Thứ Bảy, ngày 02 tháng 08 năm 2025

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”

Ngày phát hành: 30/07/2025 Lượt xem 77


Tám mươi năm kể từ mùa thu lịch sử 1945, dân tộc Việt Nam đã vượt qua muôn vàn thử thách, giữ vững độc lập và từng bước phát triển nhờ đường lối cách mạng vừa kiên định, vừa linh hoạt của Đảng. Đó chính là sự kế thừa và vận dụng sâu sắc tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh - tư tưởng sâu sắc, phương châm chỉ đạo xuyên suốt, hun đúc nên bản lĩnh, trí tuệ và phẩm chất kiên cường của dân tộc Việt Nam.



 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”

 
Ngày 31/5/1946, trước khi lên đường thăm chính thức nước Pháp với tư cách là thượng khách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ dĩ bất biến, ứng vạn biến”.


Khi nói câu này, chúng ta hiểu Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh rằng, trong việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng, phải biết mềm dẻo, chủ động, sáng tạo, linh hoạt từ những tình huống, hoàn cảnh cụ thể dựa trên những nội dung không thể thay đổi được; không vì những cái nhỏ, vụn vặt mà đánh đổi, đánh mất đi cái lớn, điều căn bản; phải đứng trên lập trường, quan điểm của những điều bất biến mà quan sát, dung hòa, điều tiết bản thân và vạn vật một cách phù hợp với quy luật vận động khách quan.


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “dĩ bất biến” là giữ vững nguyên tắc, mục tiêu tối thượng, là lợi ích cốt lõi không thể thỏa hiệp. Từ thực tiễn hoạt động cách mạng của Người, những giá trị “bất biến” đó bao gồm: độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ của Nhân dân. Đây chính là “mẫu số chung” xuyên suốt trong mọi hoàn cảnh. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chính tư tưởng ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi sách lược đấu tranh, là nền tảng để định vị lợi ích quốc gia trong mỗi thời kỳ.


Đi đôi với “dĩ bất biến”, tư tưởng Hồ Chí Minh yêu cầu phải luôn “ứng vạn biến” - linh hoạt trong phương thức hành động, vận dụng trí tuệ để ứng phó hiệu quả với thực tiễn biến động. “Ứng vạn biến” không phải là thay đổi mục tiêu, mà là đổi mới cách thức, sách lược, tổ chức thực hiện, tùy vào thời cơ và điều kiện cụ thể.


Như vậy, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lấy “bất biến” (cái không đổi) để ứng phó với cái “vạn biến” (cái luôn thay đổi). Phải kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược.

Chìa khóa thành công trong mọi giai đoạn cách mạng

 
Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát về mặt lý luận, mà còn được Người thể hiện sinh động, nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời để đấu tranh giành, giữ những giá trị “bất biến” là: độc lập cho dân tộc, toàn vẹn cho lãnh thổ, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.


Ngay trong giai đoạn đầu sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đất nước ta ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng lúc đe dọa. Trong bối cảnh ấy, thay vì đối đầu trực diện, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sách lược mềm dẻo: ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 với Pháp, chấp nhận những nhượng bộ chiến thuật có tính tạm thời, đổi lấy thời gian hòa hoãn quý giá để củng cố chính quyền cách mạng non trẻ và chuẩn bị lực lượng toàn dân kháng chiến.


Thực tế lịch sử đã chứng minh: nhờ “ứng vạn biến” một cách cao độ mà chỉ sau đó một năm, dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp với lực lượng, thế và lòng dân đã được củng cố vượt bậc. Đó là một trong những minh chứng điển hình về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nguyên tắc cứng rắn và sách lược linh hoạt - một biểu hiện sống động của tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.


Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” tiếp tục được Đảng vận dụng sáng tạo. Mục tiêu “bất biến” lúc này là: “thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Từ tinh thần ấy, Đảng ta đã kiên định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.


Nhưng trong quá trình thực hiện, sách lược luôn linh hoạt, mềm dẻo: từ việc tranh thủ viện trợ quốc tế, xây dựng mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, đến chiến lược “vừa đánh vừa đàm” trong Hiệp định Geneve (1954) và Hiệp định Paris (1973)... Tất cả đều thể hiện bản lĩnh “ứng vạn biến” của Đảng ta để lãnh đạo cả nước từng bước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


Sau khi đất nước thống nhất, bước vào giai đoạn phát triển mới, Việt Nam đối diện với những thách thức to lớn: khủng hoảng kinh tế-xã hội, bao vây cấm vận quốc tế... Trong bối cảnh đó, Đảng ta một lần nữa thể hiện bản lĩnh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” khi khởi xướng công cuộc Đổi mới từ Đại hội VI năm 1986.


Nguyên tắc “bất biến” - kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - được giữ vững. Nhưng về sách lược, chúng ta chủ động đổi mới tư duy kinh tế, mở cửa hội nhập, đa phương hóa - đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Chính nhờ đường lối đúng đắn này, Việt Nam từng bước vượt qua khủng hoảng, gia nhập ASEAN (1995), WTO (2007), tham gia nhiều FTA thế hệ mới, và trở thành thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế; đồng thời đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế…


Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng phức tạp, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển nhanh chóng, tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” càng trở nên có giá trị. Đó là giữ vững nguyên tắc: “lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng”, ứng xử linh hoạt trong từng mối quan hệ: từ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các nước lớn đến hợp tác tiểu vùng, khu vực; từ thích ứng với biến đổi khí hậu đến xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống.

Kim chỉ nam trong công tác đối ngoại

 
Không chỉ là nguyên lý chỉ đạo trong quản trị quốc gia, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” còn trở thành bản sắc đặc trưng trong hoạt động ngoại giao của Việt Nam.


Chính sách đối ngoại nhất quán và xuyên suốt của Việt Nam là độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện.


Nguyên tắc và phương châm đối ngoại của Việt Nam là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" để giữ vững hòa bình, ổn định, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Trong suốt nhiều thập kỷ qua, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong chỉ đạo các vấn đề đối ngoại quan trọng, xử lý đúng đắn các mối quan hệ, đánh giá, dự báo sát và đúng tình hình. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ giữ vững “trong ấm, ngoài êm” để phát triển đất nước trong bối cảnh quốc tế đang trải qua những biến động lớn, phức tạp, mà còn nâng lên tầm cao mới qua sự hợp tác ngày càng thực chất và hiệu quả hơn trong quan hệ với các bạn bè truyền thống, các nước láng giềng, các cường quốc và các đối tác quan trọng khác.


Đến nay,  Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, xây dựng được mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 37 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực. Đảng ta cũng đã có quan hệ với 259 chính đảng tại 119 nước.. Vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam được khẳng định nổi bật tại nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng như: ASEAN, Liên hợp quốc, tiểu vùng Mekong, APEC, AIPA, IPU... Bên cạnh tiếp tục đảm nhận các trọng trách quốc tế, Việt Nam đã đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp thúc đẩy hợp tác, đóng góp có trách nhiệm vào các vấn đề chung của thế giới như phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, gìn giữ hòa bình...


Có thể khẳng định, tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành kim chỉ nam trong đường lối đối ngoại hiện đại, giúp Việt Nam giữ vững độc lập, nâng cao vị thế quốc gia và góp phần tích cực vào hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực và thế giới.

Tám mươi năm kể từ Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam trong mọi chặng đường phát triển của đất nước. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn giữ vững những giá trị cốt lõi, đồng thời linh hoạt ứng biến để chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thử thách đi đến thắng lợi. Tư tưởng ấy vẫn tiếp tục là ánh sáng soi đường để đất nước ta vững bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.


Theo TTXVN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết