Bác Hồ thăm một lớp bình dân học vụ. Ảnh tư liệu
1. Nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh, cốt yếu, là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác, là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm nhiều quốc gia cho thấy chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào việc đầu tư phát triển nền giáo dục hiện đại, thể hiện trong chiến lược phát triển một xã hội học tập mà về bản chất đó là nền giáo dục mở, tạo ra sự bình đẳng về tiếp cận giáo dục cho mọi người, ai cũng có thể học hành cũng như tạo cơ hội để phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người[1]. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta là đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh rõ hơn mục tiêu “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” trong giai đoạn mới là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”; “Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho các lĩnh vực then chốt”; “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; “Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời”; “Đổi mới sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”.
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng về “chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập” và tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013) “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nhấn mạnh mục tiêu: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”; “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”; “coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân”[2]; “Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.”…
2. Sau 05 năm tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, sự nghiệp giáo dục nước ta đã đạt được một số kết quả quan trọng, giáo dục mầm non đã đạt chuẩn phổ cập cho trẻ em 5 tuổi; chất lượng giáo dục phổ thông có chuyển biến tốt cả về đại trà và mũi nhọn, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở được duy trì vững chắc; công tác khuyến học, khuyến tài thực hiện tốt, mạng lưới Hội khuyến học đã được thành lập từ Trung ương và đến hầu hết các đơn vị cấp xã trong cả nước; việc phát triển các tổ chức Hội và hội viên ở cộng đồng dân cư và các đơn vị hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp, xứ đạo, nhà chùa đang tăng nhanh; phong trào xây dựng các mô hình học tập cộng đồng phát triển mạnh, tác động tích cực đến việc xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người được học tập suốt đời; cán bộ công chức, viên chức được đào tạo, bồi dưỡng, nâng dần tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công việc theo vị trí việc làm; giáo dục nghề nghiệp từng bước chuyển từ hướng “cung” sang hướng “cầu”, gắn với nhu cầu của doanh nghiệp,...góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Bên cạnh đó, trong những năm qua, thực hiện “Đột phá chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực” sự nghiệp “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” của nước ta đã đạt được một số kết quả quan trọng: Nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo chuyển dần từ việc cung cấp kiến thức, kỹ năng sang phát triển năng lực, phẩm chất của người học. Quy mô nguồn nhân lực tăng lên trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực tại chỗ thông qua các mô hình học tập theo các tiêu chí cụ thể của “Công dân học tập” có nhiều chuyển biến tích cực. Giáo dục đại học đã bước đầu gắn kết với giáo dục thường xuyên, cung cấp các chương trình đào tạo có chất lượng cao, góp phần xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời, xây dựng các công dân học tập từ chính đội ngũ giảng viên, sinh viên và hình thành những đơn vị học tập. Quá trình xây dựng và phát triển xã hội học tập đã tạo cơ hội, tạo điều kiện cho người dân được học tập để nâng cao kiến thức, rèn luyện, phát triển kỹ năng thường xuyên, liên tục và suốt đời.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục ở các bậc học chưa cải thiện đáng kể; năng lực hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế; công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, gây bức xúc, lo lắng trong nhân dân. Việc thực hiện “Đột phá chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực” vẫn còn không ít những hạn chế về nhận thức và tổ chức thực hiện: Đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt. Đào tạo nhân lực chưa đóng vai trò chủ đạo trong phát triển nhân tố con người. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho các nhóm đối tượng về kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu công việc, có khả năng thích ứng trong điều kiện nền kinh tế số, đổi mới công nghệ chưa tạo được bước đổi mới có tính đột phá. Trình độ nhân lực còn rất thấp, đa số không được đào tạo, không có trình độ chuyên môn - kỹ thuật, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ mới đạt dưới 30%[3]. Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới[4]. Việc học tập thường xuyên, học tập suốt đời và ý thức tự học của mỗi cá nhân - “Công dân học tập” ở mỗi cơ quan, đơn vị từ trong Đảng đến toàn bộ hệ thống chính trị và các lực lượng xã hội chưa thật sự tạo ra phong trào có tác dụng lan tỏa, thúc đẩy xã hội học tập.
Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, phát huy kết quả đạt được, khắc phục cơ bản những hạn chế, yếu kém, Ban Bí thư khóa XII ban hành Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019, Kết luận số 51-KL/TW ngày 30/5/2019, yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ: “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở; tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở; xây dựng xã hội học tập”; “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; trau dồi lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống tốt đẹp, giáo dục tình yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tích cực, lành mạnh, trách nhiệm và làm việc hiệu quả trong học sinh, sinh viên”; “Tuyên truyền, vận động và tổ chức tốt việc học tập suốt đời cho người lớn, phấn đấu mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và gia đình cán bộ, đảng viên trở thành đơn vị học tập, công dân học tập và gia đình học tập. Chú trọng bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động phù hợp với từng lĩnh vực, ngành, nghề và vùng, miền”; “Mỗi tổ chức cần có biện pháp phù hợp thúc đẩy việc học suốt đời của các thành viên trong tổ chức” với chủ trương triển khai xây dựng mô hình “Công dân học tập” ở Việt Nam phải là thành viên của gia đình học tập, dòng họ học tập, đơn vị học tập, cộng đồng học tập, có những phẩm chất và năng lực cốt lõi, phấn đấu trở thành công dân chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
3. Xây dựng xã hội học tập vừa là một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu cầu chiến lược, nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của nền giáo dục nước nhà, quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quyết định trong việc biến đổi nền kinh tế Việt Nam thành một nền kinh tế tri thức, góp phần đưa xã hội Việt Nam thành một xã hội trí tuệ, hiện đại, hội nhập kinh tế thế giới. Nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng xã hội học tập là giúp mọi người bất kể độ tuổi, nghề nghiệp, địa vị xã hội…đều thấy cần phải học và học suốt đời, xem học tập là một nhu cầu của cuộc sống, như cơm ăn, áo mặc. Xã hội học tập tạo môi trường học tập đáp ứng cao nhất nhu cầu học tập ban đầu và học suốt đời của mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, trong đó đặc biệt chú ý nhu cầu học tập của người cao tuổi, người khuyết tật, người thiệt thòi về giáo dục. Xã hội học tập tạo điều kiện cho mọi người có thể học ở mọi nơi, mọi lúc, học bằng nhiều cách... theo nguyên tắc tự học là chính.
Chủ trương xây dựng và phát triển xã hội học tập, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân, thực hiện giáo dục cho mọi người, gắn kết và liên thông giữa giáo dục chính quy với giáo dục thường xuyên, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; vận dụng mọi hình thức giáo dục, đào tạo tiên tiến, hiệu quả, phù hợp với mục tiêu giáo dục; ứng dụng công nghệ số và dạy học trực tuyến trong tổ chức các hoạt động giảng dạy và học tập góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội; mọi công dân có trách nhiệm và quyền lợi được học tập thường xuyên, học suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để trở thành công dân số, công dân học tập toàn cầu; xây dựng môi trường học tập suốt đời tại nơi làm việc đáp ứng các yêu cầu về năng suất, hiệu quả, chuẩn mực đạo đức và tác phong văn hóa nghề nghiệp; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quôc tế sâu rộng…là triết lý giáo dục được coi là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Đến nay, thông qua các mô hình học tập suốt đời chủ yếu: Công dân học tập; Gia đình học tập, Dòng họ học tập; Cộng đồng học tập ở thôn bản/ tổ dân phố; Đơn vị học tập trên địa bàn cấp xã; Đơn vị học tập trực thuộc địa bàn huyện/tỉnh và Cộng đồng học tập cấp xã đã góp phần tạo ra nguồn nhân lực ở các cấp trình độ đào tạo từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực ở mỗi địa phương, đơn vị góp phần phát triển triển kinh tế-xã hội đất nước trong mỗi giai đoạn. Cụ thể:
Mô hình “Gia đình học tập”: Gia đình là hạt nhân không thể thiếu tạo nên sức mạnh của mỗi một cộng đồng, xã hội. Vì vậy, việc xây dựng các gia đình học tập sẽ tạo nền móng vững chắc cho mọi nỗ lực khác trong việc nhân rộng, triển khai các mô hình học tập ở những qui mô khác nhau để đóng góp vào việc xây dựng một xã hội học tập. Phong trào xây dựng gia đình học tập đã được Hội Khuyến học Việt Nam và các đơn vị liên quan tích cực triển khai qua hai giai đoạn (2014-2015, giai đoạn thí điểm, và 2016-2020, giai đoạn đại trà), và đạt được kết quả tích cực, thúc đẩy động cơ, nỗ lực học tập của người dân ngay từ phạm vi gia đình.
Ở mô hình này các tiêu chí để xác định một gia đình học tập gồm: (1). Kết quả học tập của gia đình học tập (kết quả tu dưỡng đạo đức của học sinh, sinh viên, trẻ em; kết quả học tập của người lớn; kết quả được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng làm việc, kỹ năng sống; kết quả được tham gia học tập của trẻ em trong độ tuổi đến trường; kết quả học tập và kỹ năng của học sinh, sinh viên, trẻ em). (2). Điều kiện học tập của gia đình học tập (sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên của các thành viên trong gia đình; phương tiện, tài liệu học tập của các thành viên trong gia đình). (3). Tác dụng của học tập đối với gia đình học tập (đời sống tinh thần, tình cảm, văn hóa, xã hội của các thành viên trong gia đình; phát triển kinh tế, việc làm và thu nhập).
Mô hình “Dòng họ học tập”: Truyền thống hiếu học của người Việt không chỉ thể hiện ở sự cố gắng của từng cá nhân để trở thành công dân học tập, ở nền nếp trong mỗi gia đình để xây dựng gia đình học tập, mà còn biểu hiện thông qua nỗ lực và sự quan tâm tới việc học của từng dòng họ trong cộng đồng. Vì vậy, mô hình xây dựng các dòng họ học tập vừa đóng góp thêm một mô hình học tập suốt đời quan trọng, đồng thời có ý nghĩa to lớn trong việc tôn vinh giá trị của việc học
và kịp thời động viên, khuyến khích các gia đình trong dòng họ cùng nhau phấn đấu để ngày càng tiến bộ.
Ở mô hình này các tiêu chí để xác định dòng họ học tập gồm: (1). Kết quả học tập của dòng họ học tập (dòng họ có người trong độ từ 16-60 tuổi đạt chuẩn biết chữ mức độ 2 trở lên theo quy định; người lớn trong dòng họ đạt danh hiệu “công dân học tập”; các gia đình trong dòng họ đạt danh hiệu “gia đình học tập”, trẻ em khuyết tật được học tập, đoàn viên, thanh niên trong dòng họ có kỹ năng sử dụng các thiết bị điện tử phục vụ cho công việc). (2). Điều kiện học tập của dòng họ học tập (dòng họ động viên, khen thưởng kịp thời thành viên có tinh thần tự học và tham gia học tập thường xuyên; quỹ khuyến học của dòng họ ngày càng tăng). (3). Tác dụng của học tập đối với dòng họ học tập (dòng họ tích cực tham gia các phong trào vận động của đoàn thể, phát triển văn hóa đọc, tham gia học tập trong trung tâm học tập cộng đồng, nhà văn hóa, thư viện…).
Mô hình “Cộng đồng học tập ở phạm vi thôn bản/tổ dân phố”: Đây là một trong các mô hình học tập suốt đời được triển khai theo Quyết định số 281/QĐ-TTg ngày 20/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”, góp phần xây dựng xã hội học tập.
Tiêu chí để xác định một cộng đồng ở phạm vi thôn bản/ tổ dân phố là cộng đồng học tập gồm: (1). Kết quả học tập của cộng đồng học tập ở phạm vi thôn bản/tổ dân phố (người lớn trong phạm vi thôn bản/tổ dân phố học tập thường xuyên; người trong độ tuổi lao động đạt danh hiệu công dân học tập; thôn bản/tổ dân phố đạt danh hiệu gia đình học tập). (2). Điều kiện học tập của cộng đồng học tập ở phạm vi thôn bản/tổ dân phố (chi bộ đảng và thôn bản/tổ dân phố có kế hoạch, chỉ tiêu phấn đấu xây dựng các mô hình học tập; tổ chức động viên, khen thưởng những người học tập tích cực, thường xuyên; thôn bản/tổ dân phố có ít nhất 02 phương tiện học tập cộng đồng). (3). Tác dụng của học tập đối với gia đình học tập ở phạm vi thôn bản/tổ dân phố (người trong độ tuổi lao động có việc làm, không có hộ nghèo; nhân dân tích học tập tại trung tâm học tập cộng đồng, nhà văn hóa, thư viện, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư).
Mô hình “Đơn vị học tập trên địa bàn cấp xã”: mô hình học tập suốt đời này được triển khai theo Quyết định số 281/QĐ-TTg ngày 20/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ, cùng với các mô hình “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, và “Cộng đồng học tập ở thôn bản/ tổ dân phố” được nêu ở trên, góp phần xây dựng xã hội học tập.
Một đơn vị học tập cấp xã được công nhận căn cứ vào các tiêu chí: (1). Kết quả học tập của đơn vị học tập trên địa bàn cấp xã (cán bộ, công chức, viên chức bồi dưỡng kiến thức kỹ năng sống cần thiết; cán bộ, công chức, viên chức tham gia học tập các chương trình theo quy định; cán bộ, công chức, viên chức đạt danh hiệu công dân học tập; cán bộ, công chức, viên chức được đào tạo về chuyển đổi số, kỹ năng số, có trình độ ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu công việc). (2). Điều kiện học tập của đơn vị học tập trên địa bàn cấp xã (cấp ủy và lãnh đạo đơn vị có kế hoạch, có chỉ tiêu thi đua hằng năm đối với việc học tập trong đơn vị, bố trí kinh phí hằng năm cho công tác đào tạo; tổ chức kế hoạch của đon vị hoạt động có nền nếp, hiệu quả; đơn vị có phương tiện phục vụ cho việc học tập thường xuyên nhất là các trang thiết bị kỹ thuật số). (3). Tác dụng của học tập đối với đơn vị học tập trên địa bàn cấp xã (gia đình của các thành viên thuộc đơn vị đăng ký và đạt danh hiệu gia đình học tập; đơn vị đạt danh hiệu thi đua từ tập thể lao động tiên tiến trở lên hằng năm, thành viên trong đơn vị tích cực tham gia các cuộc vận động trong cộng đồng).
Mô hình “Đơn vị học tập trực thuộc huyện/tỉnh”: Trong xây dựng xã hội học tập không thể thiếu sự tham gia, đóng góp của các tổ chức, đơn vị học tập. Theo đó, một cơ quan, đơn vị trực thuộc huyện/tỉnh được xác định là một đơn vị học tập với mục đích tạo cơ hội và điều kiện cho thành viên trong đơn vị được học tập thường xuyên, học tập suốt đời, xây dựng mẫu hình công dân học tập trong các đơn vị, làm nòng cốt trong việc xây dựng các mô hình học tập trong cộng đồng, góp phần xây dựng xã hội học tập; việc đánh giá, xếp loại được dựa trên các tiêu chí quy định tại Thông tư số 22/TT-BGDĐT, ngày 6/8/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo[5]: (1). Kết quả học tập của thành viên đơn vị học tập (thành viên trong đơn vị có kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng hằng năm; thành viên trong đơn vị tuân thủ kỷ luật lao động, có tinh thần hợp tác, đoàn kết và trao đổi; thành viên trong đơn vị hoàn thành đầy đủ chương trình học tập, bồi dưỡng bắt buộc; thành viên trong đơn vị đạt danh hiệu lao động tiên tiến trở lên). (2). Các điều kiện để xây dựng đơn vị học tập (đơn vị có các quy định cụ thể nhằm động viên thành viên học tập; đơn vị có chủ trương hoặc kế hoạch cho thành viên học tập thường xuyên; đơn vị quan tâm đầu tư các nguồn lực đáp ứng nhu cầu học tập của thành viên). (3). Đánh giá hiệu quả, tác dụng của xây dựng đơn vị học tập (góp phần tạo lập môi trường chia sẻ tri thức với các đơn vị; thành viên trong đơn vị đáp ứng đầy đủ các năng lực và phẩm chất của công dân học tập; đơn vị đạt từ danh hiệu tập thể lao động tiên tiến trở lên).
Mô hình “Cộng đồng học tập cấp xã”: Ở Việt Nam hiện nay, với trên 10.500 đơn vị hành chính cấp xã trên cả nước, có thể thấy việc xây dựng các mô hình
cộng đồng học tập cấp xã là một động lực to lớn, động viên, khuyến khích thúc đẩy mọi thành phần trong cộng đồng tham gia học tập, tạo điều kiện, cơ hội cho mọi người được học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Việc đánh giá, xếp loại “Cộng đồng học tập cấp xã” được dựa trên các tiêu chí quy định tại Thông tư số 44/2014/TT-BGDĐT ngày 12/12/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo[6]: (1). Nhóm tiêu chí về kết quả xây dựng cộng đồng học tập (kết quả phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; kết quả thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; kết quả học tập bồi dưỡng thường xuyên của cán bộ, công chức cấp xã; kết quả học tập thường xuyên của người lao động (từ 15 tuổi trở lên); kết quả xây dựng gia đình học tập, cộng đồng học tập thôn ấp, bản, tổ dân phố và tương đương; kết quả xây dựng thôn, ấp, bản, tổ dân phố được công nhận danh hiệu khu dân cư văn hóa. (2). Nhóm tiêu chí về điều kiện đảm bảo để xây dựng cộng đồng học tập (hoạt động của ban chỉ đạo xây dựng xã hội học tập cấp xã; sự tham gia, phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức trên địa bàn cấp xã; mạng lưới và hoạt động của các cơ sở giáo dục, các thiết chế văn hóa trên địa bàn cấp xã). (3). Nhóm tiêu chí về tác động của cộng đồng học tập (giảm tỷ lệ hộ nghèo; thực hiện bình đẳng giới; đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội).
Mô hình “Công dân học tập”. Công dân học tập được hiểu là công chức, viên chức, người lao động (gọi chung là thành viên) trong cơ quan tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc trung ương; cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; cơ quan chuyên trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; cơ quan tham mưu, giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy; cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; cơ quan chuyên trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện (sau đây gọi chung là đơn vị), có ý thức tích cực, tự giác học tập nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu công việc, có khả năng thích ứng với môi trường sống và làm việc trong xã hội hiện đại[7]. Như vậy, công dân học tập là yếu tố cốt lõi, là thành viên của các mô hình học tập trên địa bàn hành chính cấp xã và là yếu tố chất lượng mới của các mô hình gia đình học tập, đơn vị học tập, cộng đồng học tập.
Các kỹ năng cơ bản và phẩm chất mong muốn đánh giá mô hình “Công dân học tập”[8]: (1). Năng lực tự học, học suốt đời (gồm kỹ năng xây dựng kế hoạch học tập; kỹ năng sắp xếp hợp lý công việc để có thời gian tham gia các hoạt động cộng đồng; kỹ năng động viên, tạo điều kiện cho người thân trong gia đình và đồng nghiệp được học tập thường xuyên; kỹ năng tìm kiếm, tra cứu, đọc, cập nhật thông tin). (2). Năng lực sử dụng công cụ học tập, làm việc (gồm kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin; kỹ năng sử dụng ngoại ngữ theo yêu cầu công việc; kỹ năng tính toán để công việc luôn được cải tiến, sáng tạo, đạt chất lượng; kỹ năng tư duy biện chứng và tư duy phản biện). (3). Năng lực xây dựng và thực hiện các mối quan hệ xã hội (gồm kỹ năng thiết lập mối quan hệ quan hệ thân thiện với mọi người; giải quyết xung đột, thích ứng an toàn; kỹ năng hợp tác, chia sẻ. Tôn trọng bình đẳng giới và sự đa dạng văn hóa, bảo vệ môi trường).
Như vậy, có thể khẳng định các mô hình học tập suốt đời của Việt Nam được đề cập ở trên có tác động tích cực đến mọi mặt đời sống, xã hội của người dân trong cộng đồng cũng như mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan, đơn vị; từ phạm vi nhỏ nhất là mỗi công dân, cho đến qui mô gia đình, thôn bản, đơn vị và cộng đồng đều có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những kết quả quan trọng thông qua các tiêu chí đánh giá cụ thể, chặt chẽ.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai các mô hình gia đình học tập, dòng họ học tập, cộng đồng học tập ở thôn bản/tổ dân phố, đơn vị học tập cấp xã, cộng đồng học tập cấp xã, đơn vị học tập trực thuộc huyện/tỉnh và mô hình công dân học tập, bên cạnh kết quả ghi nhận, cũng cho thấy việc nhân rộng và phát triển các mô hình cũng đang gặp phải những khó khăn, rào cản nhất định, như: chất lượng của các mô hình học tập còn hạn chế so với yêu cầu của tiêu chí; công tác tuyên truyền về học tập suốt đời, xây dựng các mô hình học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước, xu thế phát triển giáo dục chưa có chiều sâu, nhất là một số địa bàn khu dân cư vùng sâu, vùng xa và vùng đồng bào dân tộc; trình độ nhận thức của một bộ phận người dân lao động ở nông thôn chưa đồng đều, chưa thật chuyển biến, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực theo mô hình “Công dân học tập” ở các ngành, các lĩnh vực, các nhóm đối tượng lãnh đạo, quản lý, người lao động; đặc biệt là chất lượng nhân lực đội ngũ cán bộ trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, đội ngũ nhà giáo trong các cơ sở giáo dục và đào tạo chưa được bổ sung, hoàn thiện; việc triển khai lồng ghép một số chuyên đề vào chương trình giáo dục chính trị tại các cơ sở giáo dục và đào tạo, trung tâm bồi dưỡng chính trị; việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học theo hướng giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập…để hình thành một văn hóa trong học tập, lấy tự học làm thước đo đánh giá năng lực của mỗi người trong công việc và cuộc sống hiệu quả chưa thật tốt…
4. Trong bối cảnh kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ tư[9], hội nhập quốc tế, yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là cơ sở cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, là tiền đề quan trọng để xây dựng các mô hình học tập trong các đơn vị học tập, gia đình học tập, cộng đồng học tập, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng về khuyến học, khuyến tài, thúc đẩy cuộc vận động xây dựng xã hội học tập, phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới.
Vì vậy, việc triển khai xây dựng xã hội học tập dựa trên chủ trương của Đảng, quan điểm chỉ đạo của Nhà nước trong giai đoạn 2021-2030 chính là quá trình huy động mọi nguồn lực, tiềm năng của xã hội để bảo đảm cơ hội học tập thường xuyên, suốt đời cho mọi người; tạo điều kiện về mọi mặt như khung pháp lý, chính sách, cơ sở hạ tầng, tài liệu…có cơ chế khuyến khích để ai cũng có thể học mọi nơi, mọi lúc và bảo đảm sự phát triển bền vững, hài hòa của tất cả các phương diện kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường. Đồng thời, xây dựng xã hội học tập đòi hỏi có định hướng nhất quán, sự phấn đấu, nỗ lực bền bỉ và lâu dài của tất cả các thành phần liên quan. Do đó, để được thực hiện tốt Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019 và Quyết định số 1373/QĐ-TTg ngày 30/7/2021, theo chúng tôi các mô hình gia đình học tập, dòng họ học tập, cộng đồng học tập và đơn vị học tập cần tiếp tục nâng cao chất lượng hơn nữa theo hướng tiếp cận với cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chương trình chuyển đổi số quốc gia. Xây dựng mô hình “Công dân học tập” là thành tố quan trọng của các mô hình học tập trên địa bàn hành chính cấp xã và là yếu tố quyết định đến chất lượng của các mô hình. Bổ sung, hoàn thiện mô hình “Đơn vị học tập” cấp huyện và cấp tỉnh để hình thành mô hình “Huyện học tập”, “Tỉnh học tập” và tham gia mạng lưới “Thành phố học tập” toàn cầu do UNESCO điều hành thông qua việc thiết kế được các bộ tiêu chí đánh giá các mô hình “Xã học tập”, “Huyện học tập” và “Tỉnh học tập” để đánh giá chính xác hiện trạng xây dựng xã hội học tập cụ thể tại từng vùng, từng miền, cả nước qua từng năm và giai đoạn 2021-2025, cũng như giai đoạn tiếp theo. Đây cũng là căn cứ để công nhận danh hiệu thi đua trong phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước thành một xã hội học tập thông qua các mô hình học tập cấp xã, huyện, tỉnh tiêu biểu đề nghị Chính phủ khen thưởng.
5. Quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng chỉ đạo “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, khóa XI, Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X và Kết luận số 49-KL/TW của Ban Bí thư khóa XII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2020 - 2030 “Phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, phụ vụ nhân dân” hướng vào mục tiêu cốt lõi, bao trùm là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo con người cả về phẩm chất và kỹ năng cần thiết để giúp con người tự học, học tập suốt đời, đáp ứng trình độ phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn cụ thể, lĩnh vực cụ thể. Xác định rõ tầm quan trọng xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam trong giai đoạn mới với bộ tiêu chí đánh giá triển khai xây dựng xã hội học tập cụ thể cho từng cấp xã học tập, huyện học tập, tỉnh/thành phố học tập; hình thành mô hình “Công dân học tập” có nhân cách, đạo đức, lối sống; có trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội; có ý thức dân tộc, khát vọng cống hiến chấn hưng đất nước; có năng lực đổi mới, sáng tạo, tự chủ, làm chủ, vượt qua thách thức; có tri thức khoa học, công nghệ thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư….Đây là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết của quá trình xây dựng xã hội học tập, hình thành một quốc gia học tập thực hiện phương thức học tập thường xuyên, học tập suốt đời, coi tích lũy, chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức và chia sẻ tri thức như một lẽ sống. Trong đó, mỗi cá nhân phải nâng cao ý thức tự học, học thường xuyên, học suốt đời, học ở trường, ở mọi nơi, mọi lúc để nâng tầm trí tuệ, trình độ, kỹ năng toàn diện của từng “Công dân học tập” trong mỗi đơn vị học tập - thành tố hạt nhân, yếu tố cơ bản của gia đình học tập, dòng họ học tập, cộng đồng học tập, xã hội học tập - giải pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng con người Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, hội nhập vào trào lưu xây dựng xã hội học tập của thế giới hiện đại.
Bộ tiêu chí đánh giá triển khai xây dựng xã hội học tập cụ thể cho từng cấp xã học tập, huyện học tập, tỉnh/thành phố học tập có thể nghiên cứu thiết kế theo một khung thống nhất gồm ba tiêu chí cơ bản là điều kiện để xây dựng mô hình xã hội học tập; kết quả học tập của nhân dân; tác dụng của việc học tập trong nhân dân với các chỉ số đánh giá cụ thể, ví dụ: (1). Về điều kiện xây dựng mô hình xã hội học tập, phải bảo đảm có sự lãnh đạo của cấp ủy và sự quản lý của chính quyền địa phương; sự chỉ đạo có hiệu quả của chính quyền địa phương trong việc tạo cơ hội và điều kiện học tập thường xuyên của nhân dân; các lực lượng xã hội tham gia xây dựng mô hình xã hội học tập theo tinh thần xã hội hóa. (2). Về kết quả học tập của nhân dân, phải bảo đảm những quy định về học tập của Chính phủ đối với các đối tượng trong xã hội; công dân học tập là số đo cơ bản nhất với kỹ năng số theo yêu cầu chuyển đổi số quốc gia. (3). Về tác dụng của việc học tập trong nhân dân, phải bảo đảm có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế; xây dựng môi trường văn minh, đời sống văn hóa; và bảo vệ môi trường...
TS. Lê Thị Mai Hoa,
Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương
Tài liệu tham khảo:
- Văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
- Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 14/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X.
- Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, khóa XI.
- Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư khóa XII.
- Quyết định số 1373/QĐ-TTg ngày 30/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 11, trang 528.
[2] Cụ thể: (1). Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. (2). Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. (3). Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học và giáo dục từ xa….
[3] Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%.
[4] Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, năm 2019 năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7,64% so với Singapore, bằng gần 20% của Malaysia, gần 38% của Thái Lan và gần 46% so với Indonesia. Năm 2021, năng suất lao động của toàn nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành ước tính đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động).
[5] Thông tư này áp dụng đối với: Cơ quan tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); Cơ quan chuyên trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn lao động, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh cấp tỉnh (gọi chung là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh); Cơ quan tham mưu, giúp việc huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành ủy trực thuộc tỉnh uỷ, thành ủy; Cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); Cơ quan chuyên trách cùa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn lao động, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh cấp huyện (gọi chung là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp huyện) và tổ chức, cá nhân có liên quan.
[6] Thông tư này áp dụng đối với xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan và không áp dụng đối với việc đánh giá, xếp loại “Cộng đồng học tập” thôn, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương.
[7] Theo Thông tư số 22/2020/TT-BGDĐT, ngày 06/8/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[8] Theo Bộ tiêu chí và Hướng dẫn đánh giá, công nhân danh hiệu “Công dân học tập” giai đoạn 2021-2030, ban hành theo Quyết định số 244/QĐ-KHVN ngày 28/7/2022 của Hội Khuyến học Việt Nam.
[9] với ba trụ cột chính là sự phát triển của công nghệ thông tin-kỹ thuật số; sự phát triển của công nghệ sinh học-khoa học công nghệ và sự phát triển của trí tuệ nhân tạp-tự động hóa. Ba trụ cột này tác động toàn diện đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế-xã hội, đến từng gia đình, từng con người, đặc biệt là đến thị trường lao động; vì vậy với mỗi con người nếu không được trang bị các kỹ năng cần thiết, sang tạo theo yêu cầu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với ba trụ cột này thì người lao động sẽ không tìm được vị trí, chỗ đứng của mình khi yêu cầu các lĩnh vực của nền kinh tế chủ yếu sử dụng những lao động có các kỹ năng cứng, kỹ năng mềm.