Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đỉnh cao là Đại thắng Xuân 1975 đã kết thúc cuộc chiến tranh yêu nước oanh liệt, vĩ đại nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó đóng góp to lớn của hậu phương Quân khu 4. Chủ trương, đường lối xây dựng miền Bắc, trong đó có Quân khu 4 trở thành hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa thể hiện trí tuệ, tầm nhìn chiến lược của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, quân và dân Quân khu 4 đã xây dựng và trở thành tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, kịp thời cung cấp sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc, tạo sức mạnh tổng hợp chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phòng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bộ Tư lệnh Quân khu 4, ngày 9/12/1961. Ảnh tư liệu
Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, đất nước ta tạm thời chia cắt thành hai miền. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn để cung cấp sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Địa bàn Liên khu 4 trong thời kỳ đầu hòa bình (1954 - 1957) gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, riêng huyện Vĩnh Linh (thuộc Quảng Trị) được tổ chức thành Đặc khu Vĩnh Linh, về quân sự thuộc Liên khu 4 quản lý, điều hành, về hành chính là đơn vị trực thuộc Trung ương.
Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh và sự chỉ đạo chiến lược trong tình hình mới, từ tháng 6/1957, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập và tổ chức lại các quân khu ở miền Bắc và chú trọng xây dựng thành hậu phương vững chắc để cùng quân và dân miền Nam quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo đó, Quân khu 4 gồm các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và đặc khu Vĩnh Linh. Thanh Hoá được sáp nhập về Quân khu Hữu Ngạn, đến năm 1976 mới được sáp nhập về Quân khu 4. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các nhiệm vụ chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ, Thanh Hóa đều liên quan trực tiếp tới các nhiệm vụ của Quân khu 4. Vì vậy, khi nói đến hậu phương Quân khu 4 cần đề cập đầy đủ tới vai trò của quân và dân Thanh Hóa.
Tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng hậu phương Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Một là, nhận thức đúng vị trí, vai trò chiến lược địa bàn Quân khu 4 và xác định xây dựng hậu phương Quân khu 4 trở thành tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Khác với các quân khu phía Bắc, Quân khu 4 là một dải đất hẹp kéo dài nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, phía đông giáp biển Đông, phía bắc giáp Quán khu Hữu Ngạn, phía tây giáp Lào, có dãy Trường Sơn hùng vĩ chạy theo suốt tuyến hành lang biên giới phía tây, phía nam giáp chiến trường Trị - Thiên với đường giới tuyến quân sự tạm thời dài trên 100km. Địa hình các tỉnh Quân khu 4 vừa kéo dài lại vừa hẹp dần về phía nam, dễ bị khống chế, chia cắt. Địa hình phức tạp, rừng núi phía tây trùng điệp, hiểm trở, nhiều đèo cao, vực sâu; nhiều sông lớn, vừa và nhỏ chảy cắt ngang địa bàn, theo hướng từ tây sang đông đã tạo thành thế "thiên hiểm" trong tổ chức phòng thủ bờ cõi. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, bắt nguồn từ tây tây bắc chảy xuôi về hướng đông đông nam như sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Nhật Lệ... vừa tạo nên nhiều vùng đồng bằng trù phú, vừa là hệ thống đường thuỷ nội địa thuận lợi cho vận tải đường thuỷ trong thời bình cũng như vận tải quân sự trong thời chiến. Một điểm nổi bật là địa bàn Quân khu 4 được coi là "điểm nối" giữa hai miền Bắc - Nam, giữa Việt Nam với chiến trường Lào với các trục giao thông chính chạy dọc theo hướng Bắc - Nam, xuyên qua địa bàn các tỉnh cùng nhiều mạng đường ngang nối giữa vùng rừng núi miền Tây với vùng trung du đồng bằng ven biển, nối từ địa bàn Quân khu sang vùng Hạ Lào, Nam Lào. Các trục giao thông lớn như quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam chạy suốt địa bàn, qua rất nhiều sông lớn, cầu phà, công ngầm, đèo cao, vực sâu.
Dân số Quân khu 4 không đông (thứ tư trong 6 quân khu), hạ tầng cơ sở kém phát triển, kinh tế còn nhiều khó khăn, nghèo nàn, lạc hậu, khí hậu khắc nghiệt, nắng hạn, mưa nhiều, bão lụt triền miên. Các dân tộc trên địa bàn Quân khu 4 đa số là nông dân, yêu tự do hòa bình, chất phác, hiền hậu, cần cù trong lao động, kiên cường trong đấu tranh với thiên tai địch họa. Thời kỳ nào trên vùng đất đầy gian khó này cũng sinh ra anh hùng, hào kiệt, tướng lĩnh tài ba, đức độ, nhiều người con ưu tú, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân một lòng, một dạ đi theo cách mạng, quyết tâm đấu tranh giải phóng giành độc lập, kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương, đó là thuận lợi cơ bản để xây dựng hậu phương Quân khu 4.
Do điều kiện địa lý và cấu tạo địa hình, nên hình thái tự nhiên của Quân khu 4 hình thành ba vùng chiến lược kinh tế - quốc phòng rất quan trọng. Khi chiến tranh xảy ra, trên địa bàn Quân khu 4 hình thành ba chiến trường và ba vùng kinh tế - quốc phòng rõ rệt. Ba chiến trường, gồm: Chiến trường A (các tỉnh của Quân khu, chiến trường tại chỗ chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, bằng không quân, hải quân của địch); chiến trường B (B4 và B5), B4 là Quân khu Trị Thiên, B5 là Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị); chiến trường C (chiến trường Lào). Ba vùng kinh tế - quốc phòng đó là vùng rừng núi, vùng trung du - đồng bằng và vùng đồng bằng ven biển. Hình thái ba chiến trường và ba vùng kinh tế - quốc phòng là đặc điểm hết sức riêng biệt chỉ có ở địa bàn Quân khu 4. Đây cũng là đặc điểm xuyên suốt chi phối toàn bộ công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò hậu phương Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Do điều kiện lịch sử, sau Hiệp định Giơnevơ, Quân khu 4 là địa bàn chịu sự chia cắt tạm thời tại vĩ tuyến 17, hình thành khu giới tuyến quân sự kéo dài trên 100km từ Cửa Tùng đến biên giới Việt - Lào. Dòng sông Bến Hải trở thành nơi chia cắt hai miền Nam - Bắc, là nơi đối đầu của hai chế độ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa thực dân mới. Do đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng hậu phương Quân khu 4 trở thành tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa chống Mỹ và các thế lực tay sai. Đồng thời, với điều kiện tự nhiên, các tỉnh của Quân khu 4 vừa tiếp giáp với chiến trường Trị - Thiên nói riêng, chiến trường miền Nam nói chung, vừa tiếp giáp với chiến trường Lào nên Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng Quân khu 4 đã trở thành hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam và chiến trường Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hai là, sớm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hậu phương Quân khu 4 vững mạnh toàn diện, trở thành tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò chiến lược địa bàn Quân khu 4 và xác định xây dựng hậu phương Quân khu 4 trở thành tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hậu phương Quân khu 4 vững mạnh toàn diện cả về chính trị, kinh tế và giao thông vận tải, quốc phòng, an ninh, văn hóa, giáo dục…
Về xây dựng tiềm lực chính trị. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo Quân khu ủy và Đảng bộ các cấp lấy việc xây dựng tiềm lực chính trị làm nền tảng vững chắc trong quá trình chuẩn bị mọi mặt của nhiệm vụ xây dựng hậu phương. Theo đó, ngay từ những năm đầu hòa bình, toàn Quân khu đã ra sức chăm lo xây dựng Đảng về mọi mặt. Tất cả các đảng bộ, chi bộ, đơn vị, địa phương, cơ quan đều được củng cố vững mạnh, mỗi chi bộ thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo, là “pháo đài thép” ở từng cơ sở.
Không ngừng củng cố, tăng cường và hoàn thiện hệ thống chính trị các cấp, làm cho chính quyền các cấp thực sự có đủ khả năng điều hành, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện; ủy ban nhân dân quản lý, điều hành mọi hoạt động sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, quản lý xã hội; các đoàn thể quần chúng và hợp tác xã động viên lực lượng tham gia.
Tích cực bồi dưỡng và thường xuyên nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần sẵn sàng xả thân hoàn thành mọi nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang và nhân dân, coi đó là một trong những nội dung cơ bản để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Quân khu đã phát động nhiều cuộc vận động chính trị, các phong trào thi đua như “Gió Đại phong”, “Sóng Duyên Hải”, “Cờ Ba nhất”,… đã có tác dụng, cô vũ to lớn trong toàn quân, toàn dân.
Về xây dựng tiềm lực kinh tế và giao thông vận tải. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với các chủ trương đúng đắn, bằng những nỗ lực phi thường của đảng bộ và chính quyền địa phương các cấp trên địa bàn Quân khu, chỉ trong một thời gian ngắn sau hòa bình lập lại, quân và dân Quân khu 4 đã giành được nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế. Sau 10 năm xây dựng hòa bình, toàn Quân khu hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và tiểu thủ công nghiệp[1]. Cùng với những vùng kinh tế mới được xây dựng, việc xây dựng các công trình công nghiệp đã góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế của Nhà nước giai đoạn 1958 - 1960[2].
Sau kháng chiến chống Pháp, hệ thống giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng trên địa bàn các tỉnh từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh đều bị chiến tranh tàn phá, xuống cấp nghiêm trọng. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, với đóng góp to lớn về sức người, sức của, trí tuệ và tâm huyết của hàng ngàn bộ đội, dân công và nhân dân Quân khu 4, các trục giao thông huyết mạch trên đã từng bước đi vào hoạt động trở lại. Cùng với việc sửa chữa, nâng cấp các tuyến giao thông huyết mạch quốc gia theo trục Bắc - Nam, một số tuyến giao thông chiến lược trên địa bàn Quân khu cũng được triển khai sửa chữa hoặc làm mới. Ngoài hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông và đường biển cũng được chú ý khai thác, nâng cấp. Các cảng được xây dựng và bước đầu đi vào sử dụng[3]. Hệ thống cầu, phà là những trọng điểm giao thông hàng năm bị lũ lụt lớn làm hư hại đã thường xuyên được củng cố, bảo đảm giao thông liên tục, thông suốt[4].
Về xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang các cấp. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã chỉ đạo thành lập Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 4, tổ chức, bố trí lực lượng phù hợp với điều kiện, tình hình và nhiệm vụ của từng khu vực trên địa bàn. Tiếp đó, chỉ đạo Quân khu ủy ra Nghị quyết chuyên đề về quân sự, xác định rõ toàn Quân khu ra sức xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang về mọi mặt, luôn sẵn sàng chiến đấu cao.
Xây dựng tiềm lực quân sự được Quân khu ủy và Đảng bộ các cấp chỉ đạo một cách toàn diện và đạt nhiều kết quả[5], xây dựng hệ thống phòng thủ, xây dựng các phương án tác chiến cơ bản, tổ chức thực hành diễn tập, hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức, cơ cấu sản xuất thời chiến nếu chiến tranh xảy ra, trong đó việc xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng quần chúng, lực lượng hậu cần nhân dân, hậu cần tại chỗ... được đặc biệt chú trọng. Ngoài việc tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, hiện đại, đã đặc biệt quan tâm xây dựng lực lượng bộ đội địa phương đủ về số lượng và trang thiết bị cần thiết; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ có số lượng đông đảo, được trang bị vũ khí bộ binh hạng nhẹ và súng phòng không tầm thấp... đáp ứng vai trò là lực lượng dự bị chiến lược của chiến tranh nhân dân.
Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng làng, xã chiến đấu được kết hợp chặt chẽ với việc điều chỉnh cơ cấu của nền sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc xây dựng, phát triển vùng kinh tế mới, Quân khu thành lập một loạt nông trường quân đội, xây dựng căn cứ hậu phương và cơ sở làng xã theo ba nội dung (chi bộ mạnh, tổ chức quần chúng mạnh, lực lượng vũ trang mạnh), thể hiện tinh thần chủ động chuẩn bị cho kháng chiến.
Về xây dựng tiềm lực văn hóa, giáo dục, y tế. Những năm đầu hòa bình lập lại, nhìn chung trình độ dân trí trên địa bàn rất thấp. Trước tình hình đó, vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ cho nhân dân, nhất là lớp trẻ đang độ tuổi đến trường, được đặt ra một cách cấp bách và được giải quyết đồng bộ. Kết quả có bước phát triển quan trọng, đến đầu năm 1964, tất cả các xã, thôn ở các tỉnh trên địa bàn Quân khu đều có trường cấp 1; gần 75% số xã có trường cấp 2 và các lớp bình dân học vụ tương đương cấp 2; các huyện, thị đều có từ 1 đến 2 trường cấp 3 và các trường văn hóa (vừa học, vừa làm) tương đương cấp 3. Ở các tỉnh, ngoài hệ thống trường giáo dục phổ thông còn có trường sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, trường dạy nghề, trường vừa học vừa làm, trường văn hóa bổ túc, trường năng khiếu, trường dành riêng cho con em miền Nam tập kết ra Bắc...
Cùng với đẩy mạnh công tác giáo dục, chính quyền các tỉnh trên địa bàn đã quan tâm hơn phát triển văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Phong trào bài trừ các hủ tục lạc hậu trong đời sống (như ma chay, cưới hỏi, cúng tế, bói toán, mê tín dị đoan...), chống các tệ nạn (như uống rượu say, nghiện hút thuốc phiện, nhất là các địa bàn miền núi, trộm cắp, buôn lậu, mại dâm...) được đẩy mạnh.
Mạng lưới y tế phòng chữa bệnh cho nhân dân phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở đồng bằng, đô thị mà còn được chú trọng tại các xã, bản làng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới. Đến đầu năm 1964, Quân khu có trên 90% số xã có trạm xá, trạm hộ sinh, gần 30% số xã có y sĩ, dược sĩ. Các huyện đều có 1-2 bệnh viện với trên 100 giường nằm, có hàng ngàn cán bộ y tế từ tuyến xã đến tuyến tỉnh, bảo đảm nhu cầu phòng, chống, chữa bệnh cho nhân dân.
Những thành tựu sau 10 năm xây dựng trên đây đã làm cho bộ mặt các địa phương trên địa bàn Quân khu 4 thay đổi hẳn. Vì thế, quân và dân hết sức phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp. Thành tựu đó cũng khẳng định tính đúng đắn về tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng hậu phương Quân khu 4 vững mạnh toàn diện, trở thành tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ba là, thường xuyên, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bảo vệ vững chắc hậu phương Quân khu 4, đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ trên địa bàn; bảo đảm mạch máu giao thông vận tải thông suốt, chi viện đắc lực cho chiến trường.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bảo vệ vững chắc hậu phương Quân khu 4, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn, bảo đảm mạch máu giao thông vận tải thông suốt.
Khi tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, một trong những mục tiêu chiến lược Mỹ tập trung đánh phá nhiều nhất, với cường độ mạnh nhất là các tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 4. Mỹ coi đây là một địa bàn trọng yếu, vùng "cán xoong" đặc biệt quan trọng nếu khống chê và đánh nát thì sẽ ngăn chặn có hiệu quả sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam và cả chiến trường Đông Dương, làm lung lay ý chí, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của Đảng và nhân dân ta.
Đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, bị sa lầy ngày một trầm trọng ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã đưa quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất bằng sức mạnh quân sự không quân và hải quân. Trước âm mưu, thủ đoạn mới của Mỹ khi tiến hành leo thang đánh phá miền Bắc[6], Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo chuyển mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân trên địa bàn Quân khu từ thời bình sang thời chiến. Cùng với việc điều chỉnh lực lượng, Quân khu đã phát động rộng rãi trong toàn địa bàn phong trào toàn dân tham gia đánh máy bay Mỹ dưới mọi hình thức[7]. Với các chủ trương và biện pháp tổ chức đánh máy bay cụ thể, sinh động và đa dạng, quân và dân Quân khu 4 liên tiếp lập nhiều chiến công vang dội, làm nức lòng toàn quân, toàn dân[8]. Với thế chủ động, bình tĩnh đánh trả cuộc tiến công phá hoại của Mỹ, quân và dân Quân khu 4 đã giành thắng lợi to lớn trên nhiều mặt, bảo vệ vững chắc hậu phương chiến lược, bảo vệ các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm huyết mạch giao thông thông suốt[9], góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ trên địa bàn.
Mặc dù bị thất bại nặng nề, Mỹ đã tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom, bắn phá miền Bắc, nhưng trên thực tế Mỹ vẫn không ngừng tăng cường phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc; chúng tập trung đánh phá mạnh vào tuyến đường Hồ Chí Minh và một số trọng điểm giao thông ở nam Khu 4. Đặc biệt, để cứu vãn chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn, ngày 6/4/1972, Mỹ đã dùng không quân và hải quân đánh phá lần thứ hai ra miền Bắc. Thủ đoạn đánh phá miền Bắc lần này của đế quốc Mỹ tỏ ra vô cùng nham hiểm, thâm độc và tàn bạo. Chúng chủ trương đánh ồ ạt trong thời gian nhất định cho đến khi đạt được mục tiêu. Chúng huy động tất cả sức mạnh của không quân và hải quân của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương, sử dụng máy bay chiến lược B52 cùng vũ khí chiến tranh điện tử như "bom thông minh", tia laze, gây nhiễu... đánh chủ yếu vào ban đêm, hòng tạo ra những bất ngờ và gây khó khăn lớn cho ta trong việc tổ chức phòng tránh và đánh trả. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ, quân và dân Quân khu 4 cùng lực lượng phòng không của Bộ đã phối hợp, đánh thắng liên tiếp nhiều đợt không kích lớn của Mỹ[10], bảo vệ an toàn các mục tiêu kinh tế, quân sự, quốc phòng, các trọng điểm giao thông quan trọng. Trong khói lửa đạn bom hết sức ác liệt, hàng nghìn chiếc xe vận tải, hàng trăm phà, canô, tàu, thuyền vẫn an toàn vượt qua các "toạ độ lửa" đến vị trí tập kết, giao hàng, giao người vượt chỉ tiêu kế hoạch.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bảo vệ vững chắc hậu phương, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam và chiến trường Lào. Mặc dù bị địch đánh phá ngày càng ác liệt, nhưng quân và dân Quân khu 4 không nao núng quyết tâm, vừa kiên cường đánh trả không quân và hải quân Mỹ, vừa chú trọng đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố và tăng cường tiềm lực kinh tế - quốc phòng, chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam và chiến trường Lào. Vì vậy, sản xuất nông, lâm - ngư nghiệp và các ngành nghề thủ công khác của các tỉnh thuộc Quân khu 4 cho đến trước khi địch tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai đã có bước phát triển quan trọng và đạt được nhiều thành tựu[11]. Từ cuối năm 1970 đến đầu năm 1972, cùng với bộ đội chủ lực của Quân khu, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ các tỉnh trên toàn địa bàn Quân khu được củng cố và phát triển với số lượng và chất lượng lớn hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó. Nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội luôn luôn được các cấp bộ đảng và chính quyền đặt lên hàng đầu, coi đó là nhiệm vụ cấp bách thường xuyên.
Với tiềm lực của hậu phương chiến lược được xây dựng trong 10 năm hòa bình, được củng cố, xây dựng và bảo vệ vững chắc trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền của đế quốc Mỹ trên địa bàn, những đóng góp, chi viện nhiều mặt cho các chiến dịch, nhiều hướng chiến trường của hậu phương Quân khu 4 là liên tục về thời gian, càng về sau càng to lớn hiệu quả và kịp thời hơn. Cụ thể, từ năm 1964 đến năm 1975, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, đặc khu Vĩnh Linh đã động viên được 277600 thanh niên vào quân đội, trong đó có 194000 lượt cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường miền Nam và chiến trường Lào chiến đấu, động viên 32.500 người tham gia thanh niên xung phong phục vụ trên các tuyến lửa. Toàn quân khu đã chi viện hơn 650.000 tấn lương thực, thực phẩm, 550 tấn hàng hóa quân sự cho chiến trường (đạn dược, thuốc men, vải, chăn, màn...); các mặt hàng đặc biệt khác như đôla, vàng, bạc, hóa chất... phục vụ cho công tác hoạt động tình báo chiến lược của quân đội và lực lượng an ninh nhân dân. Ngoài ra còn là hàng triệu lượt ngày công của thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến chi viện cho chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Lào và dốc hết sức mình góp phần cùng quân, dân cả nước tham gia giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đỉnh cao là Đại thắng Xuân 1975 tính đến nay đã qua 50 năm. Sau 50 năm nhìn lại, chúng ta càng thấy rõ hơn giá trị, ý nghĩa của tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng hậu phương Quân khu 4 trở thành tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời là hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; thấy rõ hơn tầm vóc và những đóng góp to lớn, cũng như sự hy sinh của quân và dân Quân khu 4 cùng với cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua đây, chúng ta càng thấy rõ hơn khát vọng và giá trị của hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước và tự hào về lịch sử, truyền thống của dân tộc, về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, quân và dân Quân khu 4 anh hùng, về tầm quan trọng đặc biệt của hậu phương Quân khu 4 đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PGS.TS Cao Văn Trọng*
* Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] Đến cuối năm 1964 đã có hơn 90% sô hộ gia nhập hợp tác xã, trong đó có gần 80% hợp tác xã bậc cao. Các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương không chỉ huấn luyện, diễn tập sẵn sàng chiến đấu... mà còn tham gia xây dựng, phát triển kinh tế trên địa bàn.
[2] Từ năm 1957 đến năm 1959, lần lượt xây dựng các xí nghiệp nhà nước trọng điểm như: Nhà máy chế biến gỗ Vinh, Nhà máy điện Vinh, Xí nghiệp đóng tàu Bến Thủy, Xí nghiệp gạch 22-12, Nhà máy đường Nghệ An... Các công trình thủy nông ở Hà Tĩnh, Đô Lương (Nghệ An), Quảng Bình, Vĩnh Linh... phục vụ sản xuất nông nghiệp lần lượt được xây dựng và đưa vào sử dụng đúng kế hoạch.
[3] Bến Thủy, Của Hội, Cửa Lò, Gianh, Nhật Lệ.
[4] Phà Bến Thủy, phà Ghép, phà Gianh (Quốc lộ 1A).
[5] Đến cuối năm 1964, lực lượng vũ trang của Quân khu đã được tổ chức kiện toàn, nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Dân quân tự vệ: có 320000 người. Bộ đội địa phương: Các tỉnh đều có 1 tiểu đoàn bộ binh, huyện có đại đội bộ binh. Các tỉnh và một số huyện trọng điểm được biên chế 1 đại đội (hoặc trung đội), các đơn vị binh chủng, chuyên môn kỹ thuật như pháo binh, cao xạ, công binh, thông tin, trinh sát, quân y,… Bộ đội chủ lực: có 3 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn pháo phòng không, 1 trung đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh công trình, 1 tiểu đoàn vượt sông, 1 tiểu đoàn phòng hóa, 1 phân đội phóng lôi.
[6][6] Mỹ đã sử dụng hơn 1/2 tổng số máy bay và các loại bom đạn, cùng với 3/4 tổng số máy bay chiến lược B.52, hầu hết các loại tàu chiến hiện đại nhất của lực lượng quân sự Mỹ huy động đánh phá miền Bắc để đánh vào Quân khu 4.
[7] Dân quân tự vệ nông thôn vừa tham gia sản xuất, vừa sẵn sàng đánh máy bay với khẩu hiệu "tay cày, tay súng". Công nhân, dân quân tự vệ ở nhà máy, xí nghiệp vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu với khẩu hiệu "tay búa, tay súng". Phong trào toàn dân tham gia đánh máy bay bảo vệ sản xuất, bảo vệ các mục tiêu chính trị, quân sự, kho tàng, nhà máy, phương thức tác chiến phòng không được xác định là: "tại chỗ, rộng khắp của dân quân tự vệ kết hợp với cơ động của chủ lực", "các tầm hỏa lực hỗ trợ nhau".
[8] Trong vòng 4 năm (từ tháng 3-1965 đến 10-1968) quân và dân Quân khu 4 đã bắn rơi 1031 chiếc, đưa tổng số máy bay bị bắn rơi trên địa bàn Quân khu 4 từ ngày 5-8-1964 đến 10-1968 là 1600 chiếc, bắt sống hàng trăm giặc lái.
[9] Nhờ tổ chức tốt nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, hàng vận chuyển vào Quảng Bình năm 1967 tăng 2,6 lần so với năm 1965.
[10] Từ ngày 6-4-1972 đến 15-1-1973 quân và dân Quân khu 4 cùng lực lượng phòng không của Bộ đã phối hợp, đánh thắng liên tiếp nhiều đợt không kích lớn của Mỹ, bắn rơi, bắn cháy 241 máy bay các loại, trong đó có 18 máy bay B.52, bắt sống hàng trăm giặc lái.
[11] Có 96% hộ nông dân vào hợp tác xã, đời sống tương đối ổn định, cơ bản bảo đảm đủ ăn mặc và được học hành. Sau gần 2 năm củng cố, cơ sở vật chất của hợp tác xã nông nghiệp, các khu công nghiệp, thương nghiệp từng bước ổn định và được tăng cường, sản xuất liên tục tăng lên, đóng góp chi viện cho các chiến trường luôn luôn vượt mức kế hoạch được giao.