Thứ Tư, ngày 16 tháng 07 năm 2025

Phát triển lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới

Ngày phát hành: 15/07/2025 Lượt xem 43

 

1. Cấu trúc, hình thức, nội dung lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia

 

1.1. Lý luận bảo vệ an ninh quốc gia

 

Lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia là hệ thống tri thức lý luận về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia; xây dựng lực lượng và tổ chức hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia; biện pháp, cách thức bảo vệ an ninh quốc gia; bảo vệ an ninh quốc gia trên các lĩnh vực, địa bàn; ứng phó, xử lý các thách thức đe dọa an ninh phi truyền thống; tiềm lực và điều kiện bảo vệ an ninh quốc gia.

 

 

Về hình thức, lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia được phản ánh trong nhiều nguồn rất phong phú[2]. Các yếu tố căn cốt, trụ cột và nội dung cấu thành lý luận bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm:

 

Thứ nhất, lý luận về Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia:

 

Đây là một thành tố rất quan trọng trong cấu thành của cấu trúc lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia. Nội dung của vấn đề rất phong phú, nhưng khái quát lại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia là cuộc đấu tranh giai cấp, điều đó đặt ra yêu cầu khách quan cuộc đấu tranh này luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, phục vụ đường lối lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng sẽ hình thành nên chiến lược, quan điểm, phương châm, nguyên tắc, xây dựng lực lượng, nền, thế trận an ninh nhân dân, tiềm lực vật chất, tinh thần cũng như điều kiện bảo đảm trong bảo vệ an ninh quốc gia.

 

Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng có nhiệm vụ quản lý tập trung thống nhất bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm các điều kiện cho hoạt động này. Trước hết, là cơ sở pháp lý; tiếp đó là nguồn lực con người, cơ sở vật chất và trang thiết bị, bảo đảm tiềm lực an ninh quốc gia. Là chủ thể quản lý bảo vệ an ninh quốc gia, Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, điều hành, chỉ đạo hoạt động này để thực sự tập trung, thống nhất, chuyên sâu, hiệu quả.

 

Quần chúng nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia. Đây là một vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Để quần chúng nhân dân tham gia thực chất, đầy đủ, hiệu quả trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp với sự tham mưu, vai trò nòng cốt của lực lượng Công an nhân dân, có nhiều giải pháp đồng bộ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, củng cố, giữ vững lòng dân. Từ đó, xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên nền thế trận lòng dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, gắn kết chặt chẽ với nền thế trận quốc phòng toàn dân. Cùng với sự động viên, tổ chức quần chúng, cần hình thành được hệ thống chính sách, pháp luật làm cơ sở để quần chúng tham gia bảo vệ an ninh quốc gia một cách thực chất, có hiệu quả. Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, tham gia tích cực của quần chúng nhân dân là bảo đảm để cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia mang tính thường xuyên, liên tục, toàn dân, toàn diện.

 

Thứ hai, lý luận về xây dựng lực lượng chuyên trách và tổ chức bảo vệ an ninh quốc gia:

 

Lực lượng nòng cốt, chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia là lực lượng Công an nhân dân, mà trực tiếp là An ninh nhân dân. Lực lượng này có trách nhiệm tham mưu với Đảng, Nhà nước trong xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cũng như tổ chức, quán triệt, thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; chủ trì trong quản lý nhà nước, đấu tranh với các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia. Từ tính chất của cuộc đấu tranh và vai trò của đội ngũ cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia, công tác xây dựng lực lượng nòng cốt chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng tới mục tiêu thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, tinh, gọn, mạnh, luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, Nhà nước và Nhân dân, “chỉ biết còn Đảng thì còn mình”. Để đáp ứng với những yêu cầu nêu trên, cần bám sát, vận dụng trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với phương châm “người trước, súng sau”, đặc biệt là theo sáu điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy Công an nhân dân[3], gắn với thực tiễn bảo vệ an ninh quốc gia.

 

Nhận thức lý luận về tổ chức hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia đã được hình thành từ thực tiễn cũng đã chỉ rõ hoạt động này phải được sắp xếp, bố trí thành một chỉnh thể thống nhất, tạo thành thế trận bảo vệ an ninh quốc gia từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, không bị chia cắt, trùng lắp; gắn kết giữa tham mưu, quản lý và trực tiếp đấu tranh.

 

Thứ ba, lý luận về biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia:

 

  Nội dung đưa ra chỉ dẫn để chủ thể bảo vệ an ninh quốc gia vận dụng vào công tác, từng hoạt động trong bảo vệ an ninh quốc gia, xác định những cách thức mà lực lượng chuyên trách cần thực hiện trong bảo vệ an ninh quốc gia. Từ thực tiễn, lý luận bảo vệ an ninh quốc gia, hình thành nhận thức, lý luận các biện pháp cơ bản trong bảo vệ an ninh quốc gia, gồm: vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang. Các biện pháp này cho phép chủ thể bảo vệ an ninh quốc gia giải quyết được những yêu cầu do Đảng, Nhà nước đặt ra, các vấn đề thực tiễn phát sinh trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Có thể hiểu một cách khái quát các biện pháp như sau:

 

- Biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia là việc huy động và sử dụng sức mạnh của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia công tác bảo vệ an ninh quốc gia.

 

- Biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia là cách thức, phương pháp xây dựng pháp luật, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và sử dụng pháp luật, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia.

 

- Biện pháp ngoại giao trong bảo vệ an ninh quốc gia là việc thông qua hoạt động đối ngoại (đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân) vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia. Một luận điểm lý luận quan trọng trong đối ngoại an ninh là hoạt động đối ngoại này hiện nay có tính dẫn dắt, đi trước, mở đường trong hoạt động đối ngoại nói chung.

 

- Biện pháp kinh tế trong bảo vệ an ninh quốc gia là cách thức, phương pháp sử dụng các quy luật, quan hệ, hoạt động và lợi ích trong lĩnh vực kinh tế theo quy định của pháp luật vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia.

 

- Biện pháp khoa học - kỹ thuật trong bảo vệ an ninh quốc gia là nghiên cứu, phát minh, sáng chế, ứng dụng, sử dụng các công nghệ khoa học, hệ thống các phương tiện kỹ thuật - nghiệp vụ vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia.

 

- Biện pháp nghiệp vụ trong bảo vệ an ninh quốc gia là biện pháp công tác có tính chuyên môn sâu, riêng biệt của lực lượng chuyên trách vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia.

 

- Biện pháp vũ trang trong bảo vệ an ninh quốc gia là cách thức, phương pháp sử dụng sức mạnh tinh thần, thể chất, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia.

 

Thứ tư, lý luận về tiềm lực và điều kiện bảo vệ an ninh quốc gia:

 

Đây là nhóm thành tố lý luận mang tính tổng hợp về dự phòng các nguồn lực của quốc gia, ứng phó với các nguy cơ đe dọa, xâm phạm trực tiếp đến an ninh quốc gia. Trong đó, tiềm lực bảo đảm an ninh quốc gia là những nguồn lực, phương tiện sẵn có, huy động khi có sự việc yêu cầu phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Điều kiện bảo vệ an ninh quốc gia là các điều kiện cần thiết để công tác bảo vệ an ninh quốc gia được tiến hành thuận lợi, đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch, phương án bảo vệ an ninh quốc gia phục vụ các chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Đó là những điều kiện về: cơ sở pháp lý; nhân lực chuyên trách, ngân sách bố trí cho bảo vệ an ninh quốc gia; các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ xây dựng lực lượng chuyên trách về bảo vệ an ninh quốc gia chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

 

Thứ năm, lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia trên các lĩnh vực, địa bàn:

 

Định hướng phân bố lực lượng và nguồn lực trong bảo vệ an ninh quốc gia, xác định những hướng bố trí chính, những mục tiêu cần tập trung bảo vệ, xây dựng kế hoạch bảo vệ. An ninh quốc gia trên các lĩnh vực, địa bàn là tổng thể những vấn đề tác động đến an ninh quốc gia xét theo phương diện tiếp cận và phạm vi ảnh hưởng. Trong công tác bảo vệ, bảo đảm an ninh quốc gia lĩnh vực, địa bàn phải giải quyết hài hòa, bảo đảm tính thống nhất của mối quan hệ giữa bảo đảm an ninh với xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội. Đây là hai lĩnh vực có những quy luật khách quan khác nhau chi phối. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, đất nước đang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực, trụ cột quan trọng của nền kinh tế. Lý luận bảo vệ an ninh quốc gia đã giải quyết mối quan hệ đó bằng sự gắn bó xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm an ninh, trật tự trong công tác và tham mưu Đảng, Nhà nước các chủ trương phát triển quốc gia đi liền với bảo đảm an ninh, trật tự trong mọi lĩnh vực của đất nước, xã hội.

 

Về bảo vệ an ninh quốc gia trên các lĩnh vực, căn cứ chiều hướng của nguy cơ, hoạt động tác động đến an ninh quốc gia, lý luận phân chia thành: an ninh nội địa (giải quyết nguy cơ xuất phát từ bên trong) và an ninh đối ngoại (ứng phó với nguy cơ từ bên ngoài). Theo lĩnh vực chuyên ngành, lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, giai đoạn đầu chủ yếu phân theo hai nhóm: phản gián, chống phản động. Đến nay, lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia được chia thành các nhóm lĩnh vực như: an ninh chính trị (trong đó có an ninh đối ngoại, an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng), an ninh kinh tế, an ninh xã hội, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh mạng, an ninh thông tin, an ninh môi trường, an ninh năng lượng, an ninh lãnh thổ...

 

Về bảo vệ an ninh quốc gia trên địa bàn, căn cứ tính chất trọng điểm của địa bàn mà lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia phân loại các kiểu địa bàn: địa bàn theo cấp hành chính; địa bàn theo khu vực vùng miền; địa bàn phân bố, nhận diện theo hoạt động của các loại đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia; địa bàn có mức độ ảnh hưởng lớn, nguy cơ cao đe dọa an ninh quốc gia. Theo cấp độ, tính chất vụ việc, phân bố số đối tượng có địa bàn thông thường và địa bàn trọng điểm (về loại đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia hoặc địa bàn “điểm nóng” về an ninh, trật tự). Việc phân chia địa bàn có tính chất tương đối do có sự giao thoa về ranh giới hành chính, vùng đệm hoặc sự liên kết của nhiều loại đối tượng trên một địa bàn.

 

Thứ sáu, lý luận về ứng phó, xử lý các thách thức đe dọa an ninh phi truyền thống:

 

Đây là thành tố lý luận mới trong hệ thống lý luận bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh thời đại ngày nay. Có nhiều quan niệm về thách thức đe dọa an ninh phi truyền thống (an ninh phi truyền thống) ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nhận diện an ninh phi truyền thống là: (1) Vấn đề an ninh mới, chưa từng có trong lịch sử, chỉ xuất hiện ở giai đoạn hiện nay. Ví dụ: thách thức an ninh mạng, an ninh vũ trụ... chỉ xuất hiện ở thời hiện đại khi có sự phát triển đến một mức độ nhất định của khoa học - công nghệ. (2) Những vấn đề an ninh không mới, thậm chí đã tồn tại song hành cùng lịch sử nhân loại, nhưng xuất hiện sắc thái mới, biểu hiện mới, sinh ra do nguyên nhân, điều kiện mới, tiến hành bằng phương thức, thủ đoạn mới và gây hậu quả, tác hại và mức độ chưa từng có. Ví dụ, dịch bệnh truyền nhiễm có từ lâu nhưng gần đây xuất hiện các dịch bệnh (Covid-19) gây hậu quả to lớn đối với mọi quốc gia, người dân do mức độ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra hoàn toàn khác so với trước[4]. Tiếp cận về nguyên nhân hình thành các thách thức an ninh phi truyền thống cho thấy nó có thể do con người gây ra hoặc do tự nhiên mang lại.

 

Từ nhận diện về những thách thức an ninh phi truyền thống, hệ thống lý luận phòng ngừa, ứng phó đã được từng bước hình thành, trong đó có: (1) Khái niệm, nhận diện về an ninh phi truyền thống; (2) phòng ngừa, ứng phó, kiểm soát an ninh phi truyền thống (mục đích không để nó trở thành những thách thức an ninh trong thực tế); (3) xử lý các thách thức an ninh phi truyền thống (giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống đã trở thành thách thức an ninh); (4) sự chuyển hóa an ninh phi truyền thống thành an ninh truyền thống; (5) hợp tác quốc tế về an ninh phi truyền thống... Trên cơ sở nhận thức lý luận đó, vấn đề an ninh phi truyền thống đã được đưa vào nội dung các văn kiện của Đảng từ Đại hội XI. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng tiếp tục khẳng định nhận thức, quan điểm nhất quán về nội dung, thách thức của an ninh phi truyền thống đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp”[5]. Từ quan điểm này của Đảng, lý luận về ứng phó, xử lý các thách thức đe dọa an ninh phi truyền thống đã có bước phát triển. Theo đó: ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân; phải lấy chủ động phòng ngừa, xử lý ngăn chặn từ xa là chính để giải quyết các nguy cơ, mối đe dọa an ninh phi truyền thống; xây dựng, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước là vấn đề có tính chiến lược để phòng ngừa, ứng phó hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống; tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa ngoại lực kết hợp sức mạnh nội lực để ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống; ứng phó với các đe dọa an ninh phi truyền thống đồng thời phải đi đôi bảo đảm an ninh truyền thống; cảnh giác trước các mưu đồ lợi dụng vấn đề an ninh phi truyền thống để gây tổn hại lợi ích quốc gia.

 

Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc góp phần tạo vị thế, vai trò của Việt Nam đối với an ninh, hòa bình, ổn định của thế giới_Ảnh: TTXVN

 

1.2. Nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia

 

Cùng với lý luận bảo vệ an ninh quốc gia, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia đã được hình thành chủ yếu trong thực tiễn công tác, chiến đấu của lực lượng Công an nhân dân trong suốt chiều dài lịch sử. Nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia là gì, đến nay có nhiều quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, có thể quan niệm một cách giản lược nhất, đó chính là cách thức sáng tạo trong thực tiễn công tác, chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia để đạt hiệu quả cao nhất. Như vậy, khi nói đến nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trước hết đó là sự sáng tạo của các hoạt động thực tiễn được sử dụng trong bảo vệ an ninh quốc gia. Tính sáng tạo đó được thể hiện qua công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức hoạt động dưới cả các góc độ chiến lược, chiến thuật; trong áp dụng biện pháp để xử lý các tình huống thực tiễn của công tác chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia của các chủ thể chuyên trách. Trong mối quan hệ với lý luận bảo vệ an ninh quốc gia, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia có thể xuất hiện trước, trở thành một thực tiễn cho sự phát triển lý luận. Tuy nhiên, xét về tổng thể, sự hình thành lý luận bảo vệ an ninh quốc gia đem lại chỉ dẫn chính xác, gợi mở tính sáng tạo trong việc hình thành quan điểm, phương châm, nguyên tắc, biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia trên từng lĩnh vực, địa bàn cũng như những tình huống cụ thể, điều kiện cần của nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia. Điều kiện đủ là việc vận dụng sáng tạo tư duy lý luận đó trong sự gắn kết nhuần nhuyễn với thực tiễn công tác, chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia. Như vậy, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia có sự thống nhất cao giữa thực tiễn với lý luận, trên cơ sở chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội, đối ngoại và không phải là một hằng số bất biến, nó luôn đòi hỏi được nghiên cứu, phát triển, bổ sung và bồi đắp. Trong nghệ thuật cách mạng Việt Nam, nghệ thuật bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia là một bộ phận quan trọng.

 

Nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia được thể hiện trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (do lực lượng Công an nhân dân tham mưu) trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thước đo của nó là tính chiến lược, chính xác, tạo ra phương thức lãnh đạo phù hợp, hiệu quả với tình hình thực tiễn trong chủ trương, đường lối của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý trong chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong thực tiễn quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, nó đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu quản lý nhưng thông thoáng, cởi mở, thúc đẩy sự phát triển cho mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và quan hệ đối ngoại của đất nước; có đóng góp xứng đáng vào yêu cầu và mục tiêu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Trong đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch và tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia thể hiện ở việc chủ động phát hiện, vô hiệu hóa, xử lý kịp thời bằng cách làm sáng tạo, bảo đảm yêu cầu chính trị, đối ngoại, pháp luật. Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân và phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, đó là việc giữ vững lòng dân, xây dựng “thế trận lòng dân” gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; tăng cường niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia bảo vệ an ninh quốc gia. Nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia được thể hiện thông qua quan điểm, phương châm, nguyên tắc, nhiệm vụ của công tác bảo vệ an ninh quốc gia nói chung, như: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”, “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy”, “phòng ngừa là chính, giữ vững bên trong là chính”, “an ninh chủ động”, “bốn tại chỗ”; “bảo đảm sự đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc”... và những quan điểm, phương châm, nguyên tắc riêng của từng lĩnh vực công tác an ninh.

 

2. Sự hình thành và phát triển của lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia

 

An ninh quốc gia là sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bảo vệ an ninh quốc gia luôn là nhiệm vụ hệ trọng, trong đó lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia có vai trò hết sức quan trọng. Lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia là bộ phận không thể thiếu của lý luận, nghệ thuật cách mạng Việt Nam, lý luận, nghệ thuật bảo vệ Tổ quốc thời đại Hồ Chí Minh. Sự hình thành của nó là quá trình phát triển biện chứng nhận thức, tư duy lý luận của Đảng ta và cách thức, phương pháp giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam trong bảo vệ an ninh quốc gia. Có tính biện chứng sâu sắc, xuất phát từ thực tiễn sinh động của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, đến nay lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia đã không ngừng được phát triển và ngày càng hoàn thiện, thể hiện ngày càng tốt hơn vai trò soi đường, dẫn dắt sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, một nội dung trọng yếu trong bảo vệ Tổ quốc.

 

Sự hình thành, phát triển của lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trước hết là: (1) Quán triệt, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bảo vệ an ninh quốc gia; (2) Kế thừa tinh hoa dựng nước, giữ nước của ông cha trong suốt chiều dài lịch sử nghìn năm văn hiến Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại; (3) Gắn liền với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Công an nhân dân Việt Nam; (4) Thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Thực tiễn sinh động trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia.

 

Thực tiễn đã cho thấy, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong quá trình hoạt động bí mật, các tổ chức, cán bộ, đảng viên của Đảng luôn là đối tượng bị truy tìm, bắt giữ, đàn áp của thực dân, phong kiến phản động. Điều này đã đặt ra yêu cầu Đảng phải tự bảo vệ mình, bảo vệ phong trào quần chúng trước nanh vuốt của kẻ thù. Đây chính là tiền đề để hình thành nhận thức về bảo vệ an ninh chính trị nội bộ Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng của quần chúng trước sự truy bức của địch. Cùng nhận thức ấy, công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng của quần chúng đã được thực hiện thường xuyên, phục vụ có hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn tiền khởi nghĩa[6].

 

Trong Cách mạng Tháng Tám, các lực lượng tiền thân của Công an nhân dân phối hợp chặt chẽ với các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân, cùng quần chúng nhân dân đã đập tan bộ máy của chính quyền thực dân, phong kiến phản động, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám đã chỉ rõ, tập trung đấu tranh có hiệu quả với số đối tượng trọng điểm cầm đầu, cốt cán trong bộ máy chính quyền thực dân, phong kiến phản động, đã giúp quần chúng nhân dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện cuộc cách mạng một cách triệt để. Thực tiễn này cũng là một cơ sở rất quan trọng để hình thành, phát triển lý luận, nghệ thuật an ninh.

 

Ngay sau khi ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đối mặt với hiểm họa “thù trong giặc ngoài”, tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự ủng hộ, giúp đỡ của quần chúng nhân dân, Công an nhân dân Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng cách mạng đập tan âm mưu chống phá của các thế lực phản động câu kết với thực dân đế quốc, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng. Trong đó, điển hình và đáng tự hào là đã đập tan âm mưu đảo chính do Việt Quốc, Việt Cách cấu kết với thực dân Pháp, mở đầu là phá vụ án tại số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội), ngày 12/7/1946 và ở nhiều địa điểm khác. Việc khám phá các vụ án này như Tổng Bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Những vụ khám bắt trên đây có một tác dụng vô cùng quan trọng, nó lột mặt nạ bọn phản động bên trong, tay sai của bọn phản động bên ngoài, làm cho quốc dân luôn luôn tỉnh táo để khỏi mắc hợm bọn Việt gian đội lốt cách mạng để ủng hộ Chính phủ diệt trừ chúng... Nó lôi ra ánh sáng dư luận một bọn giả danh chính trị, giả danh quốc gia, dân tộc và do đó, nó làm cho sự đoàn kết các đảng phái yêu nước và toàn dân ngày một chặt chẽ thêm. Mấy cuộc khám bắt vừa đây cắm một cái mốc trên con đường thống nhất dân tộc và biểu lộ sức mạnh và uy tín của chính quyền nhân dân”[7]. Từ thực tiễn đấu tranh chống gián điệp, phản động, nhất là việc phá rã âm mưu đảo chính phản cách mạng này đã làm phong phú, phát triển lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh, trong đó có công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hoạt động, lý luận và nghệ thuật “bóp chết tổ chức phản động từ trong trứng nước”. Cũng từ vụ án lịch sử này đã gợi mở cho tổ chức công tác bảo vệ an ninh với lực lượng nòng cốt là An ninh nhân dân và ngày 12/7/1946 đã trở thành ngày truyền thống của lực lượng An ninh nhân dân Việt Nam.

 

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai, theo lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần “cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh”[8], Công an nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, góp phần đặc biệt quan trọng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn với Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Từ thực tiễn công tác, chiến đấu của lực lượng Công an nhân dân, lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trong kháng chiến chống thực dân Pháp có những bước phát triển mới[9] về lãnh đạo, chỉ huy; tổ chức lực lượng và hoạt động; biện pháp và cách thức đấu tranh; về đấu tranh chống gián điệp, chống phản động; về cảnh vệ; về bảo vệ chiến dịch[10]; về phối hợp với Quân đội nhân dân; về xây dựng phong trào quần chúng... qua đó đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến, của công tác công an.

 

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân, dân quân, du kích, Công an nhân dân đã dựa vào quần chúng nhân dân bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, để miền Bắc thực sự trở thành hậu phương lớn, điểm tựa vững chắc cho miền Nam. Được sự chi viện của Bộ Công an, lực lượng An ninh miền Nam đã phối hợp chặt chẽ với quân giải phóng và du kích làm nòng cốt cho các phong trào đấu tranh của cách mạng miền Nam ở các vùng chiến lược, tiến hành các hình thức đấu tranh quân sự, ngoại giao, binh vận, địch vận, góp phần vào chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975 - giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

 

Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia tiếp tục có những bước phát triển quan trọng và ngày càng hoàn thiện hơn, được nâng lên một tầm cao mới. Trong đó, ở miền Bắc đó là lý luận, nghệ thuật đấu tranh chống gián điệp với tất cả phương thức, nhất là ẩn nấp và biệt kích[11], chống phản động[12], chống chiến tranh phá hoại tư tưởng (chiến tranh tâm lý) của địch; lý luận, nghệ thuật kết hợp giữa an ninh với quân sự, quốc phòng; phát huy vai trò của quần chúng trong bảo vệ trật tự, trị an. Ở miền Nam, thực tiễn đấu tranh gian khổ với muôn vàn hy sinh của lực lượng An ninh miền Nam cùng với những chiến công, thành tích vẻ vang góp phần vào thắng lợi cuối cùng, thống nhất đất nước cũng đã góp phần bổ sung, phát triển lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia. Trong đó, đặc sắc là lý luận, nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo công tác an ninh với lực lượng An ninh miền Nam; lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh, an toàn của lãnh đạo, cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên trong chiến tranh; an ninh, an toàn vùng giải phóng; bảo vệ và xây dựng phong trào quần chúng cách mạng trong vùng giải phóng cũng như trong lòng địch; lý luận, nghệ thuật điệp báo (tình báo) Công an nhân dân; lý luận, nghệ thuật đấu tranh vũ trang; lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh, an toàn chiến dịch; lý luận, nghệ thuật phối hợp hoạt động giữa an ninh với quân sự, chính trị, đối ngoại... Thực tiễn khẳng định, lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trong kháng chiến chống Mỹ đã có bước phát triển, kết tinh ở tầm cao mới, góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của công tác an ninh trong giai đoạn này.

 

Đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam tiếp tục thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước yêu cầu đó, Công an nhân dân phối hợp với Quân đội nhân dân, các lực lượng, chính quyền các cấp tiếp quản các vùng mới giải phóng, tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, chủ động phòng ngừa, đập tan kế hoạch hậu chiến của địch với cách mạng Việt Nam, trấn áp các loại tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; tham gia bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam. Trong bối cảnh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu có những diễn biến mới phức tạp trong nội bộ, lực lượng Công an nhân dân đã chủ động nắm chắc tình hình, góp phần quan trọng quyết định bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, phục vụ cho việc hình thành và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

 

Từ thực tiễn đó, lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia tiếp tục có bước phát triển, tư duy lý luận, nghệ thuật phản gián, đấu tranh chống phản động nói chung; đấu tranh chống các loại gián điệp, phản động cụ thể, an ninh văn hóa, tư tưởng đã được định hình rõ nét. Việc lực lượng Công an nhân dân với nòng cốt là lực lượng An ninh nhân dân, phối hợp với Quân đội nhân dân và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân đập tan kế hoạch hậu chiến của địch với cách mạng Việt Nam, điển hình là thắng lợi của Kế hoạch phản gián CM12[13] - đỉnh cao của lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia là một minh chứng sinh động. Cùng với lý luận, nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy và sử dụng biện pháp đấu tranh, tư duy lý luận bảo đảm các điều kiện cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia gồm chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, nguồn nhân lực đã có bước phát triển rất quan trọng.

 

Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công an nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; làm nòng cốt trong bảo đảm ổn định chính trị, xã hội của đất nước; góp phần vào sự phát triển ngày càng bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn hóa, con người Việt Nam, thắng lợi của nhiệm vụ công tác quốc phòng, quân sự, đối ngoại của đất nước; xây dựng xã hội ngày càng trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh, đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho Nhân dân. Đây là giai đoạn lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia có bước phát triển vượt bậc cả về tư duy lý luận và biện pháp, cách thức bảo vệ an ninh quốc gia. Về nhận thức và tư duy, sau một chặng đường lịch sử, lần đầu tiên thuật ngữ “an ninh quốc gia” chính thức đã được sử dụng thay thế cho thuật ngữ “an ninh chính trị”. Theo đó: “Bộ luật Hình sự năm 1985 đã thay thế nhóm các tội phản cách mạng bằng các tội xâm phạm an ninh quốc gia, không chỉ là sự thay đổi về thuật ngữ mà là sự phát triển đáng kể trong nhận thức”[14]. Tiếp đó, Bộ Chính trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 30/11/1987 về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, trong đó thuật ngữ “an ninh quốc gia” cũng đã thay thế cho thuật ngữ “an ninh chính trị”. Cùng với sự thay đổi về thuật ngữ và quan niệm, tư duy lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia đã định hình và không ngừng hoàn thiện lý luận về bảo vệ an ninh truyền thống; đã hình thành nhận thức tư duy lý luận về ứng phó, xử lý các thách thức an ninh phi truyền thống. Sự hình thành tư duy, quan điểm “đối tác - đối tượng” cũng đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trong giai đoạn này. Trên thực tế, sự phát triển của nhận thức, tư duy lý luận, bổ sung, phát triển nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia đã góp phần quan trọng xử lý, hóa giải thành công nhiều thách thức về an ninh quốc gia truyền thống và thách thức an ninh phi truyền thống, qua đó đóng góp đặc biệt quan trọng vào thành công vĩ đại của công cuộc đổi mới.

 

3. Một số định hướng phát triển lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới

 

Có thể khẳng định, lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia đã có bước phát triển quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử, gắn với thực tiễn công tác, chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia và quá trình lớn mạnh, trưởng thành của lực lượng Công an nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, lý luận, nghệ thuật và công tác nghiên cứu, phát triển lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia cũng còn có những hạn chế như chưa giải quyết hết ở tầm tư duy nhận thức nhiều vấn đề thực tiễn không mới, hoặc đã bị thực tiễn vượt qua.

 

Đất nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa, thời khắc lịch sử đặc biệt, chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hiện thực hóa mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước, sẵn sàng đưa đất nước bước vào “kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu”[15], trong điều kiện thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với khó khăn, thách thức đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự ổn định chính trị, xã hội, sự phát triển bền vững, đúng định hướng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn hóa, con người Việt Nam. Đứng trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới, là hệ thống lý luận, nghệ thuật “mở”, lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia đòi hỏi cần được tiếp tục bổ sung, phát triển là một yêu cầu khách quan. Trong đó, điều quan trọng nhất là lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia phải góp phần để công tác bảo vệ an ninh quốc gia đồng thời thực hiện thắng lợi hai mục tiêu cơ bản: (1) Góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống; (2) Trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Từ đó, cần quan tâm, chú trọng một số nội dung trọng tâm sau:

 

Một là, nhận thức toàn diện, đầy đủ, sâu sắc về bối cảnh, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và những vấn đề đặt ra cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự nói chung, bảo vệ an ninh quốc gia nói riêng. Xác định lý luận về an ninh phải bảo đảm tính “vượt trước”, “dẫn đường” cho thực tiễn bảo vệ an ninh quốc gia trước những thay đổi mau lẹ của tình hình và yêu cầu, nhiệm vụ mới; phải bám sát, thể chế hóa, cụ thể hóa tư duy mới, nhận thức mới, chiến lược của Đảng, Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khoa học của lý luận về an ninh trong tổng thể lý luận về bảo vệ Tổ quốc, có sự liên thông, kế thừa, giao thoa với các lĩnh vực lý luận khác. Quán triệt và cụ thể hóa thành chương trình hành động, đề án thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong phát triển lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia gắn với tiếp tục thực hiện hiệu quả nghị quyết về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới...

 

Hai là, có chiến lược, lộ trình phát triển lý luận về an ninh quốc gia, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia phù hợp với điều kiện, bối cảnh, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước trong tình hình mới. Trong đó, bám sát định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước đặt ra cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia để định hướng mục tiêu, phương hướng, lộ trình, giải pháp phát triển, hoàn thiện lý luận, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia. Chú trọng bổ sung, phát triển lý luận về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, phương châm, nguyên tắc, biện pháp, chiến lược, chiến thuật đấu tranh, đối sách với các phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá mới của các thế lực thù địch, các loại tội phạm. Nghiên cứu, làm sáng tỏ hệ thống, khoa học lý luận về an ninh phi truyền thống và phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống, an ninh kinh tế, tài chính, tiền tệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế...

 

Ba là, nâng cao chất lượng công tác định hướng, tổ chức nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn gắn với đổi mới mạnh mẽ, căn bản công tác quản lý nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận thực sự tạo ra sự thông thoáng, tạo động lực thúc đẩy nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong thực tiễn công tác, chiến đấu, bảo vệ an ninh quốc gia. Có cơ chế, chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học thực sự có tâm huyết, đam mê, trách nhiệm, có năng lực nghiên cứu khoa học, phát hiện vấn đề và tổ chức các hoạt động nghiên cứu cho ra những sản phẩm khoa học chất lượng, thiết thực, có giá trị cao cả về lý luận và thực tiễn.

 

Bốn là, tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia. Thống nhất nhận thức, định hình những vấn đề cơ bản, khung lý luận về nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa, bổ sung, làm sáng rõ những vấn đề chưa thống nhất, chưa rõ, khoảng trống về mặt lý luận. Kết hợp đồng thời các hướng nghiên cứu lý luận về nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia trên cả phương diện tổng thể, lý luận cơ bản với tổng kết, nghiên cứu những mặt công tác, hoạt động cụ thể đạt đến tầm nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia; nghiên cứu, tổng kết từng bước, từng phần hướng tới hệ thống, hoàn chỉnh lý luận về nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia phục vụ công tác giảng dạy, đào tạo cũng như chỉ dẫn thực tiễn công tác, chiến đấu.

 

Năm là, tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống các trung tâm lưu trữ, thư viện trong Công an nhân dân, ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số trong lưu trữ, quản lý, khai thác tài liệu phục vụ nghiên cứu, công tác, chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, liên thông giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, trung tâm lưu trữ, thư viện với nhau và với các đơn vị thực tiễn; giữa đơn vị thực tiễn với nhau. Đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng công tác phối hợp, chia sẻ thông tin, tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận cũng như việc ứng dụng, chuyển tải các kết quả nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận tới các đơn vị thực tiễn; bảo đảm người nghiên cứu có thể tiếp cận toàn diện thực tiễn công tác, chiến đấu, người làm thực tiễn có thể tiếp cận hệ thống lý luận, các tài liệu, sản phẩm nghiên cứu khoa học một cách dễ dàng, thuận tiện.

 

Trung tướng, PGS.TS. TRẦN VI DÂN[1]



[1] Phó Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương,

[2] Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo, Bách khoa thư Công an nhân dân, Từ điển Bách khoa Công an nhân dân; Tổng tập lý luận Công an nhân dân.

[3] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.5, tr.498.

[4] Xem Trần Vi Dân: “Thách thức an ninh phi truyền thống và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Tạp chí Công an nhân dân, số 06/2023, kỳ 3.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.106-107.

[6] Các “Đội Tự vệ đỏ”, “Tự vệ công nông”, “Danh dự trừ gian”, “Trinh sát Việt Minh”, “Ban công tác đội”… là những tổ chức tiền thân của Công an nhân dân Việt Nam được Đảng thành lập, đã góp phần hết sức quan trọng bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân và phong trào cách mạng của quần chúng trong giai đoạn 1930 - 1945.

[7] Dẫn theo Đại tá, TS. Trần Quang Tám: “Vụ án Ôn Như Hầu - Bài học kinh nghiệm về bảo vệ chính quyền cách mạng ngày đầu mới thành lập”, web: nhandan.vn, ngày 19/7/2015.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.44.

[9] Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tư (năm 1949) đã đề ra nhiệm vụ “Xây dựng lý luận Công an Việt Nam”.

[10] Thể hiện qua các chiến công: Đập tan âm mưu của Phòng Nhì lôi kéo Bảy Viễn để thành lập “chiến khu quốc gia Bình Xuyên” chống lại kháng chiến (tháng 5/1948); phá một số vụ án gián điệp, phản động; Tổ điệp báo A13 đánh đắm thông báo hạm A-mi-ô-đanh-vin (Amyot D’Inville) ở vùng biển Sầm Sơn, Thanh Hóa (tháng 9/1950); bảo vệ các chiến dịch lớn như chiến dịch Biên giới (1950), chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)...

[11] Thể hiện qua các chiến công: Đấu tranh chuyên án gián điệp cài lại “C30” do cơ quan tình báo Mỹ điều khiển (1954 - 1958); đấu tranh với gián điệp biệt kích xâm nhập bằng đường biển trong Chuyên án BK63 (1961 - 1969); đấu tranh với tổ chức gián điệp trong Chuyên án GM65 tại Hải Phòng (1965); đấu tranh Chuyên án gián điệp biệt kích xâm nhập bằng đường không (Chuyên án PY 27 năm 1961 - 1966)...

[12] Thể hiện qua chiến công dập tắt vụ bạo loạn ở Đồng Văn, Hà Giang (1959).

[13] Trong Kế hoạch CM12 (9/1981 - 9/1984), lực lượng An ninh nhân dân Việt Nam đã tổ chức đón, bắt 18 chuyến xâm nhập, 189 tên phản động lưu vong, thu giữ 143 tấn vũ khí, 90 tấn đạn dược, 1,2 tấn chất nổ, 14 tấn tiền giả; bắt, tiêu diệt hàng trăm tên gián điệp, biệt kích, thu nhiều phương tiện chiến tranh.

[14] Trần Vi Dân: “Tư duy mới về bảo vệ an ninh quốc gia”, Tạp chí Công an nhân dân, số tháng 7/2019.

[15] Xem Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ ba), ngày 31/10/2024, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Web: qdnd.vn, ngày 31/10/2024.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết