Với 3 đặc trưng cơ bản là nhất nguyên, dân chủ và thống nhất, hệ thống chính trị Việt Nam đã thể hiện tính ưu việt trong suốt quá trình cách mạng, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ. Bên cạnh những ưu điểm, mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam đã bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập: bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả; quan hệ giữa các chủ thể chưa được xác định rõ ràng, chồng chéo, chưa phát huy hết tiềm năng, tính năng động của các chủ thể... Do vậy, đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị đang là đòi hỏi của công cuộc đổi mới hiện nay.
1. Yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định: “Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh” là một trong những đòi hỏi cấp thiết. Theo đó, đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay cần tiến hành đồng thời hai nội dung chính: đổi mới tổ chức, phương thức hoạt dộng của mỗi nhân tố cấu thành hệ thống chính trị và đổi mới mối quan hệ giữa các thành tố đó.
1.1. Yêu cầu đổi mới từng thành tố của hệ thống chính trị
Thứ nhất, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam: Trên bình diện chung, trước những tác động của tình hình mới - thời cơ và thách thức, để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới”. Đảng cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt; có biện pháp nhân lên sức mạnh nội sinh, phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thời đại; tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân làm chủ xã hội và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước ngay từ địa phương, cơ sở. Mặt khác, với vai trò của nhân tố lãnh đạo công cuộc hội nhập, phát triển trong điều kiện đối diện với nhiều thách thức hiện nay, Đảng phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy cơ thoái hoá, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá Việt Nam do các thế lực thù địch chủ mưu; không để đất nước bị động, bất ngờ.
Bên cạnh công tác xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, Đảng cần đặc biệt nhấn mạnh vấn đề xây dựng đạo đức cho Đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi lẽ, cán bộ là linh hồn của tổ chức, công việc tốt hay kém đểu là do cán bộ. Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cùng những nội dung đã được nêu từ những Đại hội trước, Đại hội XII nhấn mạnh: “Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, khắc phục những thủ tục rườm rà, bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp”. Khâu then chốt có ý nghĩa quyết định làm tăng sức mạnh của hệ thống chính trị là Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh vể chính trị tư tưởng, tổ chức và đạo đức, gắn bó máu thịt với nhân dân vì nhân dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội nguồn sức mạnh, bí quyết của mọi thành công. Vì vậy, mọi biểu hiện xa dân, coi thường dân, ức hiếp dân, gây phiền phức cho dân... đều làm cho Đảng tự suy yếu, lỏng lẻo, phá vỡ tính đổng bộ của hệ thống chính trị.
Thứ hai, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công, tính hiệu quả trong vận hành của hệ thống chính trị - hình thức thể hiện và cơ chế vận hành của thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đại hội XII của Đảng xác định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” và chỉ ra 4 nội dung chủ yếu:
- Hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật;
- Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
- Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước;
- Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Trong 4 nội dung nêu trên, Đại hội XII đặc biệt nhấn mạnh cần “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước... Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ỡ các cấp chính quyển” và “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện”. Đây là một trong những giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay tại địa phương, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng- Nhà nước- nhân dân.
Thứ ba, về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội. Đảng yêu cầu các cấp ủy đảng và chính quyền “phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyên vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân”.
Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Mặt trận cần tăng cường hoạt động “giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.2. Yêu cầu đổi mới mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị và cơ chế thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa
Điểm nhấn của Đại hội XII khi bàn về hệ thống chính trị được thể hiện rõ ở nội dung, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp giải quyết mối quan hệ, sự tác động biện chứng giữa các thành tố trong hệ thống chính trị nhằm phát huy chức năng, hiệu quả của từng thành tố, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, chức năng phản biện, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và vai trò làm chủ của nhân dân.
Từ đó, Đảng nêu ra các yêu cầu cụ thể sau:
Thứ nhất, nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới là “Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
Thứ hai, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, coi đó là một trong những phương thức hữu hiệu dể thực thi dân chủ.
Thứ ba, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”. Tập trung vào “Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Thứ tư, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. “Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.
Nhân dân làm chủ là mục tiêu đặt ra trong sự vận hành của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Tầm quan trọng đặc biệt của nội dung này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực do nhân dân ủy thác, trao quyền.
