghệ nhân nhân dân. Năm 2020 đề nghị xét tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú cho 4 người.

 

Công tác bảo tồn, phục dựng lễ hội được quan tâm. Toàn tỉnh hiện có 46 lễ hội, trong đó có 42 lễ hội truyền thống, 4 lễ hội văn hóa. Nhiều lễ hội được duy trì và tổ chức quy mô như: Lễ hội Lồng Tông, dân tộc Tày của các huyện Na Hang, Lâm Bình, Chiêm Hóa; Lễ hội đình của dân tộc Cao Lan ở các huyện Yên Sơn, Sơn Dương và thành phố Tuyên Quang. Đặc biệt, từ năm 2014, tỉnh duy trì tổ chức Lễ hội Thành Tuyên - lễ hội Trung thu độc đáo và đã trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc, riêng có của Tuyên Quang, lễ hội được tổ chức thường niên gắn với các sự kiện văn hóa cấp quốc gia và khu vực, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương.

 

Du lịch lòng hồ Na Hang tạo ấn tượng với đông đảo du khách. (Nguồn: Báo Tuyên Quang)

 

Có thể nói, di sản văn hóa Tuyên Quang đã có đóng góp lớn vào di sản văn hóa quốc gia, di sản nhân loại, đồng thời là nguồn lực quan trọng để tỉnh khai thác vào phát triển kinh tế du lịch, đóng góp chung vào phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

 

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thời gian qua còn một số hạn chế, như: Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức rõ vai trò của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, chưa quan tâm đúng mức đến công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhận thức của nhân dân các dân tộc về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc còn nhiều hạn chế, chưa có ý thức trong việc bảo lưu, truyền bá văn hóa của dân tộc mình cho thế hệ kế tiếp. Việc khai thác tiềm năng, giá trị di sản văn hóa lớn để phát triển du lịch còn hạn chế. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị thất truyền. Công tác tuyên truyền, quảng bá giới thiệu di sản văn hóa chưa được thường xuyên. Hạ tầng giao thông và hệ thống các thiết chế, cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa thiếu đồng bộ; nguồn kinh phí nhà nước đầu tư cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, tôn tạo di tích còn hạn chế; công tác xã hội hóa chưa đáp ứng so với yêu cầu...

 

Từ thực tiên nêu trên, để tiếp tục thực hiện công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tỉnh Tuyên Quang xác định quan điểm, mục tiêu và giải pháp cụ thể để triển khai đồng bộ, có hiệu quả như sau:

 

* Về quan điểm: Tiếp tục xác định công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa để phát triển kinh tế - xã hội bền vững là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt, cần được quán triệt và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; tạo điều kiện để các dân tộc bình đẳng, tăng cường đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: Phấn đấu đưa Tuyên Quang trở thành tỉnh phát triển khá, toàn diện, bền vững trong các tỉnh miền núi phía Bắc. Đây cũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân nhằm duy trì, phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp, tạo nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

 

* Về mục tiêu: Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, để văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Phát huy vai trò các chủ thể văn hóa trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống cách mạng, niềm tự hào là Thủ đô Khu giải phóng - Thủ đô kháng chiến, niềm tin, khát vọng phát triển tỉnh Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong tỉnh, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới; góp phần làm giảm chênh lệch về mức sống và hưởng thụ văn hóa giữa các địa phương, các dân tộc trong tỉnh; gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của các dân tộc.

Quan tâm đầu tư nguồn lực, cho công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế' với phát triển văn hóa, đặc biệt tại các địa bàn trọng điểm vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh.

 

* Về giải pháp thực hiện:

 

Một là, tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tuyên truyền sâu rộng và triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật về văn hóa, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

 

Lãnh đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, ở từng cấp nâng cao vai trò, sự chủ động, tích cực trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, rút ngắn khoảng cách về đời sống, mức hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các dân tộc, bảo đảm mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế, giữa bảo tồn, phát huy và phát triển.

 

Hai là, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phối hợp tuyên truyền, quảng bá sâu rộng các giá trị văn hóa và việc bảo tồn, phát triển di sản văn hóa thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng xã hội, biểu diễn văn nghệ, đặc biệt trong các buổi sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt chi hội, câu lạc bộ... để người dân nâng cao ý thức trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình. Khuyến khích tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc, các chủ thể văn hóa phối hợp với các cơ quan chuyên môn tham gia bảo tồn di sản văn hóa như: Khai thác tài nguyên thiên nhiên bền vững, bảo vệ di tích, bảo tồn nhà ở truyền thống các dân tộc; sưu tầm, ghi chép, ghi hình, ghi âm, chụp ảnh, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại di sản văn hóa... để bảo quản lâu dài trong Bảo tàng, Thư viện tỉnh. Tiếp tục phát triển phong trào văn nghệ quần chúng trong cộng đồng các dân tộc, chú trọng khai thác chất liệu dân gian, khôi phục một số lễ hội truyền thống. Sưu tầm, khôi phục các bài dân ca, các điệu dân vũ, các trò chơi dân gian; các làng nghề truyền thống; tri thức dân gian... của đồng bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích thế hệ trẻ tại địa phương tiếp thu bản sắc văn hóa dân tộc mình. Tổ chức các lớp truyền dạy như dạy học tiếng, hát dân ca, dân vũ, các nghề thủ công truyền thống, tri thức dân gian cho thế hệ trẻ.

 

Ba là, tăng cường liên kết trong việc bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa. Tiếp tục phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn đẩy nhanh tiến độ lập hồ sơ xây dựng Khu di sản thiên nhiên Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) - Na Hang (tỉnh Tuyên Quang) đệ trình UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Tiếp tục phát huy Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam được UNESCO ghi danh Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; đăng cai tổ chức và tham gia Chương trình du lịch qua những miền di sản Việt Bắc; đăng cai tổ chức và tham gia các ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc, ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Dao, Sán Chay, ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam...; Liên hoan hát Then, đàn tính toàn quốc; Liên hoan dân ca ba miền; tổ chức Lễ hội Thành Tuyên gắn với liên hoan di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nhằm thu hút khách du lịch, quảng bá truyền thống văn hóa các dân tộc.

 

Bốn là, tạo dựng môi trường sinh hoạt và thực hành di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, do yếu tố khách quan cũng như chủ quan, môi trường sinh hoạt và thực hành di sản văn hóa ngày càng bị thu hẹp. Trước đây, môi trường sinh hoạt văn hóa, nhất là môi trường thực hành nghệ thuật trình diễn dân gian, thường là ở không gian đình làng và nhà sàn truyền thống, nhưng hiện nay, nhiều làng bản, các ngôi đình làng đã xuống cấp, không được tu sửa hoặc phục dựng lại, cùng với đó là ngôi nhà sàn truyền thống được thay bằng nhà xây kiên cố, hiện đại. Vì vậy, cần tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số quan tâm xây dựng nhà ở bảo đảm kiến trúc truyền thống, cảnh quan. Đây mới thực sự là môi trường để tồn tại di sản, chỉ có thể bảo tồn tốt hình thức sinh hoạt thì mới có thể bảo đảm sự tồn tại của di sản văn hóa, không làm mất đi giá trị vốn có của dân tộc.

 

Năm là, từng bước kiện toàn bộ máy quản lý di sản văn hóa từ tỉnh đến cơ sở theo hướng hiệu lực, hiệu quả. Xác định công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa chỉ có thể đạt hiệu quả cao trong sự tổ chức có hệ thống, chặt chẽ và sự phối hợp đồng bộ của chính quyền địa phương, các cơ quan, ban, ngành, đội ngũ cán bộ ở cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý về di sản văn hóa có tâm huyết, trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật về di sản văn hóa cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin, trang bị những kiến thức cơ bản, kỹ năng xử lý tình huống trong quản lý di sản văn hóa.

