Đảng chính trị, Nhà nước và nhân dân là ba chủ thể cấu thành nên hệ thống chính trị của hầu hết các nước trên thế giới ngày nay. Tùy theo vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa các chủ thể này mà hình thành nên những hệ thống chính trị có những đặc điểm và bản chất chính trị khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở nước ta, ngay trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập, Đảng ta trên cơ sở kế thừa truyền thống của dân tộc và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, là người làm nên lịch sử, là sức mạnh vô địch, chỉ có tuyên truyền, vận động, tập hợp, đoàn kết nhân dân thì cách mạng mới thắng lợi. Sau khi cách mạng thành công, giành được chính quyền, Đảng ta lãnh đạo nhân dân xây dựng bộ máy nhà nước mới để quản lý đất nước, trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhưng người chủ của đất nước là nhân dân. “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là đặc điểm cơ bản nhất, thể hiện bản chất của chế độ ta, của hệ thống chính trị nước ta, là cơ chế vận hành của xã hội ta. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của đất nước ta, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Về quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý: Ở nước ta, sự ra đời của tổ chức Nhà nước là thành quả cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau khi cách mạng thành công, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tổ chức ra nhà nước để thay mặt nhân dân quản lý đất nước. Đảng trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, thông qua Nhà nước để lãnh đạo xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chỉ thị, nghị quyết, đề ra chủ trương, đường lối định hướng xây dựng tổ chức bộ máy, luật pháp, chính sách của Nhà nước; bằng việc giới thiệu đảng viên của mình để nhân dân bầu vào các vị trí lãnh đạo các cơ quan nhà nước để thể chế hóa chủ trương đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách và tổ chức thực hiện để chủ trương, đường lối của Đảng đi vào cuộc sống, đem lại những kết quả và bằng việc kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước về việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội tuyên truyền, vận động nhân dân ủng hộ, bảo vệ Nhà nước, tích cực tham gia thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước và giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thực hiện luật pháp, chính sách. Vai trò, chức năng của Đảng là lãnh đạo chính trị, định hướng chính trị cho luật pháp, chính sách, cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Khi Đảng là đảng cầm quyền thì việc thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước là thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước, Đảng lãnh đạo hoạt động mọi mặt của đất nước, của xã hội. Nhà nước trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có uy tín với nhân dân, đất nước ổn định, phát triển thì Đảng có uy tín với nhân dân, duy trì, củng cố được vai trò, vị trí cầm quyền của mình.
Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, nhưng Đảng không phải là Nhà nước, không có quyền lực nhà nước, Đảng không thể làm thay Nhà nước. Trong nền chính trị hiện đại, Nhà nước là do nhân dân thành lập (thông qua bầu cử) để thay mặt nhân dân quản lý đất nước. Đó là Nhà nước pháp quyền, quản lý đất nước, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật là tối thượng; mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân đều phải tuân thủ, chấp hành pháp luật, “sống và làm việc theo pháp luật”. Việc ban hành các văn bản pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Đảng cầm quyền cũng phải tuân thủ pháp luật, các tổ chức Đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiếp pháp và pháp luật. Các chủ trương, đường lối, quan điểm trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng phải thông qua đảng viên, tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước chuyển hóa thành luật pháp, chính sách của Nhà nước mới được toàn dân, cả xã hội thực hiện. Trong bối cảnh một Đảng có uy tín lớn, trở thành Đảng cầm quyền, đã cầm quyền nhiều năm, cần đề phòng việc xuất hiện hiện tượng không phân biệt rõ ranh giới, sự khác biệt giữa vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước; hiện tượng tổ chức Đảng “làm thay” cơ quan nhà nước, quyết định trước những công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước, biến việc quyết định của cơ quan nhà nước trở thành “hợp thức hóa” quyết định của Đảng; còn Đảng thì bị “Nhà nước hóa”, làm nảy sinh mầm mống làm Đảng suy thoái; Nhà nước không còn thật sự là Nhà nước pháp quyền, dẫn đến những hậu quả tiêu cực với cả Đảng và Nhà nước.
Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với nhân dân làm chủ. Nhận thức, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân phải xuất phát từ nhận thức, quan điểm nền tảng là nhân dân là người chủ của đất nước, lợi ích của đất nước là lợi ích của nhân dân, sức mạnh của đất nước là sức mạnh của nhân dân. Sứ mệnh, vai trò của Đảng, của Nhà nước là bảo vệ, phục vụ nhân dân. Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực của Nhà nước là do nhân dân ủy quyền. Đảng viên của Đảng, cán bộ, công chức của Nhà nước là con em của nhân dân, được dân nuôi dưỡng, tạo cho điều kiện làm việc để phục vụ nhân dân, phải là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân. Cương lĩnh của Đảng xác định xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, do nhân dân làm chủ”, “có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”[1]. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý là để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người giám sát, đánh giá hoạt động của Đảng, Nhà nước (các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, đảng viên và cán bộ, công chức nhà nước), quyết định về tổ chức, hoạt động của Nhà nước, quyết định vai trò cầm quyền (hay không cầm quyền) của Đảng.
Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng xác định Đảng là đội tiên phong của nhân dân lao động, của dân tộc, đại biểu trung thành lợi ích của nhân dân lao động và dân tộc; mục đích của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đảng không có mục đích, lợi ích nào khác là mục đích, lợi ích của đất nước, của nhân dân. Chính vì vậy và do những hy sinh, đóng góp to lớn của Đảng đối với đất nước, nhân dân đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp của của đất nước đã ghi nhận Đảng “là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”[2]. Cương lĩnh của Đảng khẳng định “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”[3]. Đường lối của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là để phục vụ lợi ích của nhân dân. Đường lối đổi mới của Đảng, sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo hơn 30 năm qua cũng là vì lợi ích của nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Là Đảng cầm quyền, song Cương lĩnh của Đảng xác định “Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân”[4]. Một trong những bài học kinh nghiệm của Đảng rút ra từ thực tiễn cách mạng là “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bài học rút ra từ những năm qua là trong điều kiện Đảng cầm quyền phải đặc biệt chăm lo củng cố, sự liên hệ giữa Đảng với nhân dân”[5]. Giữ gìn, củng cố mối quan hệ gắn bó với nhân dân, lòng tin, sự ủng hộ của nhân dân luôn được Đảng xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mình.
Xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt để Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đoàn kết, thống nhất, hoàn thành tốt trọng trách với đất nước, với nhân dân. Trong những năm vừa qua, công tác xây dựng Đảng đã được đẩy mạnh: Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu phấn đấu của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng tinh, gọn; nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp yêu cầu của thời kỳ mới phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng... Những kết quả đạt được đã củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.
Hiến pháp của đất nước xác định “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” (Điều 2), “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”, “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3), “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6), “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân” (Điều 8)[6]. Nhà nước quản lý mọi mặt hoạt động đối nội, đối ngoại của đất nước: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật: ban hành pháp luật và tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và thực hiện đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người dân (người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, trong khi đó, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép).
Trong những năm đổi mới vừa qua, tổ chức bộ máy và phương thức quản lý của Nhà nước có nhiều đổi mới, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Nhà nước tập trung vào xây dựng hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách, quản lý vĩ mô bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các định mức, tiêu chuẩn, không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của doanh nghiệp, giá cả thị trường, hoạt động của các tổ chức xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, phù hợp với thông lệ quốc tế, với các điều ước mà Việt Nam đã ký với các tổ chức và các nước trên thế giới. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng các hình thức sở hữu, kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; việc xã hội hóa, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào cung ứng các dịch vụ công giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, tư vấn pháp luật... đã mở rộng, thu hút sự tham gia tích cực của người dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực này. Quốc hội, chính phủ có rất nhiều đổi mới cả về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động[7], tập trung vào xây dựng thể chế, quản lý vĩ mô, quyết định những vấn đề lớn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Lĩnh vực tư pháp thực hiện nhiều đổi mới tổ chức và hoạt động theo chiến lược cải cách tư pháp để nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân...
Những đổi mới trong quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã phát huy dân chủ, quyền làm chủ, sức mạnh của nhân dân, tạo ra những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp; thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; các lĩnh vực văn hóa, xã hội đều có bước phát triển, quốc phòng, an ninh được tăng cường, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Những thành tựu đó được nhân dân và bạn bè quốc tế thừa nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những đổi mới trong quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm chủ của nhân dân đưa đến những kết quả tích cực thì đến nay, việc nhận thức và giải quyết những quan hệ này vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi tiếp tục phải được xử lý. Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý, một mặt, vẫn còn tình trạng cấp ủy Đảng làm thay quản lý nhà nước, can thiệp sâu vào hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước, làm cơ quan nhà nước thụ động, ỷ lại, chờ đợi sự chỉ đạo của cấp ủy mà không thực hiện đầy đủ chức trách theo quy định của pháp luật, không thực hiện đúng quyền lực Nhà nước được giao. Mặt khác, tình trạng các cơ quan nhà nước thực hiện không đầy đủ, đúng đắn, có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng: thể chế hóa chậm, không đầy đủ, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện bị buông lỏng, kỷ luật kỷ cương không nghiêm. Cả hai tình trạng này đều dẫn tới khó xác định trách nhiệm, khó đánh giá năng lực, phẩm chất cán bộ, công chức; đều ảnh hưởng xấu đến vai trò của pháp luật, của các cơ quan quản lý nhà nước, qua đó, ảnh hưởng tới quyền làm chủ của nhân dân (chỉ có Nhà nước mới do dân bầu ra, thay mặt nhân dân quản lý đất nước); ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế, xã hội đất nước, đến đời sống của nhân dân.
Quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và làm chủ của nhân dân còn có những vấn đề như: Nhiều quan điểm của Đảng về gắn bó với nhân dân, gần dân, trọng dân, phục vụ nhân dân, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, cán bộ công chức là đầy tớ của nhân dân chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Chất lượng lãnh đạo, quản lý, chất lượng luật pháp, cơ chế chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trên các lĩnh vực còn nhiều hạn chế (chồng chéo, mâu thuẫn, tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý, gây khó khăn cho doanh nghiệp và người dân), thủ tục hành chính còn phiền hà, môi trường đầu tư kinh doanh chưa thật sự thông thoáng, công khai, minh bạch, chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, việc tiếp cận các nguồn lực còn khó khăn, phân bổ các nguồn lực còn cơ chế “xin - cho”... quyền tự do kinh doanh, quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế chưa thực hiện đầy đủ. Đáng lo ngại là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống không những không phải là “đầy tớ, công bộc” của dân mà gây khó khăn, nhũng nhiễu, ức hiếp người dân, tham nhũng, quan liêu, lãng phí, vi phạm pháp luật, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; an ninh, an toàn, quyền và lợi ích của người dân bị xâm phạm, làm nhân dân bất bình, giảm sút lòng tin vào Đảng, Nhà nước, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Chênh lệch về thu nhập, mức sống của các tầng lớp xã hội còn lớn. Một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cuộc sống còn rất nhiều khó khăn, việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, sinh hoạt văn hóa, tinh thần còn ở mức thấp...
Do còn nhiều hạn chế như nêu trên và trong bối cảnh tình hình thế giới rất phức tạp tạo ra rất nhiều khó khăn, thách thức đối với nước ta trong những năm tới, việc tiếp tục nhận thức, quán triệt, giải quyết tốt mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa đất nước phát triển vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong đó cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ sau:
- Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thống nhất nhận thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý là để thực hiện, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức là công bộc của dân để không ngừng rèn luyện, phấn đấu nâng cao ý thức phục vụ nhân dân.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, bảo đảm vai trò cầm quyền của Đảng, định hướng chính trị cho hoạt động của Nhà nước, cho việc xây dựng luật pháp, chính sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện mà không làm thay Nhà nước. Phương thức cầm quyền của Đảng cần được thể chế hóa thành luật pháp; thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân về hoạt động của mình. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng để chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra đúng đắn, được thực hiện hiệu quả, thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng thực sự trong sạch, ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên. Củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân với Đảng.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước thật sự là Nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân, vì dân, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng. Nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực sự là công bộc của nhân dân; tăng cường kỷ luật kỷ cương, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, nhũng nhiễu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trong đội ngũ cán bộ, công chức.
- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và giữa các tổ chức của hệ thống chính trị. Cụ thể hóa, thể chế hóa quan điểm về sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thể chế hóa vai trò của nhân dân kiểm tra, giám sát các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức./.
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.70.
[2] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2014, tr.9.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.65.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.89.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, tr.28.
[6] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2014, tr.8,9,10,11.
[7] Thành lập Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Quốc hội, sáp nhập các Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Cơ khí luyện kim, Bộ Năng lượng, Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương, Bộ Vật tư thành Bộ Công thương; các Bộ Nông nghiệp, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy sản, Bộ Thủy lợi, Bộ Nông, lâm trường thành Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn...