Thứ Bảy, ngày 02 tháng 08 năm 2025

Bối cảnh quốc tế, trong nước và những yêu cầu mới về xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn tầm của dân tộc

Ngày phát hành: 30/07/2025 Lượt xem 338

 

Sau gần 50 năm thống nhất đất nước, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đầy nỗ lực, sáng tạo, chúng ta đã đạt được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Sự thành công trong việc thực hiện những mục tiêu to lớn của đất nước ta trong kỷ nguyên thống nhất đổi mới vừa qua là tiền đề, điều kiện thuận lợi để đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới. Chính vì thế Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát động một hành trình cách mạng mới đối với dân tộc ta, đất nước ta là tự tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam; Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đây như lời hịch khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tăng thêm độc lập, dân tộc, tự chủ, tự cường, khát vọng phát triển đất nước nhanh, bền vững và lên một tầm cao mới, cấp độ mới của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.   

 

 

Định hướng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn tầm của dân tộc Việt Nam là phù hợp với logic phát triển của cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại.  

 

Bối cảnh thế giới và trong nước vừa tạo cho kỷ nguyên mới của Việt Nam những triển vọng mới đầy hứa hẹn, vừa đặt ra những nhiệm vụ mới hết sức to lớn và nặng nề. Cơ hội và thách thức, thời cơ và nguy cơ luôn tác động tới chiều hướng phát triển của đất nước. Vấn đề là phải nắm bắt cơ hội, tiếp tục đấy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy những lợi thế trong nước, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác, phân công lao động quốc tế, tạo động lực mới để vươn lên, phát triển nhanh chóng, vững chắc; đồng thời cần luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi các nguy cơ, bảo đảm cho kỷ nguyên mới của đất nước phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Nhìn tổng thể, giai đoạn từ nay đến hai cột mốc là năm 2030 và 2045, hành trang cách mạng của nước ta đang và sẽ chịu tác động nhiều chiều, nhiều hướng, với nhiều cấp độ từ những chuyển biến mới, phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Cơ hội và thách thức đan xen; cơ hội có nhiều, song khó khăn, thách thức cũng rất lớn. Nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn đang và sẽ đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải có quyết tâm chính trị cao và nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn, tận dụng được thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, chuyển thách thức thành cơ hội, để tiếp tục đưa đất nước phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  

 

I. Những cơ hội và thách thức từ tình hình quốc tế và trong nước

 

 1.1. Những cơ hội 

 

1.1.1. Hòa bình và hợp tác để phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trên thể giới, là khát vọng của nhân loại, tạo cho chúng ta có được môi trường hòa bình để tập trung vào phát triển đất nước

 

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mặc dù gặp một số trở ngại nhưng tiếp tục phát triển, thu hút ngày càng đông đảo các quốc gia, từ đó xuất hiện nhiều cấu trúc và phương thức hợp tác đa tầng, đa quy mô, từ song phương, đa phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn thế giới. Chủ nghĩa đa phương phát triển vì lợi ích địa - chính trị; địa - kinh tế; nhiều nước gác lại tranh chấp, đối đầu, giữ ổn định, cùng hợp tác, khai thác và bổ sung thế mạnh của nhau nhằm phân chia lợi ích. Ngay cả các nước có khác biệt về hệ tư tưởng và chế độ chính trị cũng bỏ qua, tìm nét tương đồng và bổ sung cho nhau để cùng hợp tác trong xu thế mới. Các cường quốc tiếp tục đóng vai trò quyết định trong quan hệ quốc tế, các quốc gia nhỏ và vừa có nhiều cơ hội hơn trong việc giữ vững độc lập, tự chủ và tham gia các hoạt động quốc tế. Xu thế dân chủ hoá quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển với vai trò của các tổ chức đa phương, thông tin truyền thông và mạng xã hội.

 

Tuy tình hình ở một số nước láng giềng còn tiềm ẩn một số yếu tố gây mất ổn định có thể bị nước ngoài lợi dụng nhưng trong những năm trước mắt, khó có khả năng tạo ra mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của nước ta. Các nước trong khu vực, kể cả Mỹ và Trung Quốc đều có nhu cầu giữ môi trường hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác, phát triển; tập trung cho phát triển và cùng có lợi ích trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á.

 

1.1.2. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước không có vướng mắc lớn nên có nhiều thuận lợi trong hợp tác, phát triển

 

Chính sách và quan hệ giữa các nước lớn hiện nay và trong những năm tới mở ra cơ hội để chúng ta có thể tiếp tục thúc đẩy quan hệ với từng nước, đồng thời cũng cho phép chúng ta vận dụng sách lược, không để bất kỳ nước lớn nào chi phối quan hệ đối ngoại của ta, tránh được tình huống họ liên kết, thỏa hiệp với nhau gây bất lợi cho chúng ta, hoặc đẩy ta vào tình thế phải đối đầu.

 

1.1.3. Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động.

 

Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ và tự do hóa thương mại, đầu tư của các nước vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương tăng cường cùng với việc nước ta đã tham gia nhiều hiệp định thương mại thế hệ mới sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam đẩy mạnh được xuất khẩu, tranh thủ đầu tư, vốn và công nghệ cho phát triển đất nước. ASEAN tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong các hợp tác khu vực và thu hút được sự quan tâm của các đối tác lớn ngoài khu vực.

 

1.1.4  Việt Nam có cơ hội mới từ quá trình điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước lớn, các nước láng giềng

 

Cán cân quyền lực và trọng tâm chiến lược đang dịch chuyển sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Các nước lớn đều điều chỉnh chính sách theo hướng coi trọng khu vực. Cấu trúc khu vực đa tằng nấc đang hình thành, ASEAN tiếp tục giữ được vai trò trung tâm vừa khuyến khích sự tham gia của nhiều nước lớn, vừa hạn chế được “bá quyền”. Đây là điều kiện thuận nhất cho việc triển khai chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa của ta. Việt Nam có cơ hội tranh thủ vị trí địa chiến lược, tranh thủ các bên trong và ngoài khu vực, tăng cường đan xen lợi ích chiến lược giữa ta và các đối tác để phục vụ cho các mục tiêu bảo đảm an ninh và thúc đẩy phát triển đất nước; đồng thời vẫn giữ được hòa hiếu giữa các bên.

 

1.1.5 Việt Nam có thể tận dụng cơ hội của nước đi sau trong việc tranh thủ thị trường, vốn và công nghệ, tham gia vào mạng lưới sản xuất và phân phối ở khu vực và toàn cầu

 

Phát huy những thành công trong 40 năm đổi mới, Việt Nam có điều kiện để học hỏi và tận dụng lợi thế do thời cuộc đem lại, tránh những vấp váp và thất bại của các nước đi trước, đặc biệt các nước rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự hội tụ của công nghệ mới dựa trên cơ sở công nghệ số, tiếp tục sáng tạo, tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng hơn, chi phí thấp hơn, giúp cho việc phát triển kinh tế đất nước hiệu quả. Việt Nam đi sau các nước trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây nhưng nay đi cùng các nước và đi thẳng vào công nghiệp 4.0 nên không mất nhiều chi phí chuyển đổi. Nếu tận dụng tốt điều này, Việt Nam có thể phát triển bứt phá, nhảy vọt, đi thẳng, hiện đại và thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến.

 

Xu hướng phát triển của các liên kết kinh tế tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu tiếp tục tạo ra những cơ hội cho Việt Nam tranh thủ thị trường, vốn, công nghệ. Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu của các nền kinh tế và các tập đoàn đa quốc gia trong và sau khủng hoảng kinh tế cũng tạo ra cơ hội gia tăng liên kết giữa các ngành, các doanh nghiệp của ta vào mạng lưới sản xuất và phân phối ở khu vực và toàn cầu.

 

1.2. Những thách thức chủ yếu

 

1.2.1. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, thế giới vẫn đang “mất trật tự” tạo nên nhiều khó khăn cho Đảng và Nhà nước ta trong xử lý quan hệ với từng nước, với các đối tác và trong việc duy trì sự đoàn kết, thống nhất trong ASEAN

 

Sự lựa chọn chính sách và xử lý quan hệ với các nước lớn đã và vẫn sẽ là một trong những khó khăn, thách thức lớn nhất đối với an ninh và phát triển của Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, Đảng và Nhà nước ta phải hết sức năng động, linh hoạt và khôn khéo để Việt Nam không bị rơi vào thế kẹt trong các cuộc mặc cả giữa các nước lớn; đồng thời đem lại lợi ích lớn nhất cho quốc gia trong quan hệ với các nước lớn.

 

Trong khoảng 15 - 20 năm tới, sự va chạm về lợi ích giữa các nước lớn tại khu vực nói chung và tại Việt Nam nói riêng có xu hướng gia tăng. Do vậy, công tác đối ngoại của Việt Nam đứng trước thách thức làm thể nào để tranh thủ được sự quan tâm của các nước lớn, biến sự quan tâm đó thành các hỗ trợ thực tế phục vụ cho phát triền; mặt khác tránh được các tình huống khó xử (thế “bị kẹt”) giữa các nước lớn, nhất là thế bị “kẹt” trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa Mỹ và Nga, giữa Nga và Trung Quốc, kể cả trong hai tình huống các nước lớn xung đột, mâu thuẫn hoặc hợp tác, thỏa hiệp.

 

1.2.2. Việc xử lý thỏa đáng quan hệ giữa Việt Nam với ba nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia) và vấn đề Biển Đông sẽ tiếp tục là thách thức lớn trong những năm tới

 

Ảnh hưởng của các nước lớn tới Lào và Campuchia ngày một gia tăng, tạo nên thách thức đối với an ninh ở sườn phía Tây và Tây Nam của Việt Nam. Do đó, việc đề ra chính sách đối ngoại hợp lý để có thể giữ được quan hệ với Lào, Campuchia, bảo đảm an ninh biên giới, nhưng không tiêu hao nguồn lực quá lớn là vấn đề rất hệ trọng.

 

Vấn đề Biển Đông vẫn là thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của Việt Nam, vậy nên cần phải có cách xử lý linh hoạt, thỏa đáng để giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước.

 

1.2.3. Chủ nghĩa đế quốc và một số thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc để chống phá Việt Nam

 

Chủ nghĩa đế quốc và một số thế lực phản động vẫn chưa từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, chúng vẫn đẩy mạnh hoạt động “nham hiểm” nhằm chuyển hóa chế độ, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tự do báo chí, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang... Các vấn đề này tồn tại từ nhiều năm qua, hiện nay vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là dưới sự tác động của các biến động chính trị, quân sự trên thế giới.

 

1.2.4. Một số thách thức an ninh phi truyền thống trở nên nghiêm trọng hơn

 

Các thách thức an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh tài chính, an ninh lương thực, năng lượng, nguồn nước, ô nhiễm môi trường, an ninh mạng,...) có thể sẽ phức tạp, nghiêm trọng hơn trong khi năng lực ứng phó của ta còn nhiều bất cập. Trong những năm tới, các thách thức như: dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, không khí, nguồn nước,.. tiếp tục diễn ra nghiêm trọng, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu và nguồn nước sông Mê Kông. Vấn đề sử dụng sông Hồng và các con sông khác cũng có thể trở thành thách thức đối với an ninh và phát triển của đất nước.

 

1.2.5. Thách thức trong việc bắt kịp và chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ

 

Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn phát triển tạo ra những mặt thuận nhưng cũng đưa tới thách thức mới đối với nền độc lập, chủ quyền quốc gia, làm xói mòn quyền lực nhà nước, dân tộc. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế còn làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống con người trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính đến an toàn văn hóa, xã hội, môi trường, an toàn chính trị. Một trong những thách thức của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là sự hình thành và phát triển của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (hay còn gọi là tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế, mafia), tội phạm khủng bố quốc tế và tội phạm sử dụng công nghệ cao.

 

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra trên rất nhiều bình diện với trình độ rất cao. Để nắm bắt cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu, đòi hỏi chúng ta phải đáp ứng được các điều kiện và yêu cầu đặt ra. Cuộc cách mạng này gây ra những thách thức do việc phải tái cơ cấu nền kinh tế trên diện rộng, chi phí cao, làm giảm mạnh lợi thế lao động giá rẻ, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế đất nước. Đã vậy, với sự áp đảo của các doanh nghiệp công nghệ cao, các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cũng như các doanh nghiệp kinh doanh theo lối truyền thống khó lòng đứng vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

 

II. Những yêu cầu mới về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới

 

Trước những cơ hội và thách thức từ bối cảnh quốc tế và trong nước với đặc trưng của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa tới sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh, phát triển bền vững, xã hội hài hòa, nền tảng trong sạch lành mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong quá trình vững bước vào kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc, cần nhận thức đầy đủ và giải quyết tốt những yêu cầu đặt ra như sau:

 

2.1. Tăng cường và phát huy mọi tiềm năng và vị thế của đất nước

 

Việt Nam có vị trí địa - kinh tế, địa - chiến lược đặc biệt, nằm trên tuyến đường huyết mạch nối liên Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu và Trung Đông, đồng thời cũng nằm trên hệ thống kết nối đường bộ của các quốc gia Đông Nam Á và châu Á. Hiện nay hơn 90% lượng vận tải hàng hóa của thế giới qua đường biển thì 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông. Việt Nam ở cạnh Trung Quốc, gần với Nhật Bản, Hàn Quốc là những quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh, thị trường lớn, tiềm lực tài chính, khoa học - công nghệ mạnh tạo cơ hội lớn cho sự giao lưu, hợp tác phát triển bởi cả các quốc gia trên đều có quan hệ là đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Việt Nam nằm trong Đông Nam Á - một khu vực có nhiều tiềm năng và đang là nơi có điều kiện phát triển nhanh, năng động nhất thế giới. Với vị trí chiến lược như trên, Việt Nam có nhiều lợi thế để thu hút sự quan tâm của các nước lớn. 

 

Hiện tại Việt Nam đang có lợi thế cơ cấu dân số “vàng” và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu. Hiện tại tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao, tỷ lệ người phụ thuộc thấp. Với khoảng hơn 54 triệu người trong độ tuổi lao động, mỗi năm lại được bổ sung 1,5 triệu người là một sức mạnh tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội.

 

Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tiềm năng chuyển đổi xanh và sẽ là một trung tâm về năng lượng tái tạo ở Đông Nam Á. Việt Nam đang xếp thứ 8 trong 10 quốc gia có đầu tư vào năng lượng tái tạo cao của thế giới. Trình độ phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam hiện đang đứng thứ 4 trên thế giới.

 

Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao song phương rộng mở với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó có 32 quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược, có hơn chục quốc gia hùng mạnh là đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam đã có quan hệ với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) trong đó có nhiều FTA thế hệ mới với các trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới; Việt Nam đang trong 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới. Vị thế quốc tế của Việt Nam trên thế giới ngày càng được củng cố và tăng cường, không chỉ tạo cơ hội để tham khảo kinh nghiệm ở các nước tiên tiến và tăng cường hợp tác phát triển, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể nhận biết, ngăn ngừa và phòng chống hiệu quả từ sớm, từ xa những yếu tố có nguy cơ đe dọa từ bên ngoài.  

 

2.2. Tăng cường và phát huy sức mạnh của thể chế chính trị  

 

Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý và kiến tạo của Nhà nước là nhân tố cội nguồn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vững bước vào kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc, Đảng ta là Đảng của trí tuệ, và niềm tin yêu của toàn dân tộc, Đảng đã có nhiều kinh nghiệm để tạo nên những kỳ tích hào hùng. Nhà nước ta của dân, do dân, vì dân, có đủ năng lực và tinh thần đổi mới, sáng tạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. 

 

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và sự điều hành, quản lý của Nhà nước, Việt Nam nhất định có đường lối, chính sách đúng đắn, sáng tạo với các bước đi thích hợp để tiến vào kỷ nguyên mới với việc phát triển mạnh mẽ vững chắc kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường; tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo đảm đất nước ngày càng giàu mạnh; độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững và củng cố; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế đất nước được nâng tầm.

 

Cùng với việc đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết nhất trí của bộ máy tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ cơ quan, Đảng ta quyết tâm thực hiện cuộc cách mạng “sắp xếp lại giang sơn”, kiên quyết làm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả tất cả các bộ máy trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đồng thời, đã tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ lý luận chính trị và ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, an ninh trật tự xã hội và độc lập tự chủ trong hợp tác quốc tế; đã kết hợp chặt chẽ hài hòa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quản lý khoa học và hiệu quả của Nhà nước, toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước đang ngày càng được củng cố, tăng cường theo hướng tinh gọn, hiệu quả, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt và hoàn thành xuất sắc các trọng trách được giao phó. Đây chính là yếu tố thuận lợi để xây dựng thành công đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh, sánh vai vói các cường quốc năm châu.

 

2.3. Củng cố và nâng cao thực lực của nền kinh tế xã hội

 

Sức mạnh tổng hợp của quốc gia và vị thế quốc gia là yếu tố quyết định việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Thực lực là nhân tố quyết định sự thành bại của việc xây dựng, phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Thực tế thế giới cho thấy nước nào có tiềm lực, thực lực và vị thế quốc gia mạnh, thì đều có nền kinh tế phát triển, văn hóa xã hội hài hòa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại vững chắc, giữ vai trò dẫn dắt và định hướng cục diện thế giới. Trong lần trả lời phỏng vấn báo nước ngoài ngày 26/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn”.

 

Thực lực của nước ta là sức mạnh tổng hợp mọi mặt của cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Thực lực bao gồm cả thực lực vật chất và thực lực phi vật chất, cả “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”, kết hợp thành sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt trong lúc lực lượng vật chất, năng lực kinh tế của đất nước còn có mặt hạn chế, thì sức mạnh chính trị, tinh thần và vị thế cũng là một nguồn lực quan trọng. Trong những năm qua, kế thừa và phát huy những truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân tộc, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở vì hoà bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Vì vậy vị thế quốc tế của Việt Nam càng được nâng cao, tạo điều kiện cho việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Bốn mươi năm đổi mới đem lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đời sống nhân dân cả về vật chất, tinh thần được cải thiện. Năm 1985 thu nhập bình quân đầu người mới đạt 159 USD/năm; thì đến năm 2024 đã ước đạt 4.500 USD/người/năm. Kinh tế Việt Nam phát triển ấn tượng. Chúng ta đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông sân bay, bến cảng, đường cao tốc, hệ thống điện nước, hệ thống thông tin đồng bộ, hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế đang được cơ cấu theo hướng hiện đại, hội nhập cao; đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng khoa học công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. 

 

Với quan điểm xác định con người là chủ thể, có vị trí trọng tâm trong chiến lược phát triển, Đảng, Nhà nước ta đã tăng cường các giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người mới; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, thực hiện bình đẳng giới để tất cả những nhiệm vụ đó được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, tạo thế vũng chắc cho phát triển xã hội hài hòa, văn minh, tất cả các yếu tố trên đã tạo ra cho đất nước ta thế mới và lực mới. Thế và lực mới là tổng hòa những thành tựu to lớn rất quan trọng về phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh vững mạnh, mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế. Thành quả của sự nghiệp cách mạng, những kinh nghiệm và bài học thành công hoặc hững hạn chế yếu kém chính là những tiền đề vật chất, tinh thần quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp cách mạng nước ta bước vào kỷ nguyên mới vươn mình.

 

Bối cảnh đặc biệt của thế giới và trong nước vừa tạo công cuộc đổi mới, sáng tạo, phát triển trong kỷ nguyên mới của Việt Nam những triển vọng mới đầy hứa hẹn, vừa đặt ra những nhiệm vụ mới hết sức nặng nề. Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau cùng tác động đến sự phát triển của đất nước. Với bản lĩnh chính trị dày dặn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong chiến đấu dày dạn kinh nghiệm của giai cấp công nhân, đồng thời là của cả dân tộc, được thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gắn bó với nhân dân - là lực lượng duy nhất có đầy đủ khả năng lãnh đạo đất nước ta, dân tộc ta tự tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, tiến bước cùng thời đại./.

 

GS.TS Vũ Văn Hiền*

 

 



* Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết