Độc lập, tự chủ ở đây là độc lập, tự chủ của đất nước, của quốc gia, là năng lực của quốc gia giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt, bắt buộc từ các lực lượng bên ngoài. Một đất nước độc lập, tự chủ là một đất nước có quyền, có năng lực quyết định việc lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị của mình, là đất nước có độc lập, tự chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Độc lập, tự chủ là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của các nước trên thế giới; là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng là mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày nay.
Hội nhập quốc tế là sự tham gia của các quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, để quốc gia trở thành một bộ phận cấu thành, có vị trí, vai trò nhất định trong các lĩnh vực hoạt động của cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế thị trường, các tập đoàn kinh tế lớn, các hoạt động kinh tế đã vượt khỏi biên giới các quốc gia; các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư kinh doanh của nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã diễn ra trên quy mô toàn cầu, hình thành nên thị trường toàn cầu, các chuỗi sản xuất toàn cầu, phân công lao động và hợp tác kinh tế trên quy mô toàn cầu. Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ của lịch sử. Xu hướng khách quan, tiến bộ đó của thế giới, của thời đại đã thu hút sự tham gia của ngày càng nhiều quốc gia. Hội nhập quốc tế trở thành nhu cầu, phương thức phát triển của các quốc gia. Hội nhập đem lại cho các quốc gia những nguồn lực, cơ hội để phát triển: đó là thị trường, thành tựu khoa học công nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, quản trị hiện đại cho phát triển kinh tế; các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phong phú để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; để đất nước tiến cùng thời đại. Hội nhập quốc tế, tăng cường sự liên kết, tạo sự đan xen lợi ích, củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị, lòng tin giữa các quốc gia là nhân tố rất quan trọng để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh, duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển chung... Hội nhập quốc tế để phát triển, muốn phát triển cần phải hội nhập quốc tế. Đây cũng là một xu hướng khách quan, tiến bộ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đối với các quốc gia không chỉ có cơ hội, thuận lợi mà còn có không ít khó khăn thách thức; trong đó, thách thức lớn nhất là phải bảo vệ, giữ vững được độc lập, tự chủ của đất nước. Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế, do đó, là một trong những mối quan hệ đặc biệt quan trọng cần được quán triệt và giải quyết tốt trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta.
Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là quan hệ biện chứng, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của đất nước thống nhất với nhau ở mục tiêu cuối cùng đều là vì lợi ích của đất nước, của quốc gia, dân tộc, đều vì lợi ích của nhân dân. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là vì lợi ích của đất nước, để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Độc lập, tự chủ cũng vì lợi ích của đất nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, từng nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta trong những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 “Dù có phải đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do”; đồng thời, Bác cũng từng nói nước được độc lập mà nhân dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn có quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện của nhau. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tiền đề, điều kiện cho hội nhập quốc tế, cụ thể là cho việc xác định chiến lược hội nhập, nội dung, bước đi, cách thức hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực để hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao nhất. Mục tiêu của hội nhập quốc tế phải phục vụ mục tiêu phát triển, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, củng cố độc lập, tự chủ của đất nước. Nội dung, bước đi, cách thức hội nhập trên các lĩnh vực phải xuất phát từ chiến lược phát triển chung của đất nước, từ tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế trong từng giai đoạn... Đồng thời, trong thời đại ngày nay, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với cộng đồng quốc tế. Một quốc gia bảo vệ độc lập, tự chủ của mình bằng cô lập, tách biệt khỏi cộng đồng quốc tế nhất định sẽ đi đến trì trệ, kém phát triển, do đó, cuối cùng sẽ nhất định không thể bảo vệ được độc lập, tự chủ của mình.
Song, quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế không chỉ có thống nhất, hỗ trợ, gắn bó với nhau, mà còn có mặt mâu thuẫn, thậm chí xung đột nếu không được nhận thức và giải quyết đúng đắn. Trong thời đại toàn cầu hóa, nhưng vẫn còn có nhận thức lo ngại, do dự hội nhập quốc tế vì sợ mất độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước; có những quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ độc lập, tự chủ của mình. Nếu loại bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì một cách khách quan, những lo ngại về mất độc lập, tự chủ của đất nước không phải là không có cơ sở bởi hội nhập quốc tế thật sự tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước. Khi hội nhập quốc tế, đất nước phải chấp nhận và tuân thủ những “luật chơi” chung; khi tham gia, trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương với các nước, các khu vực trên thế giới, đất nước phải điều chỉnh luật pháp, chính sách của mình phù hợp với các cam kết đã ký. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị trường cho doanh nghiệp và sản phẩm của đất nước, mà cũng phải mở cửa thị trường của đất nước cho doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngoài; các doanh nghiệp, các sản phẩm của đất nước đứng trước thách thức cạnh tranh rất lớn với các doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngoài, không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước. Những biến động, bất ổn trên thị trường thế giới, của kinh tế thế giới sẽ trực tiếp, nhanh chóng tác động, gây ra những bất lợi cho kinh tế đất nước. Những nguy cơ như: bất ổn của kinh tế đất nước do những tác động từ bên ngoài; đất nước trở thành “bãi thải” công nghệ, bị ô nhiễm môi trường, phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài... đều rất lớn. Những nguy cơ này sẽ trở thành hiện thực khi đất nước không có một chiến lược hội nhập quốc tế đúng đắn, hiệu quả phù hợp với điều kiện của mình. Đây là điều đã và đang xảy ra trên thế giới, ở nhiều nước với các mức độ khác nhau.
Ở nước ta, trong khi quan điểm về bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước luôn là quan điểm lớn, nhất quán, bất biến, được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta ở các giai đoạn, thì quan điểm về hội nhập quốc tế được hình thành, phát triển trong hơn 30 năm đổi mới, là một trong những nội dung lớn của đường lối đổi mới đất nước của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội VI của Đảng (1986), Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, còn xác định “nước ta phải tham gia vào phân công lao động quốc tế, trước hết và chủ yếu là với các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”[1]; Đại hội VII của Đảng (1991) chủ trương “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[2]; Đại hội VIII của Đảng (1996), bên cạnh việc tiếp tục khẳng định quan điểm thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, đã đề ra chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”[3]. Đại hội IX của Đảng (2001), cùng với phát triển quan điểm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, đã phát triển quan điểm “hội nhập kinh tế” thành “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và nhấn mạnh “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hội nhập, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN”[4]. Quan điểm “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của Đại hội IX tiếp tục được Đại hội X (2006) phát triển thành “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”[5]. Đại hội XI của Đảng (2011) đã đưa nhận thức, quan điểm về hội nhập quốc tế lên một bước phát triển mới khi đưa vào Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, tức là không chỉ hội nhập kinh tế mà hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực và khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế”[6]. Cương lĩnh yêu cầu trong quá trình đổi mới đất nước phải nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn, trong đó có “quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế”. Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, nâng cao hiệu quả hội nhập trên các lĩnh vực.
Từ các quan điểm, chủ trương của Đảng phát triển qua các kỳ Đại hội, đến nay, có thể khẳng định: Độc lập, tự chủ luôn là mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, tất yếu để phát triển đất nước trong thời đại toàn cầu hóa. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là để tận dụng, phát huy sức mạnh của thời đại vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước ta; nâng cao vị thế, uy tín, vai trò của đất nước tham gia vào giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới, đóng góp vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Phương châm hội nhập là chủ động, tích cực. Chủ động lựa chọn nội dung, bước đi, lĩnh vực, đối tác phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển, với khả năng của đất nước và bối cảnh quốc tế; việc thực hiện phải tích cực để đạt hiệu quả cao. Hội nhập quốc tế toàn diện trên các lĩnh vực, nhưng hội nhập kinh tế là trọng tâm. Hội nhập phải trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, phải là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp. Bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước phải là một mục tiêu, nguyên tắc, một tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hội nhập quốc tế.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, hội nhập quốc tế của đất nước ta đã được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 184 nước thuộc tất cả các châu lục, có quan hệ với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc; có quan hệ kinh tế, thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, đa phương, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam là thành viên Liên Hiệp Quốc, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thành viên ASEAN, APEC, ASEM... Hội nhập quốc tế được mở rộng, phát triển tất cả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp mở rộng thị trường, thu hút được lượng lớn vốn đầu tư, thành tựu khoa học, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao trình độ của nền kinh tế, thu nhập, đời sống nhân dân. Hội nhập văn hóa, xã hội đã thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của đất nước, quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và làm phong phú đời sống văn hóa đất nước bằng những sản phẩm, giá trị văn hóa của các nước trên thế giới. Hội nhập về chính trị, quốc phòng, an ninh tạo điều kiện cho xây dựng và tăng cường lòng tin giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, góp phần vào duy trì môi trường hòa bình, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Hội nhập quốc tế, do đó, đã góp phần quan trọng vào tăng cường, nâng cao sức mạnh tổng hợp, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, yếu tố quyết định để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.
Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế vẫn còn những hạn chế. Nhận thức về mối quan hệ này chưa đầy đủ, chưa thành ý thức thường trực ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực; vẫn còn biểu hiện chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt, còn không thấy về lâu dài sẽ ảnh hưởng độc lập, tự chủ của đất nước. Chất lượng, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao, chưa tận dụng và khai thác có hiệu quả các tiềm năng, cơ hội do hội nhập đem lại để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tình trạng xuất khẩu một số sản phẩm tập trung quá nhiều vào một thị trường; nhất là tình trạng nhập siêu, thâm hụt thương mại lớn, kéo dài với một đối tác, không được khắc phục mà vẫn tiếp tục gia tăng. Tình trạng thiếu chủ động, kịp thời sử dụng các biện pháp phòng vệ không trái với cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước sự xâm nhập của các lực lượng kinh tế hùng mạnh từ các nước trên thế giới; để ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với kinh tế đất nước do những biến động, cú sốc từ bên ngoài. Tình trạng không phải các doanh nghiệp trong nước là lực lượng nòng cốt, chủ lực mà doanh nghiệp FDI mới là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế của đất nước (đã chiếm trên 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu, gần 70% giá trị sản xuất công nghiệp), trong khi doanh nghiệp FDI hầu như tách biệt với các doanh nghiệp trong nước, trở thành khu vực kinh tế biệt lập...
Trong những năm tới, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh và kinh tế thế giới, khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, cơ hội và thách thức đối với đất nước ta đều rất lớn. Hội nhập quốc tế phải tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả; độc lập tự chủ của đất nước phải tiếp tục được giữ vững, tăng cường. Trong bối cảnh đó, việc quán triệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế cùng có ý nghĩa quan trọng. Để bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước trong bối cảnh tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi:
- Phải giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh; nâng cao uy tín quốc tế; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phải bảo đảm an ninh, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, thực sự là nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cần phải theo một chiến lược hội nhập tổng thể với nhiều hình thức đa dạng, lộ trình, bước đi phải phù hợp với chiến lược, mục tiêu, năng lực của đất nước trong từng giai đoạn. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, nhất là với các đối tác lớn, có vai trò và ý nghĩa chiến lược, tránh lệ thuộc vào một đối tác, một thị trường. Đổi mới, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài. Có những giải pháp hiệu quả ngăn ngừa, làm thất bại những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chủ động xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường trong nước trước những biến động phức tạp, tác động tiêu cực từ thị trường và kinh tế thế giới, không trái với các cam kết quốc tế đã ký kết...
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch HĐLLTW
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, Nxb. Sự thật, H, 1986, tr.81.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII, Nxb. Sự thật, H, 1991, tr.147.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.84.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.120.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr.112.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.27-28.