 

Sáu là, đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất, tập trung nguồn lực quản lý bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhà nước quan tâm đầu tư bảo vệ di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, làm phong phú kho tàng di sản văn hóa dân tộc; số hóa trong quản lý, phát huy giá trị di sản văn hóa. Cùng với đầu tư của Nhà nước, cần tăng cường vận động các nguồn lực xã hội hóa trong việc bảo tồn di sản văn hóa. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cá nhân tham gia bảo vệ di tích; các nghệ nhân, chủ thể văn hóa, là những người đang nắm giữ bảo tồn và truyền dạy các giá trị di sản văn hóa. Gắn kết chặt chẽ việc phát triển du lịch với bảo tồn và phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên, di sản văn hóa, lịch sử và bản sắc văn hóa các dân tộc.

 

Bảy là, đẩy mạnh khai thác di sản văn hóa tạo thành sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội bền vững . Tập trung thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TU ngày 16/6/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (khóa XVII) về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, phấn đấu đến năm 2025 xây dựng Khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào cơ bản đáp ứng các tiêu chí Khu du lịch quốc gia; Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm là khu du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp; xây dựng, phát triển Lễ hội Thành Tuyên là sản phẩm du lịch đặc trưng, riêng có, mang thương hiệu cấp quốc gia; Danh thắng quốc gia đặc biệt Na Hang - Lâm Bình là trung tâm du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch khám phá có thương hiệu cấp quốc gia, tiến tới thương hiệu quốc tế; xây dựng, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch tâm linh tạo thành điểm nhấn thu hút khách du lịch. Mỗi huyện, thành phố xây dựng ít nhất một làng văn hóa đặc trưng gắn với phát triển du lịch; xây dựng từ một đến hai sản phẩm du lịch đặc trưng, hấp dẫn, thu hút khách du lịch; tập trung xây dựng một làng văn hóa dân tộc cấp tỉnh đảm bảo đồng bộ, bài bản, có đặc trưng riêng; phấn đấu đón trên 3 triệu lượt khách du lịch; tổng thu xã hội từ du lịch đạt trên 4.800 tỷ đồng; đóng góp cho GRDP từ 6% trở lên; tạo việc làm cho trên 25.000 lao động.

 

Đến năm 2030, hoàn thiện các tiêu chí Khu du lịch quốc gia Tân Trào là khu du lịch lịch sử quốc gia có uy tín, chất lượng; xây dựng Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm là khu du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế; Khu du lịch sinh thái Na Hang - Lâm Bình cơ bản đáp ứng các tiêu chí khu du lịch sinh thái quốc gia. Phấn đấu đón trên 5,5 triệu lượt khách du lịch; đóng góp vào GRDP toàn tỉnh từ 10% trở lên; tạo việc làm cho trên 35.000 lao động; hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đáp ứng đa dạng thị trường .

 

Tám là, thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước về di sản văn hóa trên địa bàn, bảo đảm đáp ứng và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra di sản văn hóa, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Tạo môi trường kinh doanh, điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và nhân dân tham gia khai thác di sản văn hóa để’ phát triển dịch vụ du lịch.

 

Di sản văn hóa Tuyên Quang là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc, là tài sản của các thế hệ đi trước trao truyền lại cho chúng ta. Việc bảo vệ, giữ gìn những di sản văn hóa cho hôm nay và mai sau chính là thể hiện sự biết ơn đối với các bậc tiền nhân và cũng là thể hiện cụ thể lòng yêu nước, vun đắp những truyền thống tốt đẹp của cha ông, đó là cội nguồn đồng thời là sức mạnh nội sinh để phát triển kinh tế’ - xã hội bền vững. Do vậy, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế’ - xã hội, thời gian tới tỉnh Tuyên Quang sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo nguồn lực quan trọng để quyết tâm xây dựng tỉnh Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp, văn minh, thực hiện thắng lợi mục tiêu "trở thành tỉnh phát triển khá, toàn diện, bền vững trong các tỉnh miền núi phía Bắc” như Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

 

P.V (Theo tham luận của Tỉnh ủy Tuyên Quang tại Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng)

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết