I. Nhận thức chung về hệ giá trị quốc gia trong tương quan với hệ giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội
1. Đặt vấn đề:
Hiện nay, trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn đang còn có những ý kiến khác nhau về giá trị, hệ giá trị con người, giá trị gia đình, văn hóa, xã hội, hệ giá trị quốc gia; đang có ý kiến là có sự “khủng hoảng”, “xuống cấp” về giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị xã hội; ngược lại có những ý kiến cho là không hẳn phải vậy; nếu thế thì lý giải thế nào về những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc cuộc đổi mới; các thành tựu đó đạt được phải dựa trên những động lực nào đó về giá trị con người, giá trị văn hóa, xã hội. Mặt khác, trong các Văn kiện của Đảng đều có nhận định: chưa phát huy đầy đủ và có hiệu quả cao các nguồn lực cho sự phát triển, điều này cũng thể hiện các giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội chưa được xây dựng và phát huy cao, đáp ứng với yêu cầu phát triển phát triển nhanh - bền vững đất nước. Một trong những nguyên do là đang có sự khác nhau về nhận thức, cách tiếp cận về khái niệm, bản chất, vai trò của giá trị, các hệ giá trị.
2. Cần nhận thức rõ, đúng một số khái niệm cơ bản sau:
i). Khái niệm giá trị: Hiện nay, do xuất phát từ những giác độ khác nhau, đang có nhận thức khác nhau về khái niệm giá trị (có những ý kiến cho giá trị là lợi ích mang lại cho con người, cho chủ thể nào đó; giá trị là cái tốt, cái đẹp; giá trị trao đổi trong kinh tế; giá trị sử dụng; giá trị vật chất; giá trị tinh thần; giá trị tự nhiên…). Giá trị có hai phương diện khách quan (giá trị nội tại), và chủ quan (giá trị nhìn nhận). Việc nhận ra ý nghĩa của vật thể, sự vật đối với cá nhân hay cộng đồng, trong đó có việc nhận ra giá trị của nó, quy định tính chủ quan của giá trị (mang tính chủ quan), trên nền tảng của giá trị khách quan; hai phương diện giá trị đó luôn có quan hệ gắn bó với nhau, tạo nên nhận thức tổng hợp về giá trị. Giá trị con người, giá trị cá nhân, giá trị đình, giá trị cộng đồng giá trị văn hóa, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc, giá trị nhân loại cũng được nhận thức trên nền tảng này.
Có những ý kiến cho rằng giá trị là đặc tính của sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu của con người… Đây là định nghĩa về giá trị theo phương diện chủ quan - tính lợi ích của con người; nhưng lợi ích của con người, của các gia đình, của các cộng đồng người, của các dân tộc rất khác nhau - do đó, dễ dẫn đến quan niệm về giá trị mang nhiều tính chủ quan, vì lợi ích của các chủ thể là rất khác nhau. Mặt khác, nhiều ý kiến cho rằng giá trị phải mang tính khách quan, vì đó là những đặc trưng bản chất của sự vật, hiện tượng, chủ thể, cần phải được nhìn nhận khác quan, không thể chỉ về phương diện lợi ích chủ quan, có lợi cho mình.
ii). Giá trị quan: Giá trị quan là cơ sở chủ yếu để nhận thức về giá trị của cá nhân con người, của gia đình, cộng đồng, đơn vị, xã hội, của Đảng và Nhà nước. Đó là những nguyên tắc, chuẩn mực, tiêu chuẩn chỉ dẫn cho nhận thức và hành động của con người, xã hội (theo tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, thiện - ác …). Giá trị quan có thể mang thuần cách tiếp cận theo lợi ích chủ quan; cũng có thể mang thuần theo cách tiếp cận bản chất khách quan; cũng có thể theo cách tiếp cận kết hợp hài hòa, biện chứng giữa khách quan và chủ quan. Mỗi cách tiếp cận này đưa ra các hệ giá trị khác nhau. Giá trị quan có đặc điểm của tính ổn định và tính lâu dài, tính lịch sử, trên cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội. Sự thay đổi giá trị quan phụ thuộc một cách quyết định bởi sự thay đổi của bối cảnh phát triển xã hội. Giá trị quan có tác dụng không chỉ về nhận thức, mà còn có tác dụng dẫn hướng về động cơ vả hành động. Giá trị quan quyết định nhận thức bản thân của con người, của xã hội, của một đảng cầm quyền, của một nhà nước; nó trực tiếp ảnh hưởng và quyết định lý tưởng, niềm tin, mục tiêu sống và hành động, phát triển của mọi chủ thể.
Ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, đang có nhận thức và cách tiếp cận khác nhau về giá trị quan. Trong từ điển Bách khoa triết học của Nga: Giá trị là thuật ngữ để chỉ ý nghĩa văn hóa - xã hội của hiện tượng. Là các “giá trị khách quan” với tính cách là “khách thể” của quan hệ giá trị. Nhưng, trong hoạt động thực tiễn của con người, các tiêu chuẩn thường được dùng làm thước đo để đánh giá (giá trị) lại chủ yếu theo các “giá trị chủ quan”. Do đó, có quan niệm cho là “giá trị khách quan” và “giá trị chủ quan” là hai cực của quan hệ giá trị của con người với thế giới. Điều này đặt ra vấn đề phải xem xét giá trị chủ quan phản ảnh đúng giá trị khách quan tới mức nào (?).
Mặt khác, lại có quan điểm cho rằng Giá trị là phẩm chất của khách thể được bộc lộ trong một hệ tọa độ “Chủ thể - Không gian - Thời gian”. Phẩm chất của khách thể được “khúc xạ” qua sự đánh giá của chủ thể (con người) xét trong quan hệ giữa chủ thể (CT) - khách thể (KT) và giữa các khách thể với nhau. Như vậy, giá trị, hệ giá trị được tạo thành bởi toàn bộ các giá trị của một khách thể được bộc lộ và nhìn nhận của chủ thể trong quan hệ tương tác với nhau.
Trong cách tiếp cận “đối lập”: coi giá trị là những đặc trưng tốt, có ích, có lợi, tích cực đối với chủ thể; còn những điều được cho là không tốt, không có ích, không có lợi, tiêu cực, tác dụng xấu, không được coi là giá trị, mà gọi là “phản giá trị”. Cách tiếp cận này thoáng qua có vẻ rất hợp lý, vì nó phù hợp với cách nhìn nhận của chủ thể về “lợi ích”. Tuy nhiên, xét cả về phương diện khoa học và phương diện phát triển lại có những vấn đề cần làm rõ. Trước hết, theo quan điểm phát triển, trong đó có quan điểm phát triển biện chứng của Mác, thì trong sự phát triển luôn luôn có sự thống nhất biện chứng - đấu tranh giữa hai mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng, chủ thể; không thể chỉ có mặt này mà không có mặt kia. Ngay trong một con người, một tổ chức, một công đồng…đều luôn chứa đựng hai mặt đối lập trong quá trình phát triển. Hơn nữa, “giá trị” hay “phản giá trị” bị phụ thuộc vào cách nhìn chủ quan của mỗi chủ thể; cùng một đặc trưng trong quan hệ này được coi là giá trị (tốt), thì trong quan hệ kia lại có thể coi là phản giá trị (xấu); Cùng một đặc trưng, trong giai đoạn phát triển này là tốt, tích cực, trong giai đoạn phát triển khác lại là tiêu cực…Vì thế, quan niệm giá trị chỉ là những đặc trưng “tốt”, “có ích” chưa phản ánh đúng, đẩy đủ bản chất của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
Có những quan niệm cho rằng giá trị chỉ bao hàm các giá trị phi vật chất (tinh thần), giá trị văn hóa, xã hội. Quan niệm này là đúng, song không đủ, bởi lẽ riêng các giá trị phi vật chất không phản ánh đầy đủ bản chất khách quan của sự vật, hiện tượng, chủ thể trong xã hội trong quá trình phát triển.
iii). Từ những cách nhìn nhận, quan niệm, tiếp cận khác nhau về giá trị, có thể rút ra một số vấn đề có tính nguyên tắc sau:
- Giá trị phải chứa đựng những đặc trưng mang tính bản chất khách quan của sự vật, hiện tượng, chủ thể (cả những mặt được cho là tốt và được cho là không tốt). Điều này mới cho phép nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, chủ thể ở những giác độ khác nhau; cho nên những đặc trưng tốt, hữu ích đối với sự phát triển nên gọi là “giá trị tích cực”; còn những đặc trưng được cho là không tốt, không có ích, nên được gọi là “giá trị tiêu cực” (không nên gọi là phản giá trị).
- Khi nhận thức giá trị chứa đựng những đặc trưng mang tính bản chất khách quan của sự vật, hiện tượng, chủ thể, thì cũng xuất hiện mối quan hệ “chủ quan” và “khách quan” trong việc nhìn nhận các giá trị đó. Về phương diện chủ thể của những giá trị đó, có thể “tự” nhìn nhận đúng về những giá trị đặc trưng của mình, nhưng cũng rất có thể nhìn nhận không đúng về những giá trị nào đó của mình (cái tốt thì có thể cho là không tốt, cái không tốt thì có thể lại cho là tốt). Đồng thời, về phương diện khách thể cũng có thể nhìn nhận đúng các giá trị khách quan của chủ thể, nhưng cũng có thể nhìn nhận không đúng về các giá trị của chủ thể. Điều này thường diễn ra khá phổ biến trong xã hội. Đề khắc phục các sai lệch trong việc đánh giá các giá trị cả từ phía chủ thể và khách thể, cần phải xây dựng các tiêu chí về giá trị rất khoa học và thực tiễn, phù hợp, được xã hội thừa nhận.
- Sự phát triển luôn luôn gắn liền với động lực phát triển, là kết quả của sự “đấu tranh”, chuyển hóa giữa các giá trị tích cực và giá trị tiêu cực. Tất cả các chủ thể trong xã hội, từ cá nhân mỗi con người, đến gia đình, cộng đồng, đơn vị, Đảng và Nhà nước và cả xã hội; một mặt, phải nhận thức rõ, đầy đủ các đặc trưng bản chất (cả tích cực và tiêu cực) của quá trình phát triển; mặt khác, phải hoàn thiện đồng bộ thể chế để phát huy, phát triển các giá trị tích cực, hạn chế, triệt tiêu, hóa giải các giá trị tiêu cực.
- Trong quá trình phát triển luôn có sự thay đổi, biến đổi các giá trị, xuất hiện các giá trị mới (cả tích cực và tiêu cực); do đó cần phải có sự thay đổi cách tiếp cận về giá trị phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới, tránh rơi vào bảo thủ, trì trệ, hoặc “cấp tiến cực đoan”, xa rời thực tiễn.
- Với quan niệm giá trị là những đặc trưng bản chất của sự vật, hiện tượng, chủ thể, thì các giá trị phải bao quát tổng hợp các giá trị đặc trưng về vật chất, phi vật chất và cả các giá trị tự nhiên - sinh thái.
- Trong thực tiễn, giá trị có thể được thể hiện qua (gắn với) giá trị sử dụng, tính hữu ích (như trong kinh tế); có thể được thể hiện qua sự tác động (như trong lĩnh vực tinh thần); hoặc được thể hiện qua (gắn với) cả giá trị sử dụng và tác động (như giá trị về sức mạnh quốc gia, thương hiệu quốc gia).
- Đằng sau các giá trị khách quan luôn có nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần làm cơ sở. Các giá trị “đưa ra” mang nhiều tính chủ quan, duy ý chí, không tưởng, không phù hợp với thực tiễn, sẽ không có đủ cơ sở vất chất và tinh thần để hiện thực hóa và phát triển bền vững.
- Cần nhận thức đầy đủ bản chất và đặc trưng khách quan của giá trị (cả tích cực và tiêu cực); để trên cơ sở đó xác định định hướng và giải pháp phát triển, phát huy các giá trị tích cực và hạn chế (loại bỏ) các tác động tiêu cực.
3. Nhận thức về bản chất của hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hội và hệ giá trị quốc gia - dân tộc
Hệ giá trị của các chủ thể (con người, gia đình, cộng đồng, đơn vị, các tổ chức xã hội, Đảng và Nhà nước…) đều bao hàm ba phương diện chủ yếu sau: i) - Giá trị quan (nhận thức và quan niệm về giá trị); ii) - Năng lực hiện thức hóa (thực thi) các giá trị đó trong cuộc sống; iii) - Năng lực đổi mới, sáng tạo, phát triển các giá trị đáp ứng với yêu cầu mới của sự phát triển. Theo quan niệm “giá trị là những đặc trưng bản chất của sự vật, hiện tượng, chủ thể”, thì giá trị của các chủ thể phải bao quát tổng hợp các giá trị đặc trưng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường.
Trong cấu trúc của xã hội, con người cùng với gia đình là tế bào cơ bản của xã hội. Vì vậy, giá trị quan của con người còn gọi là giá trị quan nhân sinh, là một loại giá trị quan đặc thù của mỗi cá nhân, bao hàm cả giá trị quan nghề nghiệp, lựa chọn mục đích đời người, xác định con đường phát triển; đồng thời còn hàm chứa cả giá trị quan về gia đình, về chính trị, xã hội, về quốc gia - dân tộc, về thế giới…Giá trị quan của con người là cơ sở quan trọng để hình thành giá trị quan về gia đình, công đồng, quốc gia - dân tộc. Mặt khác, giá trị quan của Đảng cầm quyền và Nhà nước lại có vai trò chi phối rất quan trọng đối với việc hình thành giá trị quan và các giá trị trong xã hội.
Về hệ giá trị con người: Con người là một chủ thể, với quan niệm “giá trị là những đặc trưng bản chất của chủ thể”, thì hệ giá trị con người cần phải bao hàm tổng hợp các giá trị sau: chủ thể phát triển năng động, sáng tạo; năng lực làm chủ về kinh tế; năng lực thực thi quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm xã hội; phẩm chất đạo đức; đời sống văn hóa - tinh thần, trách nhiệm và quan hệ gia đình - xã hội; tố chất thể lực…Như vậy, hệ giá trị con người không chỉ bao hàm các giá trị về đức tính, tính cách con người, mà trước hết là năng lực làm chủ và phát triển năng động, sáng tạo. Hệ giá trị con người trước hết là những đặc trưng bản chất của cá nhân những con người cụ thể; song cũng được khái quát thành hệ giá trị con người chung của một cộng đồng người, của một giai cấp, tầng lớp xã hội, của một dân tộc - tộc người, của một quốc gia - dân tộc, thậm chí giá trị chung của con người trên thế giới.
Về hệ giá trị gia đình: Đối với chủ thể gia đình, đây là một đơn vị xã hội - tế bào cơ bản ở cơ sở của xã hội, chứa đựng trong nó bốn tư cách: là đơn vị kinh tế tự chủ đặc thù, là đơn vị xã hội - huyết thống đặc thù; là đơn vị tiêu dùng đặc thù; là đơn vị giáo dục đặc thù. Vì vậy, hệ giá trị gia đình phải bao quát được những giá trị đặc trưng cơ bản đó của chủ thể gia đình, bao gồm: năng lực làm chủ về kinh tế; xây dựng gia đình hạnh phúc; giáo dục con cái; trách nhiệm cộng đồng…Hệ giá trị gia đình thể hiện giá trị đặc trưng của một gia đình cụ thể; song cũng có thể được khải quát thành hệ giá trị gia đình của một cộng đồng người, của một địa phương, của một dân tộc - tộc người, của một tầng lớp xã hội, của một quốc gia - dân tộc.
Về hệ giá trị văn hóa: Đây không phải là một chủ thể, mà là một lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Hệ giá trị văn hóa được xác định phụ thuộc vào quan niệm về văn hóa (nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các phương diện tinh thần, hay bao gồn cả các phương diện vật chất như quan niệm rộng của Hồ Chí Minh: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người[1]. Nếu quan niệm văn hóa theo nghĩa rộng, thì hệ giá trị văn hóa của một dân tộc cần phải bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần đặc trưng tiêu biểu do dân tộc sáng tạo ra. Còn nếu quan niệm theo nghĩa hẹp, thì hệ giá trị văn hóa bao gồm chủ yếu những giá trị hoạt động tinh thần của một xã hội, trong những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức (lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,..). Văn hoá theo nghĩa hẹp cũng bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể. Theo nghĩa hẹp này, Đảng ta nhấn mạnh phải “xây dựng nền văn hoá Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn hoá phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”.
Trong đường lối, chiến lược và chính sách phát triển văn hóa của các nước trên thế giới, cũng như trong các Văn kiện của Đảng ta cũng nêu rõ, phải đẩy mạnh phát triển phát triển công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa, thị trường văn hóa, kinh tế văn hóa…Điều đó cho thấy, nhấn mạnh các giá trị tinh thần của văn hóa là rất đúng, song cần phải nhận thức rõ và đặt đúng vai trò các giá trị kinh tế - xã hội của văn hóa. Do đó, cần phải nhận thức giá trị văn hóa theo nghĩa rộng. Hệ giá trị văn hóa có thể được tiếp cận theo giá độ cá nhân con người, theo giác độ gia đình, cộng đồng dân cư, tầng lớp xã hội, dân tộc - tộc người, và cao hơn là khái quát ở tầm quốc gia - dân tộc, ở tầm những giá trị văn hóa chung của nhân loại.
Vấn đề đặt ra là cần nhìn nhận rõ hơn về mối quan hệ giữa hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con người. Có quan niệm coi giá trị văn hóa và giá trị con người là một, nói đến hệ giá trị văn hóa cũng chính là hệ giá trị con người, “giá trị văn hóa Việt Nam về cơ bản trùng với hệ giá trị con người Việt Nam”; lại có những ý kiến cho rằng không nên đồng nhất hệ giá trị văn hóa với hệ giá trị con người vì đây là hai phạm trù khác nhau, tuy có quan hệ với nhau. Trên thực tế và trong bản chất thì con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, giá trị con người cũng là những giá trị cốt lõi của văn hóa; trọng tâm của xây dựng và phát triển văn hóa là phát triển con người. Tuy nhiên văn hóa với tính cách là sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người đã trở thành một lĩnh vực xã hội phát triển độc lập tương đối (ví dụ công nghiệp văn hóa…), có những chức năng xã hội khác hơn, bao quát hơn so với con người; mặt khác, con người là một chủ thể có những giá trị tổng hợp về nhiều mặt hơn, không chỉ về giá trị văn hóa. Vì vậy không nên đồng nhất hệ giá trị văn hóa với hệ giá trị con người, nhưng cũng không nên phân định máy móc, biệt lập, siêu hình. Về tổng thể, không nên đồng nhất hệ giá trị của một chủ thể với hệ giá trị của một lĩnh vực.
Về hệ giá trị xã hội: Hệ giá trị xã hội mang những đặc trưng cơ bản về phát triển xã hội con người. Mác đã khảng định “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Có người cho rằng giá trị xã hội là một cấu phần của giá trị văn hóa, điều này có ý đúng khi nói về văn hóa theo nghĩa rộng. Nhưng theo chức năng, giá trị xã hội thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội (cá nhân con người, gia đình, cộng đồng, các tổ chức trong xã hội, giai cấp, giai tầng trong xã hội, các đảng chính trị, nhà nước…) trong thể chế chính trị - xã hội cụ thể; nó thể hiện mối quan hệ về quyền, lợi ích, trách nhiệm, nghĩa vụ, trách nhiệm lẫn nhau giữa các chủ thể được pháp luật (hay các khế ước xã hội) quy định trong quá trình phát triển. Trong xã hội, mỗi chủ thể đều có những vai trò nhất định. Có nghĩa là các giá trị xã hội thể hiện các giá trị con người trong sự liên kết thành một xã hội có tổ chức, một chế độ chính trị - xã hội cụ thể, một nhà nước cụ thể, với những chế định quan phương (và phi quan phương) mà nỗi cá nhân, chủ thể riêng biệt phải tôn trọng và tuân theo. Trong xã hội, mỗi chủ thể có các giá trị xã hội đặc trưng riêng; đặc biệt là hai chủ thể “Đảng lãnh đạo - cầm quyền” và “Nhà nước pháp quyền”; các giá trị xã hội của Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng chi phối mang tính quyết định đến hệ giá trị xã hội chung của đất nước. Hệ giá trị xã hội của một quốc gia thường bao gồm các giá trị cơ bản sau: giá trị về xã hội pháp quyền; giá trị về tự do, dân chủ; giá trị về quyền con người, về quyền công dân; giá trị về công bằng và bình đẳng xã hội; giá trị về mưu cầu hạnh phúc; giá trị về phát triển sáng tạo…Các giá trị xã hội mang đặc trưng riêng của mỗi quốc gia; song cũng có những nội dung mang tính chung của nhân loại. Các giá trị xã hội luôn có sự vận động và phát triển; luôn có sự tương tác hữu cơ với các giá trị con người, giá trị gia đình và giá trị văn hóa.
Về hệ giá trị quốc gia - dân tộc: Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[2]. Tuy nhiên, hiện nay, nhận thức về nội hàm “Hệ giá trị quốc gia” chưa được làm rõ và có sự thống nhất cao. Hiện có những quan niệm khác nhau về cấu trúc của hệ giá trị quốc gia: i) - Quan niệm thứ nhất cho rằng hệ giá trị quốc gia chỉ bao gồm các giá trị (kể cả những giá trị truyền thống) hiện đang tồn tại trong thực tế; ii) - Quan niệm thức hai cho rằng hệ giá trị quốc gia chỉ bao gồm các giá trị mang tính lý tưởng, kỳ vọng, có ý nghĩa định hướng phát triển; iii) - Quan niệm thứ ba cho rằng hệ giá trị quốc gia cần phải bao gồm cả hai loại giá trị trong các quan niệm trên (bao gồm cả các giá trị hiện đang tồn tại và các giá trị mục tiêu, khát vọng hướng tới).
Trên thực tế, đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển, thì quan niệm thứ ba là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn. Vì đối với một quốc gia, để phát triển bền vững thì cần phải có những giá trị hiện đang tồn tại làm cơ sở kinh tế - chính trị - xã hội cho sự phát triển và điều tiết sự phát triển của đất nước; đồng thời, để hướng tới các mục tiêu phát triển mới, cao hơn, cần phải có các giá trị mang tính mục tiêu khát vọng hướng tới trong quá trình phát triển, để góp phần định hướng sự phát triển của đất nước, nhất là trong những bước phát triển có tính bước ngoặt, bứt phá trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hiện nay, ở nước ta, do chưa có nhận thức và cách tiếp cận thống nhất về hệ giá trị quốc gia - dân tộc, nên đang có những đề xuất khác nhau về nội hàm của về hệ giá trị quốc gia, như sau:
- Hệ giá trị quốc gia chính là mục tiêu phát triển nêu trong Cương lĩnh của Đảng và Hiếp pháp của Nhà nước, là: “Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh, Hạnh phúc”.
- Quan niệm đồng nhất hệ giá trị quốc gia với hệ giá trị con người và hệ giá trị văn hóa, do sự thống nhất nội tại của con người và văn hóa quy định.
- Quan niệm hệ giá trị quốc gia là sự “tích hợp” các giá trị đặc trưng nhất của cúa hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hôi.
Ba cách tiếp cận trên về nội hàm của hệ giá trị quốc gia đều có những hạt nhân hợp lý, song dường như chưa bao quát đầy đủ các giá trị đặc trưng bản chất của một đất nước - quốc gia trong quá trình phát triển. Hiện nay, các các quốc gia, các khu vực đều nghiên cứu, đề ra các hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị khu vực làm biểu tượng chung. Các hệ giá trị họ xây dựng đều dựa trên khát vọng, mong muốn chung của từng quốc gia, từng khu vực, phản ánh đặc trưng và bản sắc văn hóa riêng biệt[3]. Qua hệ giá trị quốc gia của các nước, có thể nhận xét như sau: đối với các nước phát triển thường đề cao các giá trị dân chủ, công bằng, bình đẳng, quyền con người, quyền công dân, tự do, sáng tạo…; đối với các nước Châu Á, các nước đang phát triển, tùy theo điệu kiện và mục tiêu phát triển của mình, bên cạnh các giá trị trên, thường nhấn mạnh các giá trị dân tộc, pháp quyền, trách nhiệm xã hội, đoàn kết, gia đình, cộng đồng…
Ở nước ta, cho đến nay, Đảng và Nhà nước chưa xác định chính thức hệ giá trị quốc gia. Nhưng trong các Nghị quyết của Đảng về phát triển văn hóa đã nêu lên những giá trị về phát triển con người và văn hóa; như trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa VIII (năm 1998), đã nêu về các giá trị đặc trưng của con người Việt Nam là: i)- Yêu nước, ý chí tự cường dân tộc; ii)- Tinh thần đoàn kết; iii)- Ý thức cộng đồng (cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc); iv)- Nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, trọng đạo lý; v)- Cần cù, sáng tạo; vi)- Tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) đã khái quát các giá trị con người Việt Nam là: i)- Yêu nước; ii)- Nhân ái, nghĩa tình; iii)- Trung thực; iv)- Đoàn kết; v)- Cần cù, sáng tạo. Tạo mọi điều kiện để “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”.
Còn về các giá trị văn hóa, trong các nghị quyết Trung ương nêu lên quan điểm, mục tiêu xây dựng nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”, hướng đến “chân - thiện - mỹ”; “văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”.
Một số người coi đó cũng là hệ giá trị quốc gia - dân tộc Việt Nam. Điều này có mặt đúng, nhưng không đầy đủ. Đây chưa thể coi là hệ giá trị quốc gia - dân tộc Việt Nam. Bởi vì, với tính cách là những giá trị bản chất đặc trưng cao nhất của một quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển, hệ giá trị quốc gia không thể chỉ bao quát các giá trị tư tưởng, văn hóa, tinh thần, các hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hội, mà cần phải bao trùm cả các giá trị phát triển nền tảng vật chất (kinh tế), chi phối mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của đời sống xã hội của đất nước. Việt Nam còn là nước đang phát triển, hiện vẫn đang là nước có thu nhập trung bình (thấp); để trở thành nước phát triển hiện đại vào năm 2045, hệ giá giá trị quốc gia phải là hệ giá trị phát triển, thể hiện được mục tiêu, động lực của sự phát triển. Do đó Hệ giá trị quốc gia phải thể hiện được các giá trị cốt lõi, mục tiêu cơ bản nhất của đất nước trong quá trình phát triển, về thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, thể chế xã hội, về quyền con người, quyền công dân, về thể chế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Với cách tiếp cận này, hệ giá trị quốc gia Việt Nam trong giai đoan phát triển mới, cần phải bao hàm đồng bộ các loại giá trị sau: Giá trị hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc; giá trị dân chủ - pháp quyền xã hội chủ nghĩa; giá trị thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hiệu quả; giá trị con người Việt Nam truyền thống - năng động - sáng tạo, phát triển vì con người (con người là trung tâm - chủ thể - mực tiêu của sự phát triển); giá trị văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; giá trị xã hội “Đại đoàn kết dân tộc”, công bằng, bình đẳng; giá trị phát triển nhanh - bền vững; giá trị hội nhập quốc tế với các giá trị chung của nhân loại. Trên cơ sở cách tiếp cận này, sẽ nghiên cứu, xác định các giá trị cụ thể. Cách tiếp cận về xây dựng nội hàm hệ giá trị quốc gia - dân tộc Việt Nam như trên phủ hợp với tư tưởng của Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn Độc Lập - Tự Do”, “Con người là vốn quý nhất trên đời”, “Xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc”, “bước lên đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu”. Hệ giá trị của một quốc gia không chỉ mang tính biểu tượng các giá trị lý tưởng, mà còn phải mang các giá trị có tính hành động, hiện thực, sức mạnh thực tế[4]. Nều hệ giá trị chỉ mang tính biểu tượng, không mang tính định hướng - điều tiết hành động, thì sẽ có rất ít giá trị thực tiễn và không tạo được động lực cho sự phát triển.
II. Nhận thức về mối quan hệ giữa hệ giá trị quốc gia, dân tộc với hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội, hệ giá trị phát triển đất nước
1. Bản chất của mối quan hệ giữa hệ giá trị quốc gia - dân tộc và các hệ giá trị thành phần khác
Đại hội XIII nhấn mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa “hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người” với “hệ giá trị gia đình Việt Nam”. Hiện nay, có nhận thức cho rằng mối quan hệ đó được thể hiện ở xác định hệ giá trị quốc gia Việt Nam là hệ giá trị tổng quát, bao trùm, chi phối mọi lĩnh vực, mọi hoạt động khác nhau của đời sống xã hội, của quốc gia. Trong đó, hệ giá trị văn hóa bao quát các giá trị liên quan đến phát triển văn hóa dân tộc theo định hướng “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Còn hệ giá trị con người “là cụ thể hóa các giá trị quốc gia và giá trị văn hóa để làm thước đo, khuôn mẫu cho mỗi người dân Việt Nam phấn đấu và thực hành”. Hệ giá trị gia đình “bảo đảm cho hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị quốc gia được phát triển vững chắc và là môi trường thuận lợi để con người thực hành các chuẩn mực văn hóa”[5].
Đồng thời, lại có những ý kiến cho rằng hệ giá trị quốc gia và các hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, với hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị xã hội mang cùng một bản chất, chỉ là xét theo các giác độ tiếp cận khác nhau, chủ thể khác nhau; lại có những ý kiến cho rằng các hệ giá trị này thuộc những phạp trù khác nhau (tuy có liên quan đến nhau). Hơn nữa, như đã trình bày ở trên, nếu chỉ xem xét hệ giá trị quốc gia trong quan hệ với hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hóa, thì mới chủ yếu xem xét hệ giá trị quốc gia về phương diện văn hóa, tinh thần, đạo đức, xã hội, coi đó là nền tảng tinh thần của xã hội, thì chưa đủ; mà hệ giá trị quốc gia phải bao quát các giá trị phát triển cốt lõi của dân tộc. Mặt khác, nếu chỉ xem xét quan hệ giữa hệ giá trị quốc gia với các hệ giá trị thành phần như là các hệ giá trị “độc lập tương đối” tác động qua lại với nhau, cũng không đầy đủ và biện chứng, chưa phản ảnh đúng bản chất của quá trình phát triển. Cần nhìn rõ mối quan hệ bản chất bên trong của các hệ giá trị.
Ở đây, cần nhìn nhận rõ cội rễ sâu xa của quá trình hình thành và phát triển các giá trị con người - giá trị văn hóa - giá trị xã hội là lao động xã hội - nền sản xuất xã hội - đời sống xã hội hiện thực của dân tộc - đất nước. Chính nền sản xuất xã hội với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, dân tộc, môi trường… cụ thể, trình độ phát triển cụ thể, là cơ sở nền tảng để hình thành và phát triển các nền tảng kinh tế; đồng thời với đó, trên đó và gắn liền với đó là sự hình thành và phát triển các giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội và giá trị quốc gia tương ứng. Các giá trị con người - giá trị gia đình - giá trị văn hóa - giá trị xã hội được hình thành một cách khách quan, phụ thuộc một cách quyết định vào điều kiện xã hội hiện thực với lao động xã hội - nền sản xuất xã hội - đời sống xã hội hiện thực, không phải hình thành từ mong muốn chủ quan, duy ý chí, dù là tốt đẹp, nhưng thoát ly đời sống hiện thực.
Khi xác định con người là trung tâm - chủ thể - mục tiêu của quá trình phát triển xã hội, thì cách tiếp cận phù hợp về mối quan hệ giữa hệ giá trị quốc gia - dân tộc với hệ giá trị con người, giá trị gia đình, gái trị văn hóa, giá trị xã hội là coi con người là chủ thể trung tâm của phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Từ bản chất và đặc trưng của giá trị con người mà hình thành giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội, giá trị quốc gia -dân tộc (giá trị văn hóa được xét ở đây theo nghĩa rộng như quan niệm của Hồ Chí Minh, chứ không theo nghĩa hẹp thuộc lĩnh vực tinh thần). Và giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc cũng là những phương diện biểu hiện (thể hiện, chứa đựng) giá trị con người ở những lát cắt khác, bình diện khác, cấp độ khái quát khác nhau mà thôi. Trên thế giới, ở tất cả các nước, chính giá trị con người (và giá trị công dân) là nền tảng gốc rễ cơ bản đề hình thành giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội và giá trị quốc gia - dân tộc. Nhưng điều này không có nghĩa là giá trị gia đình, giá trị văn hóa và giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc được quy định đơn nhất và một chiều từ hệ giá trị con người. Khi nói đến hệ giá trị con người thường nói đến những giá trị mang bản chất con người - bản chất công dân (quyền con người - quyền công dân) của một xã hội cụ thể; khi nói đến giá trị gia đình thường nói đến các giá trị truyền thống - huyết thống - dòng họ. Còn khi nói đến hệ giá trị văn hóa thường nói đến các giá trị mà con người sáng tạo ra (cả về đời sống vật chất và tinh thần) trong nền sản xuất xã hội - đời sống xã hội, đương nhiên các giá trị văn hóa cũng phản ánh các bản chất cơ bản của giá trị con người về phương diện văn hóa trong tất cả các lĩnh vực của xã hội. Còn các giá trị xã hội lại thể hiện các giá trị con người trong sự liên kết thành một xã hội có tổ chức, một chế độ chính trị - xã hội cụ thể, một nhà nước cụ thể, với những chế định quan phương (và phi quan phương) mà mỗi cá nhân, chủ thể riêng biệt phải tôn trọng và tuân theo. Như vậy, chính hệ giá trị con người là hạt nhân cốt lõi của hệ giá trị gia đình, của hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hội, và hệ giá trị quốc gia - dân tộc. Nhưng khi hệ giá trị quốc gia - dân tộc, hệ giá trị văn hóa và đặc biệt là hệ giá trị xã hội, hệ giá trị gia đình được định hình, sẽ có một vai trò chi phối quan trọng (có thể mang tính quyết định) đối với sự thay đổi và phát triển hệ giá trị con người. Nói một cách hình ảnh, có thể mô tả mối quan hệ giữa hệ hệ giá trị con người với hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hội và hệ giá trị quốc gia - dân tộc như 5 vòng tròn đồng tâm, mà vòng trong cùng là hệ giá trị con người, tiếp theo vòng thứ hai là hệ giá trị gia đình, vòng thứ ba hệ giá trị văn hóa, vòng thứ tư là hệ giá trị xã hội, còn vòng thứ năm (ngoài cùng) là hệ giá trị quốc gia - dân tộc. Càng xa vòng trung tâm (hệ giá trị con người), tính khái quát càng cao hơn. Trong thực tiễn (cũng như mô tả trên mô hình) giữa nền tảng sản xuất xã hội - đời sống xã hội và các hệ giá trị, cũng như giữa các hệ giá trị luôn có sự tương tác - chế định hai chiều với nhau. Sẽ là siêu hình và không đúng bản chất khi nhìn nhận tách biệt máy móc giữa các hệ giá trị này trong sự phát triển của xã hội.
Cần thấy rõ, hệ giá trị gia đình có một vị trí đặc biệt, vì nó lưu giữ, nuôi dưỡng, phát triển các giá trị truyền thống - huyết thống - dòng họ, kết nối và góp phần phát triển với các giá trị cộng đồng, giá trị xã hội và giá trị quốc gia - dân tộc. Cũng phải nhận rõ mối quan hệ đặc biệt giữa hệ giá trị con người và hệ giá trị xã hội. Hai hệ giá trị này không là một, song có quan hệ chặt chẽ với nhau, giao thoa với nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Những giá trị cốt lõi trong hệ giá trị xã hội cũng bao hàm những đặc trưng bản chất của con người, và ngược lại trong hệ giá trị con người cũng bao hàm những giá trị đặc trưng của giá trị xã hội. Nhưng, hệ giá trị xã hội không đơn thuần là khái quát tổng hợp các giá trị con người.
Hệ giá trị quốc gia - dân tộc là sự “kết tinh”, “tích hợp” (không phải là phép cộng) các giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội thành các giá trị phát triển đặc trưng của một nước trong những giai đoạn nhất định. Không có giá trị quốc gia - dân tộc nào nằm ngoài các giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị chính tri - xã hội của quốc gia - dân tộc đó. Mặt khác, hệ giá trị quốc gia - dân tộc không thể không chứa đựng những giá trị tốt đẹp chung của nhân loại (ở những mức độ khác nhau, hình thức khác nhau). Nhưng, giá trị quốc gia - dân tộc sẽ là định hướng chủ đạo, điều tiết sự phát triển của các giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị chính tri - xã hội của quốc gia - dân tộc.
Như vây, trong mối quan hệ biện chứng mang tính bản chất đó, trên thực tế, ở tầm quốc gia (dân tộc) sẽ là các giá trị tổng hợp chứa đựng cả giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội đặc trưng của một quốc gia (dân tộc) trong một giai đoạn phát triển nào đó. Đối với nước ta hiện nay, có thể gọi đó là hệ giá trị Việt Nam đặc trưng của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hóa - phát triển nhanh và bền vững.
2. Hình thức thể hiện tổng hợp của hệ giá trị quốc gia - dân tộc và các hệ giá trị thành phần
Hệ giá trị quốc gia - dân tộc, các giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội thường được khái quát dưới dạng khái niệm cơ bản, cô đọng (ví dụ như giá trị yêu nước…), nhưng trong đời sống hiện thực các giá trị thường được hiện thực hóa dưới các phạm trù khác nhau. Có thể nêu lên khái quát các phạm trù chủ yếu sau:
- Phạm trù pháp lý (pháp luật hóa, ví dụ như các quyền con người, quyền công dân được chế định trong Hiến Pháp 2013 của nước ta, trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong Hiến pháp của các nước…);
- Phạm trù thiết chế (được thiết chế hóa bằng các thiết chế xã hội);
- Phạm trù lợi ích (lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần…);
- Phạm trù đạo đức (đạo đức hóa);
- Phạm trù phong tục - tập quán (phong tục - tập quán hóa);
- Phạm trù tâm linh (tâm linh hóa)…
Trong mỗi phạm trù cụ thể đó, các giá trị lại được cụ thể hóa thành các tiêu chí, tiêu chuẩn, chuẩn mực khác nhau để điều tiết họat động của con người và mọi chủ thể, tổ chức trong xã hội. Các phạm trù trên thường có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng không phải khi nào cũng thống nhất với nhau khi biểu hiện bản chất của một giá trị cụ thể nào đó. Chẳng hạn, tính cộng đồng “lá lành đùm lá rách” là một giá trị tốt đẹp, nhưng khi thể hiện thành sự “tốt bụng”, xuê xoa, bỏ qua, bao che cho những hành vi sai, làm việc không hiệu quả trong một cộng đồng thì nó không còn mang giá trị tích cực nữa.
Trong các phạm trù hiện thực hóa các giá trị nêu trên, có ba phạm trù giá trị cơ bản nhất, đó là: giá trị lợi ích, giá trị pháp lý và giá trị đạo đức. Giá trị lợi ích (vật chất và tinh thần) đóng vai trò động lực trung tâm của sự phát triển của con người, mọi chủ thể trong xã hội và cả quốc gia. Giá trị đạo đức đóng vai trò điều tiết hành vi của con người, cộng đồng và xã hội theo những chuẩn mực đạo đức chung của xã hội, của mỗi chủ thể trong xã hội. Gía trị pháp lý đóng vai trò điều chỉnh cả giá trị đạo đức, giá trị lợi ích và các giá trị khác theo chuẩn mực pháp lý, là “ranh giới” pháp lý để tạo sự đồng thuận trong xã hội khi thực hiện tất cả các giá trị khác trong cuộc sống. Giá trị pháp lý thể hiện rõ giá trị nào được phép tồn tại, được khuyến khích phát triển, giá trị nào không được phép tồn tại, không được khuyến khích phát triển; thể hiện rõ phạm vi và mức độ (giới hạn) tồn tại và phát triển của các giá trị trong xã hội. Giá trị pháp lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo khung pháp lý để thúc đẩy hình thành các giá trị mới, như giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong quá trình phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cần thấy rằng, cả giá trị lợi ích, giá trị đạo đức, giá trị pháp lý (và các giá trị khác) đều sẽ có sự thay đổi trong quá trình phát triển. Ở những nước có sự thay đổi thể chế phát triển mang tính bước ngoặt, có sự phát triển rút ngắn, thì giá trị pháp lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển các giá trị mới (vốn đang hình thành, thậm chí chưa có) đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển nhanh và bền vững, đồng thời hạn chế sự lan tỏa, tác động, phát triển của những giá trị tiêu cực hiện tồn. Điều này có vẻ như “ngược” với quy luật thông thường, là trong điều kiện phát triển bình thường và tuần tự thì các giá trị đạo đức, giá trị phong tục tập quán được hình thành trước, rồi đến giá trị chung của xã hội, khi đó mới được “hợp thức” bằng các giá trị pháp lý. Còn trong điều kiện phát triển rút ngắn, đột biến thì trong không ít trường hợp, vai trò của giá trị pháp lý lại có yêu cầu vượt trước (ví dụ để đẩy nhanh việc hình thành các giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương thức rút ngắn). Điều này đặt ra vai trò đặc biệt, mang tính quyết định của đảng cầm quyền và nhà nước trong việc nhận thức và tuyên ngôn về những giá trị phát triển, chế định khung pháp lý để thúc đẩy hình thành và phát triển các giá trị mới tạo động lực cho sự phát triển (phù hợp và đáp ứng với yêu cầu phát triển tới mức nào). Điều này được thể hiện rất rõ trong vai trò của Nhà nước kiến tạo phát triển ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan…đã chế định các khung pháp lý mạnh để tạo cơ sở hình thành các giá trị mới đáp ứng với yêu cầu phát triển nhanh của đất nước trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phù hợp với lối sống của xã hội công nghiệp hóa[6].
3. Xây dựng cấu trúc của hệ giá trị quốc gia - dân tộc, hệ giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội
Xét một cách tổng quát, trong mỗi giai đoạn phát triển, hệ giá trị quốc gia - dân tộc, hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội được cấu trúc bởi ba cấu phần chủ yếu: những giá trị truyền thống được lưu giữ lại từ quá khứ; những giá trị hiện tại do điều kiện khách quan quy định; và những giá trị định hướng cho sự phát triển trong giai đoạn mới (mà hiện thời chưa đóng vai trò chủ đạo chi phối sự phát triển). Ở đây cần lưu ý rằng cả ba cấu phần giá trị đó, theo quan điểm phát triển, đều có thể chứa đựng những tác động tích cực hoặc những tác động tiêu cực (tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể), điều chỉnh hành vi của con người và tất cả các chủ thể trong xã hội. Các giá trị đó đều có chức năng chung là tác động tới sự phát triển của xã hội; tuy nhiên, mỗi cấu phần giá trị đó lại có những định hướng vận động khác nhau. Trong các giá trị truyền thống, những giá trị tích cực là những giá trị còn mang lại động lực phát triển, mang lại lợi ích (vật chất và tinh thần) cho đa số các chủ thể trong xã hội. Các giá trị này có thể và cần phải thay đổi nội dung và hình thức thể hiện cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện hiện tồn (ví dụ như giá trị tính cộng đồng làng xã). Còn có những giá trị truyền thống tiêu cực tồn tại như những “tàn dư” trong nhận thức, quan niệm, lối sống, dù có thể đã mất đi cơ sở kinh tế, xã hội khách quan để tồn tại. Các giá trị hiện tại là những giá trị hình thành chủ yếu do điều kiện khách quan hiện tại quy định, đóng vai trò chủ đạo chi phối sự phát triển thực tại của xã hội; các giá trị này cũng có thể có những giá trị tích cực, cũng có thể có những giá trị tiêu cực, phản ánh thực tế khách quan bản chất đa dạng của sự phát triển hiện tại. Những giá trị định hướng cho sự phát triển trong giai đoạn mới là những giá trị mới hình thành nhằm đáp ứng với những đòi hỏi (điều kiện) phát triển của giai đoạn mới, mà hiện thời chưa đóng vai trò chủ đạo định hướng sự phát triển. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng những giá trị mới được hình thành không phải tất cả đều là những giá trị tích cực, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, có không ít các giá trị được coi là tích cực đối với nước khác, nhưng khi “du nhập” vào Việt Nam lại mang tác động tiêu cực. Sự phân định ba loại này chỉ mang tính tương đối, vì bản thân các giá trị có sự vận động, phát triển, chuyển hóa lẫn nhau do các điều kiện khách quan cũng như nhân tố chủ quan tác động, và sự phát triển của xã hội như thế nào là sự tác động tổng hợp của cả ba loại gí trị đó.
Có một vấn đề mang tính quy luật trong quá trình hình thành, biến đổi và phát triển hệ giá trị quốc gia - dân tộc - hệ giá trị con người - giá trị gia đình - giá trị văn hóa - giá trị xã hội, là khi đã được hình thành các giá trị đó tồn tại độc lập tương đối với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện tồn. Và sự vận động, thay đổi của các giá trị này trong các điều kiện bình thường thường có “độ trễ” nhất định so với sự thay đổi điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện thay đổi đột biến, mang tính bước ngoặt về thể chế phát triển, và trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, sẽ xuất hiện (hoặc yêu cầu phải có) các giá trị mới “vượt trước” so với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội hiện tại của một quốc gia. Các giá trị này có thể tác động tích cực đối với sự phát triển, cũng có thể có tác động tiêu cực. Sự đấu tranh, xung đột, chuyển hóa về giá trị tất yếu nảy sinh giữa các giá trị truyền thống, các giá trị hiện tại và các giá trị mới, giữa các giá trị quốc gia - dân tộc với các giá trị quốc tế, ngoại lai không phù hợp. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình đổi mới của nước ta. Xét về phương diện phát triển giá trị, quá trình đổi mới chứa đựng trong đó quá trình đổi mới những giá trị phát triển cơ bản: chuyển từ hệ thống chuyên chính vô sản sang xây dựng hệ thống chính trị; chuyển từ nhà nước chuyên chính vô sản sang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; chuyển từ thể chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, với nền tảng sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể chiếm tuyệt đối, kỳ thị với kinh tế thị trường, sang xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, với đa thành phần, đa sở hữu, hội nhập quốc tế; chuyển từ xây dựng con người làm chủ tập thể sang đề cao quyền con người, quyền công dân; chuyển từ xây dựng xã hội làm chủ tập thể sang xây dựng xã hội pháp quyền - xã hội công dân, dân chủ…Đây cũng chính là vấn đề đang đặt ra đối với Việt Nam hiện nay khi phải chuyển mạnh từ thể chế phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải chủ động xây dựng và phát triển hệ giá trị quốc gia, các giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội, nhất là các giá trị mới, đáp ứng với đòi hỏi của thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước, đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái, đáp ứng với đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Các giá trị “chiến thắng” và phát triển sẽ là các giá trị có cơ sở kinh tế - xã hội làm nền tảng, có cơ sở pháp lý để vận động, phát triển và có cơ sở đạo đức để tồn tại. Để tạo được tầm nhìn và hợp lực phát triển mạnh mẽ, hệ giá trị quốc gia phải quy tụ được và làm cho mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, mỗi đơn vị, mỗi chủ thể trong xã hội nhìn thấy ở trong đó quyền, lợi ích, trách nhiệm, khát vọng, tương lai, hạnh phúc của mình gắn liền với sự phát triển của quốc gia - dân tộc.
PGS.TS Trần Quốc Toản
Nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ
Nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Tài liệu tham khảo
1.. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Ðảng, H. 2016.
3. Đảng Cộng sản Viêt Nam: Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
5. Phạm Duy Đức: Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; hdll.vn, thứ hai, 14 Tháng 6 2021.
6. Lương Đình Hải: Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; Tạp chí Nghiên cứu Con người (2015), số 1 (76).
7. Hồ Sỹ Quý: Mấy vấn đề về hệ giá trị Việt Nam; Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 1(5), 5.2015.
8. Trần Quốc Toản: Đổi mới tư duy phát triển - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn; NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2021.
[1] Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.3, tr. 458.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.143.
[3] Xem Phạm Duy Đức, Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; LLCT, Thứ hai, 14 Tháng 6 2021: Hệ giá trị phương Tây được xác định 7 giá trị cốt lõi: 1) Công bằng và chính nghĩa (justice); 2) Quyền/quyền lợi (rights); 3) Bình đẳng (equality); 4) Tự do (Liberty/freedom); 5) Khoan dung (tolerantion); 6) Tự trị/tự lập (autonomy); 7) Dân chủ (democracy);
Ở Mỹ, hệ giá trị cốt lõi được Robin Williams (1970) và một số người khác đưa ra đưa ra gồm: Bình đẳng về cơ hội, thành tựu và thành công, tiện lợi về vật chất, cá nhân, dân chủ - tự do và sáng kiến, thực dụng và hiệu quả, tiến bộ và thay đổi, khoa học và công nghệ, cạnh tranh và năng động…
Năm 2012, Ủy ban châu Âu đưa ra 5 giá trị được người dân châu Âu đề cao là: 1) Hòa bình; 2) Dân chủ; 3) Nhân quyền; 4) Tuân thủ pháp luật; 5) Tinh thần đoàn kết(4);
Ở châu Á, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra các giá trị châu Á nổi bật là: 1) Đề cao đức tính cần cù, yêu lao động; 2) Đề cao giá trị hiếu học; 3) Đề cao giá trị gia đình, huyết tộc; 4) Đề cao giá trị cộng đồng, trách nhiệm xã hội.
Hệ giá trị truyền thống Nhật Bản gồm 8 giá trị: 1) Đoàn kết; 2) Kỷ luật; 3) Nhẫn nại; 4) Trung thành; 5) Trách nhiệm; 6) Lịch sự; 7) Tự chủ; 8) Tránh làm phiền người khác. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Nhật Bản xác định 5 giá trị cốt lõi để hội nhập quốc tế: 1) Cộng sinh, cộng tồn; 2) Biết điều chỉnh bản thân; 3) Tư duy độc lập; 4) Biết sáng tạo cái mới; 5) Tôn trọng sự khác biệt.
Malaysia xác định 5 nguyên tắc quốc gia gồm: 1) Tin vào Thượng đế; 2) Trung thành với nhà vua và đất nước; 3) Tuân thủ hiến pháp; 4) Cai trị bằng pháp luật; 5) Hành vi tốt, đạo đức tốt.
Singapore đã xây dựng hệ giá trị quốc gia hay được gọi là “các giá trị chung Singapore” được Quốc hội thông qua vào năm 1991, gồm 5 giá trị: 1) Dân tộc trước cộng đồng, xã hội trên cá nhân; 2) Gia đình là đơn vị cơ bản nhất của xã hội; 3) Hỗ trợ cộng đồng và tôn trọng cá nhân; 4) Đồng thuận, không xung đột; 5) Hòa hợp chủng tộc và tôn giáo.
Xem Sắc lệnh về bảo tồn và củng cố các giá trị truyền thống Nga, được Tổng thống Nga Vladimir Putin ban hành ngày 9-11-2022, có các giá trị nguyên tắc gồm: nhân phẩm, nhân quyền và tự do, lòng yêu nước, lý tưởng đạo đức cao đẹp, đề cao các giá trị gia đình, ưu tiên tinh thần hơn vật chất, lòng nhân từ, công lý, hỗ trợ và tôn trọng lẫn nhau, chung ký ức lịch sử và đoàn kết dân tộc. .
[4] Nhãn “sản xuất tại Nhật Bản” (Made in Japan) gắn trên các hàng hóa của Nhật bản, không còn chỉ nói về nơi xuất xứ hàng hóa, mà đã trở thành một giá trị quốc gia của Nhật bản, trong đó chứa đựng giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội, sức mạnh kinh tế, khoa học - công nghệ, đạo đực kinh doanh, trách nhiệm xã hội, giá trị nhà nước của Nhật Bản trước dân tộc mình và quốc tế.
[5] Cao Thị Quỳnh, Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII; SUSTA.VN - Diễn đàn tri thức; Thứ 4, ngày 26/10/20.
[6] Ví dụ như Singapore, đi lên từ thực trạng còn kém phát triển, để tạo lập được các giá trị mang tính dẫn dắt, nêu gương của đội ngũ công chức nhà nước, ông Lý Quang Diệu đã chế định đồng bộ các giải pháp về lợi ích (trả lương cao hơn mức trung bình của các doanh nhân), giải pháp tôn vinh về đạo đức, giải pháp pháp lý về kiểm soát, trừng phạt những người vi phạm, để đạt được giá trị của công chức “không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không muốn tham nhũng”. Hay như để xây dựng các giá trị xã hội văn minh, đã chế định đánh bằng roi đối với những người nhổ bậy kẹo cao su ra đường và nơi công cộng…