Mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội là mối quan hệ lớn, cơ bản, đòi hỏi phải giải quyết hài hòa trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ này chính là góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ này những năm qua
(1) Một số kết quả
Một là, trong thực tiễn Nhà nước đã thực sự chú ý đến vai trò "bà đỡ" cho thị trường hình thành và phát triển. Đã thể chế hóa và tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường, nên các thị trường có sự phát triển mạnh về quy mô và chất lượng, các thị trường mới được hình thành; đã thực sự chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực, quy mô giao dịch tăng cao. Đồng thời “xã hội hoá” một số nhiệm vụ của nhà nước; nhà nước mở các ngành, các lĩnh vực, trước đây được coi là độc quyền nhà nước, rút lui dần khỏi lĩnh vực kinh doanh không cần thiết và “nhường lại” cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hai là, đã hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, bao gồm: (i) Phân biệt chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở; (ii) Nhà nước "từ bỏ" hoạt động quản trị và can thiệp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế; (iii) Tách bạch chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước xoá bỏ “bộ chủ quản”; “chính quyền chủ quản” của doanh nghiệp nhà nước. Thể chế kinh tế mới hướng tới xác định quan hệ phù hợp giữa bộ ba: Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc cơ chế thị trường.
Ba là, trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật thị trường, đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”, đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế kết hợp với điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết.
Thể chế định giá, nhất là giá cả hàng hóa, dịch vụ, đã được tự do hóa; giá cá hàng hóa, dịch vụ về cơ bản đã được quyết định bởi thị trường, theo quy luật thị trường. Cạnh tranh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng; độc quyền trong kinh doanh, độc quyền thị trường và cạnh tranh không lành mạnh ngày càng được kiểm soát và có chiều hướng giảm.
Bốn là, vai trò, chức năng của thị trường cũng càng được coi trọng, thể hiện rõ nét ở những điểm sau:
- Thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để Nhà nước định hướng phát triển kinh tế đất nước thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Thị trường/doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ xã hội. Hiện nay, Nhà nước thông qua cơ chế thị trường, đang chuyển sang khai thông tiềm năng của khu vực tư nhân, không phải với tư cách là một nguồn thay thế, mà là một nguồn bổ sung cho Nhà nước trong việc cung ứng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ xã hội.
- Thị trường là căn cứ để tạo một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật.
- Thị trường tham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.
Năm là, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Bản thân doanh nghiệp nhà nước cũng phải vận hành, hạch toán theo cơ chế thị trường. Đáng chú ý là việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý chung của Nhà nước thông qua thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đây là thay đổi lớn, qua đó khắc phục những tồn tại, hạn chế của mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước hiện nay. Chính phủ cũng đã đẩy mạnh cải cách, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành góp phần đưa các doanh nghiệp nhà nước được tập trung nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu. Sau gần 18 năm cổ phần hóa, kể từ khi có Nghị quyết TW 3 khóa IX năm 2001 đến nay, tuy vẫn còn chậm, song đã đạt được nhiều kết quả trong việc giảm số lượng DNNN làm ăn thua lỗ, năng lực tài chính, quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên.
Sáu là, khu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong các lĩnh vực pháp luật không cấm, và tham gia cung ứng dịch vụ công. Đây là một trong những thành công của quá trình xử lý quan hệ nhà Nước-thị trường-xã hội trong những năm vừa qua. Trên thực tế vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày càng được thừa nhận và có đóng góp ngày càng lớn xét trên tỷ lệ nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, đóng góp thu ngân sách, tạo việc làm…Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh với nhiều loại hình đa dạng, có những doanh nghiệp, tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Bảy là, phát triển các doanh nghiệp xã hội và các hội tự quản. Phát triển doanh nghiệp xã hội (DNXH) là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Từ khi khái niệm DNXH được biết đến vào những năm 2008 đến nay, DNXH đã phát triển đa dạng, có sức ảnh hưởng đến chính sách của nhà nước và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Hoạt động ươm tạo và hỗ trợ các DNXH cũng đạt được những kết quả nhất định. Thống kê cho thấy, số lượng doanh nghiệp kinh doanh tạo tác động xã hội đang chiếm khoảng 4% khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó có hơn 20 tổ chức, đơn vị có chương trình ươm tạo, tăng tốc phát triển hoặc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp và sáng kiến kinh doanh tạo tác động xã hội tại Việt Nam, góp phần tạo nên một hệ sinh thái năng động và đa dạng, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của DNXH.
Bên cạnh các DNXH, với việc đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa cơ sở, trong những năm qua mô hình tự quản khu dân cư đã phát triển khá đa dạng ở nhiều địa phương như: tuyến đường tự quản, tự quản bảo vệ môi trường, tự quản an ninh trật tự…(các tỉnh: Tuyên Quảng, Quảng Nam, Ninh Thuận…) đã góp phần nâng cao đời sống người dân. Đây là hướng quan trọng góp phần nâng cao vai trò thành tố xã hội trong tạo lập môi trường tăng trưởng, giám sát, bổ sung cho những khuyến khuyết của thị trường trong những năm qua.
Tám là, trong quá trình xây dựng cũng như thực hiện chủ trương, chính sách đã chú ý gắn bó hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước-thị trường- xã hội, tức là có sự phân vai ngay trong quá trình xây dựng chủ trương, chính sách, do vậy tính khả thi chính sách cũng cao hơn, có sự đồng thuận của người dân. Sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội vào quá trình định hình chính sách ngày một rõ và hiệu quả.
(2) Hạn chế, yếu kém
Một là, trong những năm qua, việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước- thị trường-xã hội ở nước ta còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập, như lẫn lộn vai trò giữa Nhà nước và thị trường, mà thực chất là Nhà nước hoặc không làm, làm không hết vai trò, hoặc can thiệp vào vai trò của các chủ thể khác trong nền kinh tế thị trường; Nhà nước chưa bổ khuyết tốt được cho thị trường, đôi khi vẫn còn hiện tượng phó mặc thị trường (tình hình được mùa, rớt giá năm nào cũng xảy ra).
Hai là, hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế còn thấp, một mặt là do sự can thiệp của Nhà nước không phù hợp với sự vận động của thị trường. Mặt khác, Nhà nước lại thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra. Công tác kế hoạch và quy hoạch của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn bất cập, chưa phù hợp với thực tế.
Trong việc sử dụng các công cụ can thiệp của nhà nước còn tồn tại một số bất cập như: công cụ pháp luật chưa ổn định, Nhà nước chưa thật sự trở thành “trọng tài” cho các chủ thể kinh tế; chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá phối hợp thiếu linh hoạt; thiếu tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống hành chính; hiệu quả của phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa thời gian vừa qua còn bộc lộ những hạn chế và đối mặt với một số thách thức; việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách chưa được thiết lập một cách chính thức; lực lượng vật chất của nhà nước can thiệp vào thị trường còn phân tán, lãng phí, vừa chưa theo quy hoạch, kế hoạch, vừa chưa theo quy luật của thị trường; quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước chưa bảo đảm cho đầu tư nhà nước và tư nhân hiệu quả, thống nhất được lợi ích nhà đầu tư và lợi ích nhà nước, giữa mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, giữa phát triển đất nước, vùng và địa phương; hệ thống dịch vụ công chưa phân tách các trách nhiệm tổ chức cung ứng, chi trả phí và quản lý để tiến hành đổi mới hiệu quả, mở rộng cơ hội cho tư nhân tham gia.
Nhà nước còn hạn chế trong kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị trường, nhất là kiến tạo phát triển các yếu tố thị trường. Điều này gắn liền với sự chưa rõ trong quan niệm xác định vai trò, mức độ tham gia kiến tạo thị trường của nhà nước, nên hiệu quả thực tế chưa cao.
Ba là, trong những năm qua, kinh tế Nhà nước đã đóng vai trò cột trụ, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế Nhà nước cũng đã bộc lộ hạn chế, bất cập, tập trung vào các vấn đề như: việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản; phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; cơ chế giám sát, công khai, minh bạch hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa tốt; khu vực sự nghiệp công chiếm quy mô lớn, chưa vận hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ nhà nước; nguồn lực nhà nước nắm giữ, phân bổ, đầu tư chưa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường; việc huy động các nguồn lực đầu tư cho dịch vụ công, phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ công vẫn còn một số bất cập.
Bốn là, còn tình trạng thiếu bình đẳng, hạn chế tính cạnh tranh và làm suy giảm năng lực kinh doanh của cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tình trạng độc quyền, trái với quy luật cạnh tranh ở một số lĩnh vực vẫn còn tồn tại. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Môi trường kinh doanh, đầu tư chưa thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.
Năm là, thể chế kinh tế thị trường ở nước ta vẫn chưa thực sự tôn trọng vai trò, chức năng của thị trường, chưa thực sự coi thị trường là một thực thể khách quan, vận động và phát triển theo quy luật vốn có không phụ thuộc vào ý chí cá nhân và tổ chức xã hội nào cả, kể cả ý chí của Chính phủ. Thể hiện rõ nhất là: vẫn còn duy trì chính sách bao cấp, xin cho của nền kinh tế kế hoạch hoá; vẫn duy trì những doanh nghiệp nhà nước độc quyền trong nhiều lĩnh vực kinh doanh cần chuyển sang thị trường cạnh tranh; vẫn còn tồn tại cung cách quản lý bao cấp, quan liêu, vẫn sử dụng nhiều chính sách trợ cấp, trợ giá theo kiểu cũ không khuyến khích được tinh thần tự lập, tự cường của đối tượng được trợ cấp. Những bộ phận chính sách và thể chế đó không phù hợp thực tế kinh tế thị trường, thậm chí còn là cơ sở nảy sinh lợi ích nhóm, hành vi tham nhũng, lạm quyền… làm giảm động lực phát triển kinh tế. Các yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế chậm được đồng bộ hoá. Đây là một trong những lý do Việt Nam vẫn còn bị nhiều nước xem xét và đánh giá là một quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường.
Sáu là, về vấn đề cạnh tranh, chống độc quyền và phát triển kinh tế tư nhân
Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa chính sách và thực thi, các doanh nghiệp vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong các thủ tục hành chính, đầu tư kinh doanh gây phiền hà, tốn thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Nhà nước dường như chưa thật sự tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công và khu vực tư, giữa các tổ chức kinh tế trong khu vực tư, trong tiếp cận các nguồn lực công; chưa giải phóng triệt để tiềm lực, thế mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Cũng vì vậy hiện phần lớn các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ, quản trị và năng lực tài chính hạn chế.
Bảy là, nhận thức và hoạt động của các tổ chức xã hội còn một số hạn chế. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức xã hội không rõ ràng, vừa chịu sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, vừa có nhiệm vụ giám sát, phản biện vai trò của Đảng và Nhà nước. Do chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng nên các tổ chức xã hội ở Việt Nam hoạt động còn thụ động, hiệu quả không cao. Mặt khác, cơ sở pháp lý, mà cụ thể là Luật về Hội, Hiệp Hội chưa được ban hành, nên sự hoạt động chưa có sự bảo đảm bằng pháp luật.
Tám là, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân còn có những hạn chế: Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một số lĩnh vực còn bị vi phạm; còn tình trạng “vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương”. Trong xã hội còn không ít biểu hiện mất dân chủ, hoặc dân chủ cực đoan; việc thực hành dân chủ có nơi, có lúc còn mang tính hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân còn hạn chế. Việc bảo đảm dân chủ trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp có nơi, có lúc chưa được tổ chức, thực hiện tốt. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở có mặt còn hình thức, chưa thực sự phát huy được vai trò, trách nhiệm của người dân.
(3) Nguyên nhân
Hiện trạng trên có nhiều nguyên nhân, có thể nêu 3 nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, sự đổi mới nhận thức
Những đổi mới trong nhận thức về nhà Nước-thị trường-xã hội chính là cơ sở cho thay đổi trong điều hành hoạt động thực tiễn. Việc tách bạch vai trò Nhà nước đã cho phép các hoạt động kinh doanh nhanh nhạy hơn, giảm được nhiều giấy phép con. Các doanh nghiệp đã chủ động khai thác nguồn lực xã hội, thực hiện đối tác công tư trong hoạt động kinh doanh.
Sự đổi mới trong nhận thức về kinh tế Nhà nước đã thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp và đổi mới hoạt động của khu vực Nhà nước theo cơ chế thị trường, dần nâng cao hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó tư duy về vai trò của các thành phần kinh tế, nhất là với vai trò động lực quan trong của kinh tế tư nhân đã thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển cùng với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, có đóng góp lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Đặc biệt sự đổi mới nhận thức về vai trò thị trường đã góp phần gia tăng vai trò thực tế của thành tố này trong hoạt động thực tiễn. Đáng chú ý là cơ chế thị trường đã hình thành và được vận dụng, xâm nhập vào nhiều quan hệ kinh tế vốn trước đây đóng khung theo quy định cứng nhắc. Vì vậy nền kinh tế vận hành thông thoáng hơn.
Việc nhìn nhận vai trò xã hội cũng có sự thay đổi, đòi hỏi ngay trong các ý tưởng và quyết sách đã phải tính đến các yếu tố xã hội không chỉ trên phương diện giải quyết các vấn đề xã hội, mà cả trên phương diện tính đến sự tác động của các vấn đề xã hội. Nếu trước đây chỉ chú ý đầu tư kinh tế để từ đó tạo nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội, thì này còn tính đến đầu tư vào các vấn đề xã hội để tạo môi trường điều kiện cho tăng trưởng. Hơn nữa với cách nhìn về vai trò xã hội, nhà nước cũng đã có điều chỉnh trong tạo lập các điều kiện cho các tổ chức xã hội vận hành, phát huy vai trò của mình đóng góp vào sự phát triển, khắc phục những khuyết tật của thị trường.
Tuy nhiên, cái khó trong điều hành hoạt động kinh tế, chính là những quy định và những nhận thức cũ theo tư duy của nền kinh tế kế hoạch tập trung, chúng trói buộc sự sáng tạo, năng động trong hoạt động sản xuất. Mặc dù chuyển sang kinh tế thị trường, cho dù có các quy định, nhưng độ trễ của thói quen vẫn tác động đến các hoạt động điều hành thực tiễn.
Thứ hai, sự thiếu vắng thể chế
Mặc dù đã có những cố gắng và nỗ lực như đã nói ở trên, nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập và vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất qua các thực tiễn như: Hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật; Một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao; Tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp; Quy trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng. Để các thành tố phát huy tốt vai trò chức năng, bước quan trọng là phải thể chế hóa các nhận thức đã đạt được thành các quy định pháp lý. Tuy những năm qua đã có nhiều cố gắng trong quá trình thể chế hóa, song thực tế vẫn còn thiếu vắng nhiều quy định, ví như Luật về hội, Quy định về kiểm soát độc quyền…
Thứ ba, sự hạn chế trong vận hành của bộ máy Nhà nước
Bộ máy Nhà nước tuy có sự đổi mới cải cách song còn nhiều hạn chế trong vận hành. Đó là tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối bên trong; việc phân cấp, phân quyền tuy chủ trương đã rõ nhưng thực hiện chưa thực sự hiệu quả, chưa đi vào cuộc sống...Cơ chế phối hợp các bộ phận, đầu mối chưa rõ ràng dẫn đến sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Tổ chức bộ máy và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chậm đổi mới; một số nhiệm vụ còn trùng lặp; có biểu hiện hành chính hóa, công chức hóa. Cơ cấu cán bộ, công chức còn bất cập giữa các cấp và trong từng cơ quan; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở hạn chế… Những điều đó ảnh hưởng ngay đến quá trình thể chế hóa quan điểm của Đảng, đến năng lực triển khai và thực thi các chính sách và quy định của Nhà nước nói chung, đến phối hợp giải quyết mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội nói riêng.
2. Một số vấn đề đặt ra
Để xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, như yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết TW 5 khóa XII, cùng với việc cần tập trung khắc phục các hạn chế cả trong nhận thức cũng như trong giải quyết thực tế mối quan hệ này những năm qua, là cần kịp thời giải quyết một số vấn đề đặt ra xung quanh triển khai thực hiện mối quan hệ này. Cụ thể là:
Vấn đề thứ nhất: tuy đã xác định vai trò chức năng của các thành tố, đã có bước thể chế hóa, song trong thực tiễn làm thế nào để nhà nước thực hiện tốt các chức năng, với tư cách chủ thể quản lý cũng như với tư cách một chủ thể trên thị trường; làm thế nào để thị trường thực sự đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ hiệu quả các nguồn lực, làm sao để xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát, bổ sung. Nghĩa rằng phải có có chế, nguyên tắc thế nào cho hợp lý, hiệu quả để giải quyết tốt mối quan hệ, phát huy vai trò các thành tố ?
Vần đề thứ hai: cần giải quyết mâu thuẫn trong sự phát triển không tương thích giữa 3 thành tố hiện nay. Phát huy vai trò của 3 thành tố tốt nhất khi bản thân chúng có sự phát triển hoàn thiện, nhà nước phải mạnh, thị trường phát triển và xã hội cũng được phát triển tương thích. Khi đó các thành tố đủ năng lực thực hiện các chức năng của chính mình trong môi trường thể chế hoàn bị. Hiện nay ở Việt Nam, tuy Nhà nước đã có quá trình phát triển, song cũng mới hơn 30 năm chuyển sang cơ chế thị trường, nên việc vận hành trong cơ này chưa nhuần nhuyễn, đội ngũ cán bộ công chức cũng còn bộ phận không nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó các loại thị trường hình thành cũng chưa đầy đủ và chưa phát triển đồng bộ. Chính vì vậy rất cần các điều kiện, nhất là sự hỗ trợ của nhà nước để phát triển. Xã hội tuy có vai trò rất quan trọng, những cũng chưa trở thành một thành tố đủ sức hỗ trợ tốt cho thị trường và giám sát Nhà nước như mong muốn.
Vấn đề thứ ba: cần giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xử lý hài hòa mối quan hệ với sự thiếu vắng thể chế tương thích. Quan hệ giữa 3 thành tố là mối quan hệ quan trọng, xử lý hài hòa chính là tạo ra động lực phát triển. Chính vì vậy Đảng, Nhà nước ta đặt ra yêu cầu cần xác định rõ chức năng, vai trò của các thành tố, từ đó phát huy vai trò của chúng, tạo hợp lực cho thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, để xử lý hài hòa trong thực tế vận hành của nền kinh tế, đòi hỏi phải thể chế hóa vai trò của các thành tố trên cơ sở xác định đúng và phù hợp với từng giai đoạn phát triển, trước yêu cầu mục tiêu phát triển đặt ra. Tuy nhiên, dù chúng ta đã có cố gắng và kết quả trong xây dựng, tạo lập hệ thống thể chế, song so yêu cầu vẫn còn chưa đủ. Văn kiện đại hội XII cũng chỉ rõ, những hạn chế trong lĩnh vực này. Đó là cần tập trung, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia; hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, có chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp; hoàn thiện thể chế về phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, về giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao để tranh thủ những thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó phải đổi mới vai trò, chức năng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước.
Vấn đề thứ tư:cần giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu công việc với năng lực thực thi của cán bộ công chức. Chủ thể xây dựng thể chế cũng như điều hành thực thi chính là đội ngũ cán bộ công chức. Do vậy chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức có vai trò rất quan trọng trong bảo đảm cho mối quan hệ nhà nước-thị trường-xã hội được xử lý hài hòa. Trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh phải tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường, mọi hoạt động phải tuân theo nguyên tắc, có vậy các chủ thể mới tận dụng được các cơ hội thị trường đặt ra. Tuy nhiên, mặc dù quá trình đổi mới đã trải qua hơn 30 năm, song tâm lý, thói quen của mô hình kinh tế cũ vẫn chưa phải đã được khắc phục, tính ỷ lại, xin - cho vận hiện hữu hàng ngày trong đời sống kinh tế-xã hội. Năng lực đội ngũ cán bộ công chức tuy được nâng lên, những vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều ý kiến xã hội đã nêu về tình trạng 1/3 số lượng công chức sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về, cùng với đó là tệ quan liêu tham nhũng đã và đang là vấn nạn của xã hội. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trên đang là thách thức đặt ra, cần được nhanh chóng khắc phục mới có thể hy vọng giải quyết hài hòa mối quan hệ nhà nước-thị trường-xã hội.
Vấn đề thứ năm: cần giải quyết vướng mắc trong nhận thức với thực tiễn sinh động. Thực tiễn luôn vận động và phát triển, nếu nhận thức chúng ta kịp thời, khái quát thực tiễn, đề xuất các ý tưởng, luận điểm mang tình dẫn đường, mở ra các cơ chế cho điều hành thức tiễn sẽ tạo ra những bước phát triển, thậm chí là những bước đột phá. Chẳng hạn nhận thức về kinh tế thị trường đã mở ra cơ hội và điều kiện cho phát triển mạnh mẽ, trong khi trước đó chúng ta bị gò bó trong niệm về nền kinh tế kế hoạch hóa. Từ thực tiễn vận động của quá trình phát triển kinh tế -xã hội nước nhà với sự tham gia ngày càng nhiều của các hoạt động dân doanh, của các tổ chức và hiệp hội, đồng thời từ kinh nghiệm của các quốc gia, trong nhận thức về nội hàm và vai trò của thành tố xã hội, phải chăng chúng ta cũng nên cân nhắc trong vấn đề này, cần có sự hiểu thống nhất về nội dung và rõ ràng về kết cấu thành tố xã hội, khẳng định vị trí vai trò của nó, và cần được thể chế hóa, để sự vận động của nó phù hợp với nhà nước pháp quyền (Xem kiến nghị).
3. Quan điểm và định hướng giải quyết
(1) Về quan điểm chung
Một là, vai trò chức năng của nhà nước, thị trường và xã hội cần được xác định phù hợp với thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế phổ biến. Chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường…là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của nhà nước. Muốn vậy vai trò chức năng của các thành tố không thể không phù hợp thông lệ quốc tế. Nhìn chung trong hơn 30 năm qua, chúng ta đã có những đổi mới trong nhận thức về vai trò, chức năng của nhà nước và thị trường tiệm cận, phù hợp thông lệ quốc tế, tuy nhiên về vai trò và chức năng của xã hội cần được tiếp tục nghiên cứu xác định cho ngày càng phù hợp hơn. Cụ thể bước đầu có thể phác họa một số ý sau: 1-Nhận thức về thành tố xã hội. Cho đến nay chưa có khẳng định cụ thể về nội hàm. Có người cho rằng đó là các yếu tố xã hội tác động đến nhà nước và thị trường; có người nêu đó là các tổ chức xã hội. Nên chăng có sự nhất quán ở đây để có thể xác định rõ vai trò chức năng cũng như quan hệ nhà nước-thị trường-xã hội (ý kiến nêu trong kiến nghị). 2-Trong quan hệ với nhà nước, các tổ chức xã hội thực hiện vai trò: tham gia vào quá trình hoạch định chủ trương, chính sách, là người thực hiện và giám sát quá trình thực hiện chính sách. Do vậy rất cần không gian và điều kiện cho các tổ chức xã hội phát huy vai trò của mình. Ở đây cũng đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa vai trò của các tổ chức xã hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho phù hợp. 2- Quan hệ xã hội với thị trường, chính là: trước hết giải quyết mối quan hệ các tổ chức xã hội với doanh nghiệp nhằm tạo môi trường cho tăng trưởng bảo đảm lợi ích không chỉ của doanh nghiệp mà còn cho xã hội. Cơ chế chính là thông qua các phong trào, ý kiến của người dân, các tổ chức xã hội, buộc các doanh nghiệp phải điều chỉnh hành vi cả trong sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng; Thứ hai, gián tiếp thông qua tác động đến nhà nước để hình thành các quy định điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp cũng như thực hiện giám sát quá trình hoạt động, phản biện lại các chủ trương và chiến lược phát triển của các doanh nghiệp. Thứ ba, liên kết các mạng lưới xã hội, trao đổi thông tin, khai thác các nguồn lực thực hiện tự quản, hỗ trợ các nghiệp đoàn, bảo vệ các nhóm yếu thế…; Thứ tư, xây dựng các doanh nghiệp xã hội, thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội; Thứ năm, thực hiện vai trò hỗ trợ nhà nước và hỗ trợ thị trường trong xử lý quan hệ tương tác giữa nhà nước và thị trường (chẳng hạn nắm thông tin thị trường, phản ánh cho nhà nước xử lý, hoặc hỗ trợ nhà nước, điều chỉnh thị trường).
Hai là, việc xử lý, giải quyết mối quan hệ nhà nước thị trường và xã hội phải trên cơ sở đặc thù lịch sử và trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Quan hệ nhà nước-thị trường-xã hội là tất yếu trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, bản thân các thành tố, do các điều kiện lịch sử-văn hóa-chính trị không có sự phát triển tương thích nên mối quan hệ giữa chúng là sự tương tác hỗ trợ không cân xứng. Bản thân vai trò chức năng của chúng cũng có sự phát triển và điều chỉnh cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Cho nên, cần thấy rằng, việc xác định cụ thể vai trò, vị trí của các thành tố ở các nền kinh tế thị trường khác nhau là không hoàn toàn giống nhau, và cũng không giống nhau ngay trong các giai đoạn phát triển khác nhau của chính mỗi nền kinh tế. Do vậy, để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần hết sức linh hoạt, năng động: 1- Trong khi các thị trường còn chưa phát triển, Nhà nước cần can thiệp, tạo lập sự phát triển của thị trường thông qua các cơ chế chính sách và chủ động tạo “dư địa” cho thị trường phát huy tác dụng. Như vậy, cùng với quá trình xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cũng cần điều chỉnh mức độ can thiệp cho phù hợp dựa trên cơ sở tiêu chí chung là hiệu quả của quá trình phát triển. 2- Xử lý quan hệ Nhà nước và thị trường cần toàn diện và đồng bộ, gắn với thực trạng mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và chú ý không chỉ trên phương diện sở hữu, nhằm khơi dậy, phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, mà cần chú ý cả trong khâu phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong trao đổi, giá cả phải trên cơ sở thị trường và trong phân phối phải bảo đảm nguyên tắc thị trường trong phân phối lần đầu và Nhà nước can thiệp trong tái phân phối để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, giảm thiểu phân hóa giàu nghèo. 3- Để xử lý tốt mối quan hệ này, cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Nhà nước, kể cả cấp Trung ương và địa phương. Sẽ không thể xử lý tốt mối quan hệ này nếu thiếu một chính phủ năng động, kiến tạo. Xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ chính là tạo ra thể chế quản trị hiệu quả, một chính phủ mạnh, một nền công vụ chuyên nghiệp, gọn nhẹ, minh bạch, vì dân. Đây chính là cơ sở để quản trị tốt nền kinh tế nói chung, xử lý tốt mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội nói riêng
Ba là, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình giải quyết cụ thể mối quan hệ giữa các thành tố. Mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội là một trong những mối quan hệ lớn. Giải quyết mối quan hệ này liên quan đến việc tạo ra động lực phát triển đất nước. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra trong xử lý quan hệ này là làm sao khai thác được sức mạnh tổng hợp các nguồn lực, từ nguồn lực nhà nước, nguồn lực thị trường và nguồn lực trong xã hội. Phải tạo ra được tổng hợp lực để phát triển chứ không phải triệt tiêu lẫn nhau giữa các nguồn lực.
Thực tiễn các nền KTTT phát triển cho thấy, trong nền kinh tế thường xuyên diễn ra mối quan hệ: Thị trường/doanh nghiệp-xã hội/người dân và Nhà nước. Mỗi thành tố trong mối quan hệ này có chức năng, mục tiêu hoạt động khác nhau với những mong muốn về lợi ích khác nhau. Một xã hội muốn phát triển theo hướng thị trường thì cần xử lý hài hòa lợi ích giữa các thành tố nói trên. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh thị trường sẽ tạo ra một xã hội chỉ vì lợi lộc mà bỏ qua tất cả những giá trị nhân văn của cuộc sống...; nếu quá nhấn mạnh đến Nhà nước thì sẽ đưa Nhà nước đến chỗ ôm đồm, làm tất cả dẫn đến quá sức của mình và sẽ bị ''trả giá", còn nếu quá nhấn mạnh đến lợi ích của người dân thì đó là điều không thể làm được, bởi lẽ, khi đó xã hội sẽ không có đủ của cải để đáp ứng mong muốn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng luôn được đẩy lên của người dân, vì tiêu dùng không thể vượt quá khả năng của cải hiện có.
Trong 3 thành tố đó thì doanh nghiệp và Nhà nước có lợi thế hơn: có thể thấy rằng trong quá trình phát triển KTTT thì Nhà nước và doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó trực tiếp. Về bản chất đây là mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với hệ thống doanh nghiệp, tiêu biểu cho mối quan hệ cơ bản của quá trình phát triển kinh tế và chính trị của một quốc gia. Và hơn nữa họ có lợi nhuận và quyền lực. Điều đó có thể dẫn đến tình trạng lợi dụng lợi thế đó mà doanh nghiệp và Nhà nước cấu kết với nhau, nẩy sinh "quan hệ hậu trường" dẫn đến lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, tham nhũng... làm tổn hại đến lợi ích của người dân, của đất nước. Vì vậy cần có thể chế kinh tế để bảo đảm hài hòa lợi ích của 3 thành tố này trong điều kiện phát triển KTTT hiện đại.
(2) Một số định hướng về giải pháp
- Để giải quyết tốt mối quan hệ này cần thống nhất nhận thức rõ hơn về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó cần nhận thức thống nhất vai trò, chức năng và việc giải quyết quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội phù hợp thông lệ, nguyên tắc chuẩn mực quốc tế phổ biến và thực trạng phát triển, đặc thù nền kinh tế-xã hội nước ta nói riêng. Kinh nghiệm phát triển thế giới cho thấy, không có ngưỡng chung cho việc xử lý mối quan hệ này, mà ở mỗi nền kinh tế, mức độ tham gia của nhà nước hay mức độ quyết định của thị trường và vai trò tham gia của xã hội là rất đa dạng, tùy thuộc vào trình độ phát triển, quan niệm về mô hình vận hành, tập quán truyền thống văn hóa... Ngay trong bản thân mỗi nền kinh tế, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, cũng đều có sự điều chỉnh trong sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường, trong mối quan hệ của Nhà nước với xã hội và tương quan giữa xã hội và thị trường. Đồng thời thực tiễn lịch sử cho thấy, sự thất bại của không ít nền kinh tế là do tuyệt đối hóa vai trò của Nhà nước hoặc tuyệt đối hóa vai trò thị trường, hoặc xem nhẹ vai trò của xã hội. Mô hình chung có tính phổ biến hiện nay là phát triển nền kinh tế hỗn hợp mà ở đó, vai trò nhà nước, vai trò thị trường và xã hội đều được phát huy, bổ khuyết cho nhau. Như vậy rất cần tiếp tục nghiên cứu xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trên cơ sở nhận thức về vai trò chức năng của Nhà nước, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của Nhà nước. Tập trung xây dựng nền công vụ liên chính, hành động để nâng cao năng lực thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đây chính là cơ sở để quản trị tốt nền kinh tế nói chung, xử lý tốt mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội nói riêng. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng thị trường, nâng cao hệ số sử dụng đồng vốn và hiệu quả kinh tế-xã hội nói chung. Kiên quyết xóa bỏ cơ chế xin cho và những quy định đặc quyền đặc lợi, ban hành quy định giám sát, tiến tới xóa bỏ độc quyền, chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường.
- Xây dựng và hoàn thiện, phát triển đồng bộ các thị trường. Để các thị trường phát huy được tốt chức năng vốn có của mình các thị trường cần được tạo điều kiện và cơ chế phát triển ngày càng đồng bộ và đầy đủ. Do vậy phải tạo lập nguồn lực, điều kiện cơ chế, chính sách cho phát triển đồng bộ các loại thị trường (hàng hóa-dịch vụ, sức lao động, bất động sản, tiền tệ, khoa học-công nghệ), nhất là thúc đẩy các loại thị trường phát triển phù hợp với tiêu chí thị trường hiện đại, vượt lên các giới hạn của trình độ thị trường hiện nay. Trong đó chú trọng đến các thị trường đặc biệt hoặc các yếu tố của từng loại thị trường đòi hỏi nhà nước phải đổi mới căn bản tư duy, tầm nhìn cũng như phương thức can thiệp để sớm hình thành đồng bộ, hiện đại hóa, phù hợp với thông lệ quốc tế, có khả năng dẫn dắt và tạo đột phá cho đổi mới mô hình tăng trưởng.
- Phát huy vai trò, chức năng của thành tố xã hội trên cơ sở luật hóa. Hiện chúng ta chưa có luật về hội, cho nên hoạt động của các tổ chức xã hội còn hạn chế, thụ động. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, xã hội có vai trò không thể thay thế, và vai trò này sẽ ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường. Trong thực tiễn phát triển thành công của các nền kinh tế trên thế giới đều có đóng góp của thành tố xã hội, ví dụ Hàn Quốc, từ chỗ gạt bỏ vai trò của thành tố xã hội, đến chỗ thừa nhận và sự tham gia ngày càng hiệu quả vào kỳ tích phát triển của đất nước này. Trong điều kiện của ta để phát huy vai trò chức năng của thành tố xã hội cần: 1- Thực sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội trong thực tiễn phát triển nền kinh tế; 2-Tạo lập đầy đủ cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân, nâng cao khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Thực hiện tốt và hiệu quả Quy chế Dân chủ ở cơ sở qua đó thực sự phát huy vai trò, trách nhiệm của người dân; 3- Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, nghiên cứu tổng kết nhân rộng mô hình các tổ tự quản khu dân cư 4- Đẩy nhanh hơn quá trình xây dựng và thông qua Luật về hội và hiệp hội, tạo cơ sở pháp lý cho phát huy ngày càng hiệu quả vai trò của thành tố xã hội trong mối quan hệ với nhà nước và thị trường.
- Thể chế hóa vai trò chức năng Nhà nước-thị trường-xã hội, đồng thời hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa các thành tố này. Cụ thể, cần tập trung, tiếp tục hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; thể chế hóa quyền tự do kinh doanh; xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thị trường hàng hoá, dịch vụ; thể chế hóa, tạo khung pháp lý cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất; thể chế cho cải thiện môi trường đầu tư; thể chế cho phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất, phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Đồng thời, cần hoàn thiện thể chế trong quá trình trao đổi, phân phối vừa bảo đảm tính ngang giá, vừa tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh. Đặc biệt chú ý, cần thể chế hóa, tạo dư địa cho các tổ chức xã hội phát huy mạnh mẽ năng lực của mình trong quan hệ với nhà nước và thị trường. Tất nhiên không nên nhà nước hóa tất cả các tổ chức xã hội, như vậy vừa tạo gánh nặng cho ngân sách và cũng không phát huy được tính năng động sáng tạo của các tổ chức này.
Hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Cơ chế này phải dựa trên nguyên tắc phục tùng lợi ích phát triển chung của toàn xã hội. Nhà nước chỉ can thiệp trong các trường hợp thị trường thất bại. Như vậy đặt ra yêu cầu là rà soát các quy chế, quy định trong lĩnh vực điều hành của nhà nước, xóa bỏ các can thiệp không cần thiết, làm sai lệch hoặc méo mó thị trường, và đương nhiên bổ sung các quy định, để có can thiệp phù hợp kịp thời, tránh bỏ qua các cơ hội, hoặc không bao quát hết vai trò của nhà nước. Trong cơ chế này, Nhà nước, xã hội và doanh nghiệp hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật với tư cách là các chủ thể trên thị trường. Gắn liền với đó là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất là phương thức lãnh đạo phát triển kinh tế, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản và nâng cao chất lượng, hiệu quả bộ máy, biên chế trong cơ quan nhà nước, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
Với ý nghĩa như trên, một cơ chế cần được xác lập trong xử lý quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, thị trường phân bổ và xã hội giám sát, bổ sung. Trong cơ chế này Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua đường lối, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý, tạo lập khuôn khổ pháp lý và môi trường tăng trưởng là chính, thị trường phát huy vai trò trong huy động và phân bổ nguồn lực; xã hội thực hiện vai trò giám sát cả nhà nước và thị trường, đồng thời bổ khuyết, khắc phục những trường hợp bị thị trường gạt bỏ hoặc nhà nước không bao phủ hết./.
PGS.TS Vũ Văn Hà