2. Quan điểm xây dựng mô hình tổ chức hệ thống chính trị Việt Nam trong điều kiện mới
Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn tác động đan xen nhau đến sự phát triển đất nước, đến công tác xây dựng Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải đổi mới mạnh mẽ tổ chức, phương thức lãnh đạo để nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Từ thực tiễn phát triển và những nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt các quan điểm sau:
1.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
Chế độ xã hội mới mà nước ta xây dựng là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, chế độ dân chủ cho “số đông”, cho quảng đại quần chúng nhân dân, chế độ dân chủ cao nhất, rộng rãi nhất, triệt để nhất, “dân chủ hơn gấp triệu lần” bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào. Trong chế độ đó, nhân dân là người chủ chân chính. Để xây dựng chế độ như vậy, Đảng ta đã sớm nhận thức được ba nhân tố đóng vai trò cơ bản là Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng đã rất quan tâm giải quyết, xử lý mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đã coi mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là cơ chế vận hành của thể chế chính trị - xã hội của đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), lần đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.
Kể từ đó đến nay, sự vận hành của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ngày càng được cụ thể hoá và hoạt động hiệu quả, trở thành nét đẹp văn hoá chính trị, thể hiện rõ tính ưu việt của mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nó là kết quả của việc chung sức đồng lòng, sự thống nhất Ý Đảng - Lòng Dân, Lòng Dân - Ý Đảng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, Nhân dân hết lòng ủng hộ; là bảo đảm chắc chắn nhất để chúng ta mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về Nhân dân. Trong cơ chế ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo của cả hệ thống chính trị và Nhà nước, là trụ cột của hệ thống đó, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về mặt nhận thức, chúng ta đã làm rõ hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn cơ chế trên và về mặt thực tiễn, đã có những nỗ lực giải quyết những vấn đề mới đặt ra nhằm hiện thực hoá cơ chế đó trong đời sống xã hội, nhờ đó công cuộc đổi mới đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, quá trình phát huy vai trò của những nhân tố đó đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ việc phân tích đặc điểm tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần thiết phải tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; coi đó là một trong những phương thức hữu hiệu nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, tiến bộ và công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo nhằm đạt mục tiêu: "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
1.2. Đảm bảo tính cách mạng và khoa học
Lịch sử đã chứng minh chủ nghĩa Mác – Lênin là khoa học biện chứng, hiện đại. Đây là khoa học nghiên cứu, luận giải về những quy luật phổ biến về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; về cách mạng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Giá trị bền vững tự nhiên của chủ nghĩa Mác – Lênin là sự chính xác về khoa học, tính toàn diện, hệ thống và biện chứng, nhằm giải phóng người lao động, giải phóng xã hội khỏi áp bức, bóc lột và mọi sự tha hóa, thực hiện một xã hội công bằng, nhân đạo. Nhờ được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ với tinh hoa truyền thống văn hóa dân tộc và nhân loại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân, đế quốc thắng lợi, mang lại nền độc lập, tự do, hòa bình cho đất nước; khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.
Trên cơ sở định hướng mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác lập được hệ thống lý luận về con đường và những giải pháp cơ bản nhằm hiện thực hóa những mục tiêu đó. Tại Đại hội VI, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới về kinh tế. Từ đó đến nay, trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã hình thành về cơ bản hệ thống các quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được kết tinh ở Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như bản Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước.
Sau hơn 30 năm đổi mới, sự phát triển đất nước đòi hỏi phải ở trình độ mới về chất, muốn vậy Đảng phải nỗ lực có những đột phá mới, trước hết về lý luận để có lời giải đúng cho những đột phá trong thực tiễn để phát triển nhanh, bền vững và hiện đại hóa, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Những điểm nêu trên đã được thể hiện tập trung và nổi bật trong chủ đề xuyên suốt của các kỳ Đại hội, nó mang ý nghĩa một thông điệp phát triển mà Đảng ta gửi tới toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và bạn bè quốc tế trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, không tô hồng, không bôi đen; toàn diện - khách quan chứ không phiến diện, siêu hình, cực đoan, Đảng ta đã tiến hành nhiều đợt khảo sát thực tiễn ở địa phương và cơ sở, nhất là các vấn đề về kinh tế, mô hình phát triển và cơ chế quản lý, phát hiện ra những mâu thuẫn, bất cập giữa lý luận với thực tiễn, giữa thể chế và chính sách để kịp thời điều chỉnh, xây dựng và ban hành nghị quyết phù hợp với thực tế phát triển.
Tuy nhiên, để xây dựng hệ thống chính trị ta theo nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc, bảo đảm tính cách mạng và tính khoa học, chúng ta cần: Đổi mới phải dựa trên nền tảng tính khoa học, cách mạng và biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước. Đây là định hướng quan trọng nhất nhằm củng cố, nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta; đồng thời, làm cho Nhà nước thực sự là công cụ pháp lý để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Nhận thức khoa học và sâu sắc về tính quy luật của mối quan hệ biện chứng giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc, tính cách mạng và tính khoa học trong quá trình hình thành, phát triển nhà nước Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay. Đó chính là "chìa khoá" để xây dựng, củng cố, hoàn thiện các tổ chức xã hội nhằm mở rộng cơ sở xã hội của nhà nước; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân.
Trong bối cảnh mới của đất nước, để đảm bảo tính cách mạng và tính khoa học, đòi hỏi phải có sự phân công, phối hợp quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Đảng - chủ thể lãnh đạo với nhà nước chủ thể quản lý, sao cho vừa đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước, hạn chế được bao biện, làm thay từ phía Đảng và dựa dẫm ỷ lại của nhà nước, làm cho trên thực tế cả hai chủ thể đều yếu, không phát huy đúng vị trí và vai trò của mình. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước; xác định nội dung, phương thức, cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước phù hợp với sự phát triển của tình hình mới; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong cơ quan Nhà nước. Vấn đề có tính nguyên tắc là “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
1.3. Đảm bảo tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, hài hòa giữa kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển
Đây là quan điểm bao trùm và quán xuyến suốt lộ trình đổi mới hệ thống chính trị nói riêng, đổi mới chính trị nói chung, bảo đảm đồng bộ với tất cả các phương diện đổi mới. Nghĩa là, phải xuất phát từ mục tiêu của công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ được thể hiện trên từng lĩnh vực hợp thành, để đổi mới hệ thống chính trị một cách tương dung. Đó chính là sự thống nhất một cách hữu cơ của các mục tiêu cụ thể (kinh tế, chính trị, xã hội,...) hợp thành mục tiêu tổng thể với tư cách là một chỉnh thể của công cuộc đổi mới hiện nay. Đến lượt nó, mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị trở nên tất yếu và là nhân tố cấu thành làm cho việc đổi mới chính trị trở nên hoàn bị, cùng với đổi mới kinh tế, đối ngoại... hợp thành mục tiêu tổng thể của công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ. Làm trái quan điểm, quy luật trên, sẽ kìm hãm phát triển hoặc dẫn tới thất bại.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vậy, việc đổi mới hệ thống chính trị lấy việc từng bước hình thành và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cơ bản. Trong cơ chế đó, sự yếu kém của bất kỳ khâu nào cũng có tác động tiêu cực tới việc thực hiện mục tiêu vừa nêu. Trong đổi mới hệ thống chính trị không đơn giản chỉ là sắp xếp lại, thêm bớt một cách cơ học mà là công việc tái cấu trúc cả một hệ thống quyền lực, trong đó, nguyên tắc là phải đảm bảo tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, hài hòa giữa kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển. Bởi lẽ:
- Được thực hiện bằng những phương thức lãnh đạo đúng đắn, khoa học, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng sẽ không biến thành Đảng bao biện, làm thay các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, mà trở thành điều kiện để các tổ chức thành viên này hoàn thiện cấu trúc bộ máy, xác định đúng chức năng - nhiệm vụ, có phương thức thích hợp như là kết quả của những tìm tòi chủ động, sáng tạo để phát huy sự nỗ lực của các thành viên trong tổ chức mình tham gia vào các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, bảo vệ những quyền lợi và thực thi những trách nhiệm pháp lý của mọi công dân - những nội dung cơ bản của dân chủ xãhội chủ nghĩa .
- Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, các thành của hệ thống chính trị càng mạnh lên bao nhiêu, tính tích cực chính trị - xã hội của các tổ chức đó càng cao bao nhiêu thì vai trò của các tổ chức đó trong việc tác động trở lại đối với sự đổi mới của Đảng nói chung, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói riêng càng có hiệu quả thiết thực bấy nhiêu. Điều đó được lý giải không phải chỉ do sự lớn mạnh của các tổ chức này sẽ tạo điều kiện để các thành viên của các tổ chức đó tham gia một cách tích cực hơn, có hiệu quả hơn vào việc đổi mới Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, mà còn do chính sự trưởng thành của các tổ chức đó cũng đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao đối với Đảng, đối với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Đổi mới bộ máy đồng bộ cũng là yêu cầu tự nhiên giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta. Đổi mới bộ máy đảng, nhà nước cũng sẽ liên quan một cách tất yếu đến đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội khác. Đồng bộ còn bao hàm và liên quan tới việc đổi mới tổ chức bộ máy với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế quản lý nhà nước với tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo cảu Đảng. Trong khi hành động, người ta vẫn chấp nhận các thao tác thử nghiệm, đột phá nhưng không bao giờ được quên tính hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phải đảm bảo mục tiêu tối thượng là ổn định và phát triển (xét trong dài hạn).
Nhờ sự tác động qua lại nêu trên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước sẽ góp phần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, nhờ vậy, những quan điểm, chủ trương của Đảng vì sự phát triển ổn định của đất nước sẽ được thực hiện bằng cả hệ thống chính trị với hiệu quả cao. Điều đó cũng có nghĩa là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, qua đó mà nâng cao vai trò và hiệu quả lãnh đạo đối với toàn xã hội.
1.4. Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, bảo đảm tính lịch sử, cụ thể và phù hợp
Cần nhận định rõ, trong thực tế không có mô hình hệ thống chính trị nào là hoàn thiện, hoàn mỹ trong mọi giai đoạn, mọi quốc gia, dân tộc; mà chỉ có thể coi các mô hình ấy là phương án giải quyết các vấn đề đặt ra của xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định, do đó, có những thành công trong giới hạn nhất định và có những khiếm khuyết. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị, không chỉ cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong nước mà cần thiết phải mở rộng nghiên cứu lý luận về hệ thống chính trị ở nhiều nước trên thế giới để tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, tiếp thu một cách cầu thị các giá trị phổ biến của nhân loại, để có cơ sở trong các suy tính về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị vừa phù hợp với tình hình cụ thể của Việt Nam, vừa đảm bảo hội nhập quốc tế hiệu quả.
Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của Đảng, của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tích cực khắc phục sự không tương thích giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, với các cơ hội mới, thách thức mới nảy sinh từ quá trình hội nhập sâu rộng, toàn diện vào mọi mặt đời sống quốc tế, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới chính trị, đảm bảo quyền lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc.
Trong điều kiện mới hiện nay, việc nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong xây dựng hệ thống chính trị không chỉ là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn hiện nay của Việt Nam sau hơn 30 năm tiến hành đổi mới đất nước mà còn là xu hướng chung của thế giới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải chịu những sức ép không nhỏ từ cả bên ngoài và nội tại để đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của hệ thống chính trị, bảo đảm hội nhập quốc tế thành công. Sự phát sinh và diễn biến phức tạp của các vấn đề khi hội nhập quốc tế, đòi hỏi hệ thống chính trị phải đủ mạnh và linh hoạt để kịp thời ứng phó với những vấn đề xuất hiện trong quá trình hội nhập, đáp ứng mục tiêu và nhu cầu phát triển bền vững của dân tộc, đất nước trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, trước sự phong phú và đa dạng của các mô hình hệ thống chính trị trên thế giới (cả về thực tiễn và lý luận), để đảm bảo không chệch hướng về mặt chính trị, định hướng phát triển; kế thừa và vận dụng linh hoạt những kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng hệ thống chính trị, Đảng ta khi nghiên cứu và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước cần phải dựa trên các cơ sở sau: Bảo đảm sự biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù, cái lịch sử và cái lô-gic một cách cụ thể trên phương diện đổi mới hệ thống chính trị là nguyên tắc cần được tuân thủ hết sức nghiêm ngặt. Trong đó, tính phù hợp và hiệu quả là mục tiêu, là thước đo trình độ của việc đổi mới một cách tổng thể và trực tiếp đổi mới chính trị./.
PGS. TS. Lâm Quốc Tuấn,
Học viện CTQG Hồ Chí Minh