Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Cuba (PCC) (Nguồn: Granma)
Dưới đây là toàn văn Báo cáo Chính trị do Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Đại tướng Raúl Castro Ruz, trình bày tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Cuba. Đây là phiên bản tốc ký do báo Granma, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Cuba, đăng tải:
Thưa các đồng chí:
Đại hội lần thứ VIII của Đảng khai mạc vào một ngày đáng nhớ trong lịch sử đất nước: ngày kỷ niệm 60 năm tuyên bố của Tổng tư lệnh Fidel Castro Ruz về đặc trưng xã hội chủ nghĩa của cách mạng (16/4/1961-16/4/2021) tại lễ tưởng niệm những người đã ngã xuống 1 ngày trước đó trong trận ném bom nhằm vào các căn cứ không quân, mở màn cho cuộc đổ bộ xâm lược của lính đánh thuê tại bãi biển Girón, do Chính phủ Mỹ tổ chức và tài trợ. Đây là một phần trong kế hoạch đàn áp tấm gương Cách mạng Cuba và tái áp đặt chế độ cai trị thực dân kiểu mới lên quốc đảo này, với sự đồng lõa của Tổ chức các nước châu Mỹ.
Đại hội bế mạc vào ngày 19/4 cũng là lúc chúng ta kỷ niệm 60 năm giành chiến thắng trước đạo quân viễn chinh đánh thuê đó. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Fidel, chỉ trong chưa đầy 72 giờ, các chiến sĩ của Quân khởi nghĩa, cảnh sát và dân quân đã không để cho những kẻ xâm lược có được một giây phút thảnh thơi, và đó cũng là lần đầu tiên máu của họ đã đổ vì sự nghiệp bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Những đòn tấn công mạnh mẽ của lực lượng an ninh nhà nước nhằm vào các nhóm phản cách mạng, vốn hoạt động như “đội quân thứ năm” ở trong nước, cũng đã tạo điều kiện cho thắng lợi trước kế hoạch xâm lược của kẻ thù.
Cuộc đổ bộ lên bãi biển Girón, được thực hiện trong nhiệm kỳ của một vị tổng thống thuộc đảng Dân chủ, nằm trong “chương trình hành động bí mật chống chế độ Castro” do Tổng thống tiền nhiệm Eisenhower, thuộc Đảng Cộng hòa, kích hoạt. Chương trình này bao gồm xây dựng phe đối lập thống nhất tại Cuba, tiến hành chiến tranh tâm lý, âm mưu ám sát các nhà lãnh đạo cách mạng chủ chốt, đặc biệt là Fidel, phá hoại các mục tiêu kinh tế, các hoạt động khủng bố tại các thành phố, thành lập những băng nhóm phản cách mạng vũ trang để sát hại nông dân, công nhân và thanh niên tham gia chiến dịch xóa nạn mù chữ.
Chúng ta sẽ không bao giờ quên con số 3.478 người thiệt mạng và 2.099 người bị tàn phế, những nạn nhân của chủ nghĩa khủng bố.
Chúng ta tiến hành Đại hội VIII trong bối cảnh sau 2 năm ban hành Hiến pháp Cộng hòa vào ngày 10/4/2019, sau một thế kỷ rưỡi thực hiện Hiến pháp Guáimaro đầu tiên.
Việc thông qua Hiến pháp đòi hỏi phải cập nhật phần lớn các luật và những văn bản luật khác sao cho phù hợp, đồng thời phát huy những quan điểm được nêu. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Quốc hội đã thông qua lộ trình lập pháp mà tới nay vẫn được tuân thủ đẩy đủ.
Từ tháng 4/2019 tới nay, Quốc hội Cuba đã thông qua 11 đạo luật nhằm đảm bảo việc tổ chức và hoạt động trong các cơ cấu chủ chốt của Nhà nước và Chính phủ. Về phần mình, Hội đồng Nhà nước đã ban hành 33 sắc lệnh.
Ban lãnh đạo nhà nước và chính phủ đã thông qua một loạt quyết định hướng tới việc củng cố năng lực lập pháp với sự tham gia của các thể chế, các trường đại học và nhiều trung tâm nghiên cứu khác nhau.
Báo cáo Chính trị mà tôi trình bày hôm nay trước các đồng chí đã được Bộ Chính trị thông qua.
Lần này, do những hạn chế từ các quy định phòng chống đại dịch COVID-19, nên số lượng đại biểu tham dự Đại hội giới hạn ở mức 300 người. Đây là những người được đề cử và bầu chọn một cách dân chủ để đại diện cho hơn 700.000 đảng viên từ 58.000 chi bộ.
Trong bối cảnh bất thường này, chúng ta tiến hành Đại hội VIII nhằm hoàn thành mục tiêu mà Hội nghị Toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã thông qua, trong đó quy định Đại hội Đảng tổ chức 5 năm một lần, chỉ ngoại trừ trường hợp chiến tranh, thảm họa thiên nhiên hoặc các tình huống ngoại lệ khác. Hiện tại, đây không phải là thời điểm bình thường, nhưng chúng tôi đã đi tới kết luận rằng chúng ta không những có thể tiến hành Đại hội mà còn cần tiến hành vào đúng thời điểm đã định.
Chúng ta đến với Đại hội lần này với số lượng đảng viên tăng 27.000 người, một dấu hiệu cho thấy xu hướng sụt giảm kể từ năm 2006 đã chấm dứt.
Chúng ta đạt được kết quả khích lệ này bất chấp những tổn thất về số lượng đảng viên đã qua đời, ngừng sinh hoạt hoặc bị khai trừ do kỷ luật. Một con số cũng đáng khích lệ khác là số lượng đảng viên kết nạp bình quân hàng năm đạt trên 39.400 người, trong đó khoảng 1/3 là từ Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Tuy nhiên, chúng ta không thể phớt lờ thực tế rằng theo xu hướng dân số quốc gia, độ tuổi bình quân của đảng viên đã tăng lên và hiện tại có 42,6% đảng viên trên 55 tuổi.
Trong thời gian qua, số lượng Đoàn viên cũng tăng đều đặn, phần lớn được kết nạp từ tầng lớp sinh viên và lao động trẻ – trong đó chủ yếu là nông dân, công nhân nông nghiệp và trong những lĩnh vực kinh tế chủ chốt khác. Đây là lực lượng tiềm năng có thể góp phần vào sự phát triển của Đảng trong tương lai.
Đặc biệt, không thể không nhắc đến cuộc chiến chống COVID-19 theo kế hoạch quốc gia được Bộ Chính trị thông qua ngày 30/1/2020, mà sau đó liên tục được cập nhật và bổ sung thêm các kinh nghiệm tích lũy được trong các giai đoạn khác nhau.
Kế hoạch này bao gồm các hành động liên ngành với sự tham gia của chính quyền trung ương, các tổ chức quần chúng, đông đảo nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Nguồn sức mạnh chính của họ là ý chí chính trị để chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Việc hoàn thành kế hoạch này cho thấy có thể kiểm soát dịch bệnh thông qua việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định phòng chống dịch, chế độ chăm sóc riêng cho các nhóm dễ mắc bệnh, tích cực truy dấu các ca lây nhiễm, cách ly các trường hợp nghi nhiễm và có tiếp xúc, điều trị tại bệnh viện, các biện pháp phòng ngừa và trị liệu sử dụng các sản phẩm thuốc đổi mới của ngành dược và công nghệ sinh học Cuba, vốn ra đời từ sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng tư lệnh Fidel Castro.
Những thành tựu vừa qua chỉ có thể đạt được trong một xã hội xã hội chủ nghĩa, một hệ thống y tế miễn phí cho tất cả mọi người, với những chuyên viên y tế có năng lực và tận tâm. Tuy nhiên, trong vài tháng vừa qua, đã diễn ra những đợt tái bùng phát dịch trên phạm vi thế giới, và Cuba không phải là ngoại lệ. Một nguyên nhân trong số đó có cả việc lơi lỏng các biện pháp đã được đưa ra.
Thành công của nước ta trong việc ứng phó với đại dịch COVID-19 là nhờ vào đóng góp của các nhà khoa học và các chuyên gia nghiên cứu và sáng tạo, với việc kịp thời đưa ra các biện pháp hiệu quả trong phòng ngừa, chẩn đoán, điều trị và phục hồi cho bệnh nhân. Họ đã làm việc miệt mài để tiến hành thử nghiệm lâm sàng 5 loại vaccine để có thể tạo ra miễn dịch cộng đồng cho toàn bộ dân số Cuba và đóng góp vào công tác y tế tại nhiều quốc gia khác. Như tôi đã nhiều lần nhắc đến, chỉ riêng những kết quả này cũng khiến tôi ngày càng cảm phục tầm nhìn của Fidel.
Đại hội VIII sẽ tập trung vào việc phân tích những kết quả thảo luận của 3 ủy ban mà Bộ Chính trị đã phân công.
Ủy ban đầu tiên, do Thủ tướng Manuel Marrero Cruz điều hành, thảo luận về những kết quả kinh tế-xã hội đã đạt được kể từ Đại hội VII tới nay và những triển vọng để tiếp tục thúc đẩy đà phát triển của đất nước, đánh giá tiến trình triển khai kể từ Đại hội VI những chủ trương về chính sách kinh tế và xã hội của Đảng và cách mạng, đề xuất cập nhập cho văn kiện này và văn kiện Khái niệm hóa mô hình kinh tế và xã hội Cuba, cũng như báo cáo tiến độ triển khai Chiến lược kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy kinh tế và ứng phó với khủng hoảng toàn cầu do đại dịch COVID-19 gây ra.
Ủy ban thứ hai, do đồng chí José Ramón Machado Ventura, Bí thư thứ hai Ban Chấp hành trung ương Đảng, chủ trì tiến hành xem xét kết quả hoàn thành nghị quyết do Đại hội VII thông qua về các mục tiêu mà Hội nghị Toàn quốc lần thứ nhất của Đảng, diễn ra vào tháng 1/2012, đề ra, liên quan tới cơ cấu hoạt động của Đảng, công tác tư tưởng và liên hệ với quần chúng, cũng như những đề xuất để hoàn thiện công tác Đảng trong bối cảnh hiện nay và trong tương lai.
Cuối cùng, ủy ban thứ ba, do Chủ tịch nước Miguel Díaz-Canel Bermúdez đứng đầu, trình bày đánh giá về chính sách cán bộ trong Đảng, Đoàn Thanh niên, các tổ chức quần chúng, nhà nước và chính phủ, cũng như vai trò của Đảng trong việc đạt được những mục tiêu cao hơn.
Những văn kiện được trình lên ngày hôm nay là kết quả của quá trình làm việc của 3 ủy ban trên, vốn đã được thảo luận tại các tỉnh ủy và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, với sự tham dự của Bí thư thứ nhất các tỉnh ủy, lãnh đạo các tổ chức quần chúng và các cán bộ trong chính quyền thành phố, cũng như tại ban lãnh đạo các cơ quan trung ương, lãnh đạo cấp trung ương của các tổ chức quần chúng và Đoàn Thanh niên.
Những điều chỉnh đúc rút từ các cuộc thảo luận đó đã làm phong phú thêm nội dung của các văn kiện gốc, và mới đây những văn kiện này cũng được thảo luận tại các đoàn Đại biểu Quốc hội mỗi tỉnh.
Sau đây, tôi sẽ tổng kết một số nhận định của các ủy ban này.
Chúng ta đã khẳng định rằng phát triển kinh tế quốc gia, cùng với đấu tranh vì hòa bình và kiên định lập trường tư tưởng, là những nhiệm vụ chủ chốt của Đảng.
Nền kinh tế Cuba trong 5 năm qua đã cho thấy khả năng chống chọi với những khó khăn do cuộc bao vây cấm vận về kinh tế, thương mại và tài chính của Mỹ gây ra, cho phép duy trì những thành quả Cách mạng trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và an sinh xã hội, mà không từ bỏ các mục tiêu phát triển đã đề ra, cũng như không đánh đổi tình đoàn kết với các quốc gia bè bạn.
Vẫn tồn tại những tác động tiêu cực của thói quan liêu và khả năng quản lý các nguồn lực một cách yếu kém, nguyên nhân và điều kiện nảy sinh hiện tượng tham nhũng cùng những hành vi phi pháp khác cản trở việc cải thiện năng suất và hiệu quả lao động. Cũng vẫn còn tồn tại các vấn đề mang tính cơ cấu của một mô hình kinh tế vốn không tạo ra đủ động lực để khuyến khích lao động và sáng tạo.
Để thay đổi triệt để tình trạng này, cần tích cực triển khai hơn nữa tiến trình cập nhật mô hình kinh tế, xã hội, tiến tới một sự kết hợp hài hòa và phù hợp giữa đặc điểm kế hoạch hóa tập trung với quyền tự chủ và sự phân cấp quản lý cần có ở các cấp trung gian.
Tương tự, chúng ta phải củng cố quy trình đầu tư, trên cơ sở của tính toàn vẹn và không có chỗ cho sự cẩu thả và thói tùy tiện, phải đẩy mạnh năng suất và hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực quyết định sự phát triển của đất nước, đồng thời linh hoạt hóa và thể chế hóa các hình thức quản lý phi quốc doanh.
Mới đây, tầm bao quát của các hình thức lao động tự doanh đã được mở rộng đáng kể, khi số lượng các loại hình hoạt động được cấp phép tăng từ 127 lên hơn 2.000. Vốn được công luận trong nước và quốc tế chào đón nồng nhiệt, nhưng chỉ sau vài ngày, quyết định này đã vấp phải thái độ hoài nghi và sự chỉ trích từ những kẻ luôn ao ước phục hưng chủ nghĩa tư bản và tiến hành tư hữu hóa trên quy mô lớn các phương tiện sản xuất chủ chốt đang nằm trong tay nhân dân.
Ngay cả khi chưa có quyết định quan trọng này, Nhà nước Cuba vẫn cho phép tư nhân hóa một số ngành nghề. Thế nhưng, dường như sự tham lam và khao khát làm giàu đã khơi dậy tham vọng của một số người, điều khiến tiến trình tư hữu hóa có thể phá vỡ những nền tảng cốt lõi của xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng trong suốt hơn 6 thập kỷ qua. Trong tương lai không xa, điều đó cũng sẽ hủy hoại hệ thống giáo dục và y tế cộng đồng mà người dân vốn có quyền tiếp cận miễn phí .
Những kẻ khác, với tham vọng phá hoại nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về độc quyền nhà nước trong ngoại thương, đã lên tiếng yêu cầu cho phép hoạt động nhập khẩu thương mại tư nhân hướng tới việc thành lập một hệ thống nội thương phi nhà nước.
Đây chính là những vấn đề mà mỗi cán bộ lãnh đạo hay mỗi đảng viên không được phép nhầm lẫn hay tỏ ra ngây thơ. Có những giới hạn mà chúng ta không được vượt qua vì chúng sẽ dẫn tới những hậu quả không thể đảo ngược và những sai lầm chiến lược, thậm chí dẫn đến sự hủy diệt chủ nghĩa xã hội, và tiếp đó là chủ quyền và nền độc lập quốc gia.
Khi đề cập đến những vấn đề này, điều xuất hiện trong ký ức của tôi là câu nói của Tổng tư lệnh Cách mạng Cuba trong phiên bế mạc Đại hội lần thứ VI của Đoàn Thanh niên cộng sản được tổ chức vào ngày 4/4/1992: “Không có nghị lực, không có quyết tâm, không có tinh thần bất khuất, thì Cách mạng thậm chí còn chẳng thể thành công bởi vì những kẻ nhượng bộ, những kẻ đầu hàng, những kẻ thoái chí, những kẻ phản bội sẽ chẳng bao giờ làm nên trò trống gì”.
Không bao giờ được quên rằng quyền sở hữu toàn dân đối với các phương tiện sản xuất chính yếu là cơ sở tạo nên quyền lực thực sự của người lao động.
Hệ thống doanh nghiệp nhà nước phải chứng minh được trong thực tế và củng cố vị thế của mình với tư cách là hình thức quản lý chủ đạo của nền kinh tế. Đây không phải là điều có thể đạt được qua những sắc lệnh, mà là một điều kiện thiết yếu để giữ vững xã hội xã hội chủ nghĩa, vì thế không thể tránh khỏi một cuộc cải tổ từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên các cấu trúc doanh nghiệp, để có thể loại bỏ tình trạng trì trệ, tính dễ dãi, sự thiếu sáng tạo và chờ đợi chỉ thị từ cấp cao hơn một cách thụ động. Phải chỉnh đốn những thói quen xấu - cả cũ và mới – đồng thời khơi gợi, phát huy tinh thần khởi nghiệp và năng động trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp và cơ sở của chúng ta, để họ càng ngày tự chủ hơn, nâng cao sản lượng với đạt hiệu quả hơn.
Tất cả những điều đó nói thì dễ, nhưng không phải là không thể thực hiện được. Phải kiên định chuyển đổi tư duy thực sự trong nỗ lực đẩy mạnh sản xuất trên toàn quốc, đặc biệt là sản xuất lương thực, loại bỏ thói quen “độc hại” của việc nhập khẩu các mặt hàng này và tạo ra những sản phẩm xuất khẩu phong phú và có khả năng cạnh tranh.
Phải không ngừng hướng tới, cả trong suy nghĩ lẫn hành động, mục tiêu thỏa mãn tốt hơn nhu cầu xã hội, phải quen với việc sống với những gì chúng ta có và không tiêu tốn nhiều hơn những nguồn thu mà đất nước có thể mang lại. Chúng ta từng mắc sai lầm khi làm điều ngược lại và không nên phạm sai lầm này một lần nữa. Không được quên rằng tiết kiệm chính là cách thức mang lại nguồn thu nhanh và an toàn nhất trong tầm tay của chúng ta.
Ngành dịch vụ du lịch quốc tế từng có những bước tăng trưởng vững chắc trước khi rơi vào tình trạng suy thoái trong năm 2019 do các biện pháp mà Chính quyền Mỹ triển khai và sau đó là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19 trên toàn cầu.
Tuy nhiên, chúng ta đã tận dụng giai đoạn đóng cửa phần lớn các cơ sở du lịch để tiến hành cải tạo, nâng cấp hạ tầng khách sạn để có thể cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn khi các cơ sở này hoạt động trở lại. Chúng ta lạc quan và tin tưởng chắc chắn rằng ngành kinh tế này sẽ không chỉ phục hồi mà còn tiếp tục phát triển vì lợi ích toàn dân.
Mô hình phát triển kinh tế-xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải có đủ năng lực để điều tiết thị trường, ở mức độ hợp lý nhất có thể, thông qua việc áp dụng những biện pháp gián tiếp và ngày càng giản tiện về mặt hành chính. Cần phải biến những nhu cầu chưa được thỏa mãn của nhân dân thành đòn bẩy cho các cơ sở sản xuất trong nước, trên cơ sở sử dụng hiệu quả và hợp lý những nguồn lực vật chất và tài chính. Đây chính là mục tiêu của Chiến lược kinh tế-xã hội đã được các cơ quan tối cao của Đảng và Chính phủ thông qua nhằm thúc đẩy nền kinh tế và ứng phó với cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch COVID-19 gây ra.
Cũng cần nhắc lại rằng những quyết định về kinh tế không được xa rời lý tưởng về công bằng và bình đẳng của cuộc cách mạng, cũng không được làm suy yếu khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, với nguyên tắc nhất quán rằng Cuba sẽ không bao giờ cho phép áp dụng các biện pháp gây tổn hại đến tầng lớp nhân dân yếu thế nhất hay để một ai bị bỏ lại trong tình trạng không nơi nương tựa.
Mặc dù nền kinh tế quốc gia vẫn đang phải đối mặt với những tình huống khó khăn, nhưng tôi vẫn muốn nhân cơ hội này gửi lời cảm ơn tới đa phần các nguồn cấp tín dụng cho Cuba vì đã sẵn sàng tái cấu trúc các khoản nợ đáo hạn, đồng thời đảm bảo Cuba sẽ tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ tài chính quốc tế một khi quá trình phục hồi kinh tế bắt đầu. Tôi cũng xin khẳng định một lần nữa quyết tâm đảm bảo các tài khoản ngân hàng bằng đồng tiền tự do chuyển đổi lẫn đồng peso Cuba, cũng như lượng tiền mặt trong tay nhân dân, các pháp nhân Cuba và nước ngoài.
Tình trạng cạn kiệt thanh khoản đã buộc chúng ta phải tái áp dụng cơ chế bán hàng bằng đồng tiền tự do chuyển đổi trong một bộ phận của hệ thống bán lẻ và sắp tới là bán sỉ. Mục đích ban đầu của biện pháp cần thiết này là để đảm bảo sự hiện diện trên thị trường trong nước của một nhóm mặt hàng mà đã dần biến mất trong hệ thống cung ứng của nhà nước suốt 5 năm qua, tạo khoảng trống cho hoạt động nhập khẩu phi pháp từ nước ngoài và bán lại trong nước với lợi nhuận cao.
Do tác động của đại dịch COVID-19, việc mua bán bằng đồng tiền tự do chuyển đổi đã mở rộng sang các sản phẩm khác, bao gồm cả thực phẩm, với mục đích khuyến khích nguồn kiều hối mà người dân Cuba sinh sống tại nước ngoài gửi về cho người thân trong nước. Cùng với đó, Chính phủ cũng đã phân bổ một nguồn ngoại tệ đáng kể để đảm bảo duy trì nguồn cung bằng đồng peso nội tệ đối với một số nhu yếu phẩm như lương thực và đồ vệ sinh, đồng thời nỗ lực tái kích hoạt các cơ sở trong nước sản xuất các mặt hàng này.
Cũng nên chỉ ra rằng chính sách truyền thông chưa hợp lý và việc một số phương tiện truyền thông báo chí của chúng ta thông tin lệch trọng tâm đã gây ra nhầm lẫn ở một số cấp lãnh đạo, dẫn tới sự phản đối trước thực trạng bất bình đẳng mà chính sách thương mại này có thể đã gây ra, cùng yêu cầu về việc áp dụng trở lại hình thức phân phối qua tem phiếu đối với toàn bộ hoạt động thương mại trong nước. Những lần xuất hiện trực tiếp của Chủ tịch nước, Thủ tướng và các quan chức khác của Chính phủ đã giúp mang lại nhận thức thống nhất rằng hoạt động thương mại bằng đồng tiền tự do chuyển đổi là cần thiết và sẽ tiếp diễn cho tới khi nền kinh tế quốc gia phục hồi và được củng cố đến mức đủ để đảm bảo giá trị hoán đổi thực sự của đồng nội tệ.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, chúng ta vẫn tiếp tục triển khai các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài, giảm bớt tình trạng trì trệ, chậm trễ và rào cản đối với hoạt động có đóng góp mang tính quyết định đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia.
Đã tới lúc phải xóa bỏ những định kiến trong quá khứ về đầu tư nước ngoài và có các bước chuẩn bị hợp lý cho việc hoạch định những hoạt động kinh doanh mới với sự tham gia của vốn nước ngoài.
Minh chứng cho điều này là những kết quả đã đạt được tại Đặc khu phát triển Mariel, mà đã trở thành điểm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước với những cơ sở hạ tầng ấn tượng và vẫn không ngừng vươn lên bất chấp những biện pháp thắt chặt và bao vây cấm vận của Mỹ.
Chúng ta cũng đã đạt được những bước tiến mới trong việc triển khai các chủ trương và chính sách kinh tế-xã hội của Đảng và Chính phủ. Tuy nhiên, vẫn có những thiếu sót trong hoạch định, tổ chức, kiểm tra và giám sát các tiến trình đã đề ra; sự chậm trễ trong việc phản ứng và chỉnh đốn những sai phạm; cũng như tình trạng thiếu tính tổng thể và tầm nhìn trong việc nhận định mức độ rủi ro và thiếu hụt. Bên cạnh đó, các hoạt động trong lĩnh vực đào tạo và truyền thông xã hội thiếu tính kịp thời, chất lượng và tầm vóc cần có.
Vẫn còn những phản kháng trước nhu cầu thay đổi và tình trạng thiếu năng lực sáng tạo, thể hiện qua thái độ cứng nhắc và thụ động trong việc áp dụng các biện pháp đã được thông qua, sự e dè trong việc thực thi những chức năng được trao, và thành kiến đối với các hình thức sở hữu và quản lý ngoài nhà nước.
Ủy ban về triển khai đường lối và phát triển đã không thể điều phối một cách hợp lý sự tham gia của những nhân tố khác nhau liên quan tới việc triển khai các chủ trương và đảm nhiệm nhiều chức năng đến mức vượt quá quyền hạn mà Quốc hội giao. Điều này đã hạn chế vai trò đáng ra thuộc về các cơ quan và tổ chức khác.
Đồng thời, các tổ chức chính trị và quần chúng đã không có đủ điều kiện để đóng một vai trò tích cực hơn trong quá trình này. Điều đó đã dẫn tới quyết định của Bộ Chính trị về việc phân bổ trách nhiệm chỉ đạo quá trình triển khai các chủ trương giữa Ủy ban và các cơ quan trực thuộc Chính quyền trung ương, và nhờ đó mang lại các bước tiến rõ rệt hơn.
Những thảo luận tại Quốc hội khóa VII về việc cập nhật các chủ trương được thông qua tại Đại hội VII đã dẫn tới đề xuất giữ nguyên 17 chủ trương, điều chỉnh 165 chủ trương, loại bỏ 92 chủ trương và bổ sung 18 chủ trương. Do đó, dự thảo tổng kết bao gồm 200 chủ trương.
Như chúng ta đã biết, văn kiện Khái niệm hóa mô hình kinh tế-xã hội, hay nói cách khác là định hướng lý thuyết và khái niệm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Cuba, đã được thông qua lần đầu tiên tại Đại hội VII, với quyết định được đưa ra thảo luận tại các tổ chức Đảng và Đoàn Thanh niên Cộng sản và trong đông đảo tầng lớp nhân dân, rồi sau đó được Ban Chấp hành Trung ương Đảng xem xét thông qua tại phiên toàn thể.
Trong khuôn khổ nhiệm vụ được Bộ Chính trị giao phó là rà soát và cập nhật nội dung của văn kiện mang tính chương trình này, Ủy ban chuyên đề số 1 đã tái khẳng định những nguyên tắc chính yếu và bổ sung những điều chỉnh phù hợp với Hiến pháp mới nhằm làm rõ hơn một số vấn đề. Những nội dung này sẽ được các đại biểu thảo luận theo các ủy ban tương ứng tại Đại hội.
Ngày 1/1/2021, sau hơn một thập kỷ nghiên cứu và làm việc, chúng ta đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ bình ổn, tuy không phải là giải pháp thần kỳ cho mọi vấn đề của nền kinh tế nhưng có thể giúp sắp xếp lại trật tự và minh bạch hóa vai trò của những tác nhân khác nhau trong bộ máy kinh tế và khích lệ niềm đam mê với công việc như một phương tiện mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của mỗi công dân. Cần xóa bỏ những quan điểm tiêu cực khởi phát từ suy nghĩ mang tính dựa dẫm và cào bằng rằng Cuba là đất nước duy nhất mà ở đó người ta có thể sống mà không cần phải làm việc. Mức sống và mức tiêu thụ của người dân Cuba phải được quyết định bởi những nguồn thu nhập hợp pháp chứ không phải bởi những khoản trợ cấp quá mức hay các sản phẩm và dịch vụ miễn phí không thích đáng.
Tình hình trong vài tháng qua đã cho thấy tính phức tạp và ảnh hưởng to lớn của tiến trình này, khi nó động chạm tới mọi bộ phận cấu thành xã hội Cuba và bao gồm một loạt quyết định và hành động chưa từng thấy trong lịch sử cách mạng cận đại.
Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta dành nhiều thời gian cho giai đoạn lên ý tưởng và hoạch định, với sự đóng góp của các chuyên gia và các nhà nghiên cứu cấp cao trong cả hai lĩnh vực sản xuất và hàn lâm, sự góp ý chân thành của nhiều trung tâm nước ngoài, cùng những kinh nghiệm từ các quá trình tương tự ở Trung Quốc và Việt Nam, tất nhiên là với nhiều đặc điểm khác biệt tự nhiên.
Như đã đề cập trước đó, bên cạnh những thành công không thể phủ nhận trong việc thống nhất tiền tệ và tỷ giá hối đoái, cải cách tổng thể chế độ tiền lương, đãi ngộ hưu trí và trợ cấp xã hội, cũng như cắt giảm trợ cấp và các hình thức miễn phí mà vẫn đảm bảo sự quan tâm chăm sóc đến những thành phần nhạy cảm, quá trình triển khai nhiệm vụ này cũng đã phơi bày những nhược điểm do sự thiếu cẩn trọng trong khâu chuẩn bị và đào tạo, sự thiếu nghiêm túc, và nhạy cảm chính trị trong công tác thông tin, cũng như sự yếu kém của nhiều cán bộ và quan chức đảm nhận khâu thực thi, dẫn tới tình trạng ấn định những mức giá quá cao và không hợp lý trong các dịch vụ công như điện, khí đốt và nhà ăn công sở. Cũng đã xuất hiện những sai sót và trì hoãn trong cải cách tiền lương và hệ thống thanh toán.
Tất cả những hiện tượng đó đã buộc ban lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ phải làm việc cật lực để chỉnh sửa một cách linh hoạt những sai lệch được phát hiện và điều chỉnh những sự việc đang tiến triển theo hướng chệch ra ngoài hoạch định ban đầu.
Nhiệm vụ bình ổn cần được tiếp tục triển khai theo đúng tiến độ đã được hoạch định trong lộ trình tổng thể. Điều quan trọng nhất là phải củng cố các nguyên tắc và đạt được những kết quả tốt đẹp trong hoạt động kinh tế và sản xuất, góp phần vào việc xây dựng một nước Cuba xã hội chủ nghĩa thịnh vượng và bền vững.
Theo quy định tại Điều 5 của Hiến pháp nước Cộng hòa Cuba, do đích thân Tổng Tư lệnh Fidel Castro soạn thảo và vẫn còn nguyên hiệu lực với trình tự và nội dung như trong Hiến pháp 1976, Đảng Cộng sản Cuba là lực lượng lãnh đạo cao nhất của xã hội và Nhà nước, giữ vai trò tổ chức và định hướng các nỗ lực chung hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, Hiến pháp mặc định tất cả các đảng viên đều có trách nhiệm to lớn, đồng thời trách nhiệm đảm bảo và đại diện cho khối đoàn kết dân tộc của chính đảng duy nhất phải bắt nguồn từ chính sự gương mẫu trong việc hoàn thành nghĩa vụ và các nguyên tắc hiến định, cũng như đáp ứng những yêu cầu cao về phẩm chất đạo đức, chính trị, tư tưởng và việc duy trì liên hệ chặt chẽ với quần chúng.
Với tư cách là tổ chức tập hợp lực lượng cách mạng tiên phong, Đảng phải gánh vách nhiệm vụ vẻ vang là kế thừa niềm tin mà nhân dân từng đặt vào vị lãnh tụ khai sáng Cách mạng Cuba, Tổng Tư lệnh Fidel Castro Ruz. Đây không phải là điều gì mới mẻ – tôi đã nói điều này cách đây 15 năm. Và để tránh mọi nhầm lẫn, tôi xin nhắc lại điều đó ngày hôm nay vì quan điểm này vẫn còn giá trị đối với đất nước trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Ngay từ ngày 14/3/1974, chính Fidel đã nói: “Đảng là đội ngũ tiên phong của nhân dân, là chốt chặn an toàn, là tổ chức đảm bảo cho nhân dân… Các bạn có biết điều gì mang lại sự an toàn cho cách mạng không? Chính là Đảng. Các bạn có biết điều gì mang lại sự trường tồn cho cách mạng không? Chính là Đảng. Các bạn có biết điều gì mang lại sự sống, tương lai cho cách mạng hay không? Chính là Đảng. Không có Đảng, cách mạng không thể tồn tại”.
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VII vào năm 2016, chúng ta đã ghi nhận những bước tiến trong việc thực hiện các mục tiêu được đề ra tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất, liên quan tới những điều chỉnh về phương pháp và phong cách làm việc của tổ chức Đảng dưới sự giám sát của các tổ chức cơ sở, nhiệm vụ xử lý những vấn đề chính trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước, với mục đích nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo về chức năng và quyết sách giữa Đảng và Nhà nước, Chính phủ và các thể chế hành chính. Chúng ta đã nhiều lần thực hiện điều này trong suốt 60 năm qua, và quả thực, phải thừa nhận rằng hầu như chúng ta chẳng làm được gì: mỗi thể chế phải có không gian riêng, và Đảng cũng có phương thức phù hợp, không ngừng lãnh đạo cùng các cơ quan hữu quan đã nêu, trong việc giải quyết những vấn đề ảnh hưởng tới đời sống nhân dân.
Điều lệ của Đảng định nghĩa đây là chính đảng kế thừa Đảng Cách mạng Cuba, do José Martí thành lập, để dẫn dắt cuộc đấu tranh giành độc lập, là đảng kế thừa Đảng Cộng sản đầu tiên do Carlos Baliño và Julio Antonio Mella thành lập, và là đảng ra đời từ sự hợp nhất tự nguyện giữa 3 tổ chức cách mạng dẫn đầu cuộc đấu tranh chống lại nền độc tài Batista.
Sự tồn tại một chính đảng duy nhất tại Cuba đã và sẽ luôn là mục tiêu trong các chiến dịch phá hoại của kẻ thù, vốn âm mưu chia rẽ và phá vỡ sự đoàn kết của người dân Cuba bằng những giọng điệu đường mật về nền dân chủ tư bản “bất khả xâm phạm”, xuất phát từ chiến thuật cổ xưa “chia để trị”.
Khối đại đoàn kết của tuyệt đại đa số người dân Cuba xung quanh Đảng, cùng sự nghiệp và lý tưởng của cách mạng chính là vũ khí chiến lược căn bản để chúng ta có thể đương đầu với mọi loạt đe dọa và hành động thù địch. Đó là lý do tại sao cần gìn giữ tình đoàn kết và không bao giờ chấp nhận sự chia rẽ giữa những người cách mạng bằng mệnh đề giả dối về mở rộng tính dân chủ, vì đó sẽ là bước đi đầu tiên để làm xói mòn cách mạng, chủ nghĩa xã hội và tiếp đó là độc lập dân tộc, để rồi từ đó trở lại dưới ách thống trị đế quốc của Mỹ.
Nếu chúng ta chỉ có một chính đảng duy nhất thì chúng ta phải thúc đẩy, trong hoạt động của Đảng và trong xã hội nói chung, tinh thần dân chủ rộng rãi và thường xuyên trao đổi một cách chân thành, sâu sắc những ý kiến, quan điểm, dù không phải lúc nào cũng giống nhau; phải thắt chặt mối liên hệ với quần chúng lao động và nhân dân, phải đảm bảo sự tham gia ngày càng rộng rãi của người dân vào những quyết sách then chốt.
Đảng ngày càng quan tâm sát sao hơn tới Đoàn Thanh niên Cộng sản, các tổ chức sinh viên và các phong trào thanh niên nhằm nâng cao vai trò và củng cố công tác chính trị - tư tưởng, đồng thời vẫn duy trì được tính độc lập về cơ cấu.
Để củng cố hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân, chúng ta đã tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại những thành kiến và mọi hình thức phân biệt vốn vẫn còn tồn tại âm ỉ.
Tương tự, chúng ta cũng đã cải thiện được mối quan hệ với các tổ chức tôn giáo và các hội đoàn ái hữu, những cơ sở ngày càng có vai trò rõ nét hơn trong nhiều lĩnh vực của đời sống.
Về các tổ chức quần chúng, chúng ta cần phải tiếp thêm sinh lực cho hoạt động của họ trong tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội và cập nhập mô hình vận động phù hợp với thời đại mới, với những đặc điểm rất khác so với những năm đầu của cách mạng khi các tổ chức này ra đời. Cần phải chấn hưng lại công tác từ cơ sở, tại các xí nghiệp, trên các nông trường, trong các khu phố để bảo vệ cách mạng và cuộc đấu tranh chống các biểu hiện coi thường kỷ cương xã hội. Cần nâng cao tính chiến đấu cách mạng và tinh thần không khoan nhượng, tăng cường đóng góp vào công tác tư tưởng, cuộc đấu tranh chống các âm mưu chống phá của kẻ thù và củng cố vững chắc các giá trị của chúng ta.
Đảng tiếp tục ủng hộ công tác của Hội liên hiệp Phụ nữ Cuba và các tổ chức khác bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, tố cáo bạo lực giới tính, đấu tranh chống thành kiến liên quan đến nạn phân biệt và kỳ thị xu hướng giới tính.
Thực hiện chức năng được giao, Hội đồng Nhà nước đã thông qua việc thành lập ủy ban soạn thảo tiền dự thảo Bộ luật Gia đình để trình Quốc hội thảo luận và sau đó tiến hành tham khảo ý kiến nhân dân. Công tác này hiện đang được triển khai theo lộ trình.
Đại tướng Raul Castro đánh giá cao phẩm chất của tân Bí thư thứ nhất PCC Miguel Díaz-Canel Bermúdez (Ảnh: ACN)
Việc triển khai chương trình của Chính phủ và của ủy ban do Chủ tịch nước Miguel Diáz-Canel đứng đầu nhằm giải quyết tình trạng phân biệt chủng tộc là bước đi cụ thể để tăng cường hiệu quả cuộc đấu tranh chống lại tệ nạn có nguồn gốc từ quá khứ này và dẫn dắt cuộc tranh luận công khai về đề tài này một cách mạch lạc hơn.
Mặt khác, mặc dù công tác tư tưởng là một trong những trọng điểm trong công tác chỉ đạo của Đảng, tôi phải thừa nhận rằng mình không hài lòng với những kết quả đã đạt được.
Mặc dù đúng là các phương tiện truyền thông của chúng ta có đặc điểm là tôn trọng sự thật và phản bác những điều dối trá, nhưng mặt khác vẫn còn nhiều biểu hiện của quan điểm đắc thắng, giọng điệu tự mãn và hời hợt khi đề cập tới thực trạng của đất nước. Trong nhiều trường hợp, các sản phẩm báo chí thay vì làm rõ tình hình lại có xu hướng gây hiểu nhầm. Những điểm yếu này làm tổn hại uy tín của chính sách thông tin và truyền thông xã hội đã được thông qua. Việc đưa tin kịp thời về những quyết sách và diễn biến thời sự không nên ảnh hưởng tới tính khách quan, tính chuyên nghiệp và đặc biệt là định hướng chính trị.
Công tác chính trị-tư tưởng vẫn đang giậm chân tại chỗ. Đây là lĩnh vực đòi hỏi tư duy sáng tạo, ý chí tự điều chỉnh một cách hiệu quả với hoàn cảnh sống, thúc đẩy công tác nghiên cứu, học tập lịch sử đất nước, truyền tải tới người dân thông điệp lạc quan và tin tưởng rằng cùng nhau chúng ta sẽ biết cách đương đầu và chiến thắng mọi trở ngại. Tóm lại, cần có một cuộc cải tổ sâu sắc để củng cố bản chất và những giá trị được sinh ra từ sự nghiệp cách mạng.
Kẻ thù đã đẩy mạnh chương trình chống phá và gây ảnh hưởng tới tư tưởng và văn hóa nhằm mục tiêu hạ thấp uy tín của mô hình phát triển xã hội chủ nghĩa và đưa ra lựa chọn thay thế duy nhất là khôi phục tư bản chủ nghĩa.
Chính sách của Mỹ với Cuba tập trung vào việc phá vỡ khối đoàn kết dân tộc. Chúng đã ưu tiên các hành động nhắm vào tầng lớp thanh niên, phụ nữ và giới học giả, thành phần nghệ sĩ và trí thức, các nhà báo, vận động viên thể thao và những nhóm người thiểu số về xu hướng giới tính và tôn giáo. Chúng thao túng những đề tài cụ thể thuộc mối quan tâm của các nhóm đặc thù như bảo vệ động vật, môi trường, khuynh hướng nghệ thuật và văn hóa, tất cả nhắm tới việc phủ nhận các thể chế hiện có.
Chúng không ngừng tài trợ cho các âm mưu phá hoại với việc sử dụng các cơ sở phát thanh và truyền hình có trụ sở tại Mỹ, đồng thời tăng cường hỗ trợ tài chính cho các nền tảng truyền bá nội dung tư tưởng công khai kêu gọi lật đổ Cách mạng, kêu gọi tổ chức biểu tình tại các không gian công cộng, kích động các hành vi phá hoại và khủng bố, kể cả sát hại những cán bộ công quyền và đại diện chính quyền cách mạng. Thậm chí chúng còn ngang nhiên công khai biểu giá chi trả từ Mỹ cho những kẻ tiến hành những hành vi phạm pháp này.
Chúng ta không được quên rằng Chính phủ Mỹ đã thành lập “Nhóm công tác về vấn đề Internet ở Cuba”, với ý đồ biến mạng xã hội trở thành kênh chống phá, tạo ra các mạng truyền thông nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước và thực hiện các cuộc tấn công mạng nhằm vào các cơ sở hạ tầng trọng yếu của Cuba.
Từ vài thập kỷ trước, chúng ta từng đề cập tới những lợi ích và tác hại của việc sử dụng Internet và mạng xã hội trước Quốc hội tại chính hội trường này, thậm chí đã ví von Internet giống như món lưỡi trong câu chuyện ngụ ngôn của Aesop: là thứ đại diện cho cả những điều tốt đẹp nhất lẫn những điều xấu xa nhất. Tới lúc này, đã không còn chỗ cho sự ngây thơ hay hào hứng quá mức với việc áp dụng công nghệ mới mà không đảm bảo được an ninh mạng.
Dường như đã không còn giới hạn cho những lời dối trá, hành vi thao túng và truyền bá thông tin sai sự thật. Thông qua những hành động này, kẻ thù bịa đặt và lan truyền hình ảnh về một xã hội Cuba đang hấp hối và không có tương lai, đang tiến sát tới bờ vực sụp đổ và bùng nổ xã hội như chúng hằng ao ước. Thế nhưng, sự thật lại hoàn toàn khác. Các thế lực phản cách mạng trong nước - vốn thiếu cơ sở xã hội, khả năng lãnh đạo và vận động quần chúng - tiếp tục bị suy yếu do sự giảm sút về số lượng thành viên và các hoạt động gây tác động xã hội, và chỉ tập trung hoạt động trên các trang mạng xã hội và Internet.
Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng những con phố, công viên và quảng trường đang và sẽ luôn thuộc về những người cách mạng và chúng ta sẽ không bao giờ từ chối quyền được bảo vệ cuộc cách mạng của những người dân anh hùng.
Chính trong hoàn cảnh này đòi hỏi phải có sự chuyển đổi mà tôi vừa nói với các đồng chí trong mặt trận tư tưởng.
Về chính sách cán bộ, chúng ta đã tiếp tục triển khai nghị quyết của các kỳ Đại hội gần đây và của Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất, ghi nhận những tiến bộ trong khía cạnh nhận thức về tổ chức và thực hiện chính sách đổi mới từng bước các vị trí lãnh đạo then chốt. Tương tự, đã có sự gia tăng từng bước và đều đặn xu hướng đề bạt các cán bộ trẻ, phụ nữ và người da màu dựa trên thành tích công tác và năng lực cá nhân, mặc dù kết quả đạt được vẫn chưa thỏa đáng nếu xét tới trách nhiệm to lớn của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Việc giới thiệu cán bộ trẻ từ Đoàn Thanh niên Cộng sản vào các vị trí chuyên trách công tác Đảng tiếp tục được triển khai.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những yếu kém trong việc thực hiện chính sách cán bộ, được phản ánh qua xu hướng làm việc hình thức và hời hợt của không ít cán bộ tự coi mình là quan trọng và không chú tâm tới công tác đào tạo lực lượng dự bị. Đã có biểu hiện của tình trạng thiếu liên hệ với nhân dân, thiếu nhạy cảm và năng lực huy động tập thể khi cần giải pháp cho những vấn đề chung và công tác chỉ đạo yếu kém.
Văn hóa giao tiếp vẫn chưa hoàn thiện và điều đó giới hạn khả năng khích lệ, thấu hiểu, hòa đồng và tranh luận về những vấn đề mà quần chúng lao động cùng quan tâm. Vẫn có những trường hợp đề bạt cán bộ vào các vị trí lãnh đạo mà chưa chứng minh được năng lực và đào tạo tương ứng, trong khi ý thức chủ động đưa vào quy hoạch các cán bộ là phụ nữ và người da màu vẫn còn yếu.
Vẫn còn tồn tại tình trạng giữ lại các lãnh đạo cấp phó và cán bộ mà tập thể đều cho rằng không hội đủ điều kiện để được bổ nhiệm cấp cao hơn, gây tổn hại tới thẩm quyền của người đứng đầu đơn vị và làm trì trệ sự phát triển tự nhiên, bình thường của dây chuyền đề bạt và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo mới.
Tôi cho rằng giờ là lúc thích hợp để trích dẫn nội dung của Điều 4 trong Hiến pháp, rằng “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vinh dự to lớn nhất và là nghĩa vụ tối thượng của mỗi người dân Cuba”.
Đây là điều mà mọi đảng viên phải thấm nhuần khi thực thi mỗi một nhiệm vụ, trong đó có cả nhiệm vụ triển khai công tác cán bộ. Không thể chấp nhận việc đề bạt các đồng chí không hoàn thành nghĩa vụ quân sự mà không đưa ra được lý do chính đáng, trong khi đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi công dân. Cán bộ phải là những người tiên phong gương mẫu. Theo thời gian, vấn đề này sẽ ngày càng trở nên quan trọng. Tới năm 2030, tỷ lệ sinh có xu hướng ở mức thấp là một vấn đề nghiêm trọng đối với chúng ta trong rất nhiều khía cạnh, do đó phải tìm ra những giải pháp khác.
Trong vấn đề này, chúng ta đã có một ví dụ quý giá. Đó là quyết định năm 2002 theo đề xuất của Bộ Ngoại giao, quy định rằng toàn bộ học viên thuộc cả 2 giới của Học viện cấp cao ngành Quan hệ quốc tế trước khi nhập học đều phải trải qua 1 năm nghĩa vụ quân sự tại Lữ đoàn Biên phòng, đối diện căn cứ hải quân phi pháp của Mỹ đóng tại Guantánamo. Trong 19 năm qua, Bộ Ngoại giao đã không cho phép xảy ra bất kỳ ngoại lệ nào.
Trước xu hướng già hóa dân số của nước ta, mà một trong những hiệu ứng tiêu cực của nó là sự hạn chế số lượng công dân trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự theo quy định, thì kinh nghiệm này của Học viện cấp cao ngành Quan hệ quốc tế cần được nghiên cứu theo hướng phổ quát hóa nhằm áp dụng cho tất cả các học viên cấp sau đại học.
Chính đồng chí Chủ tịch nước Díaz-Canel, theo lời kêu gọi của Tổng tư lệnh, đã tự nguyện hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại đơn vị phòng không để học hỏi kỹ thuật mới, sau khi tốt nghiệp ngành Kỹ sư điện tử tại Đại học trung ương Las Villas. Và theo như chia sẻ của đồng chí với cá nhân tôi, giai đoạn 3 năm đó đã rất hữu ích với bản thân đồng chí trong quá trình trưởng thành với tư cách một cán bộ cách mạng. Tôi muốn chúng ta gửi một tràng pháo tay tới đồng chí Chủ tịch nước vì thái độ gương mẫu này.
Do tính chất chiến lược, chính sách cán bộ đòi hỏi phải được hoàn thiện và cập nhật liên tục, nhằm đảm bảo năng lực chọn lựa, đào tạo và đề bạt những cán bộ nhiệt huyết với cách mạng, khiêm tốn, trung thực, gương mẫu, có khả năng lãnh đạo và kiên định về lý tưởng trước mọi cám dỗ của thói xa hoa, phù phiếm, tự mãn và những tham vọng cá nhân khác.
Chính sách cán bộ của Đảng Cộng sản Cuba phải đảm bảo được đội ngũ lãnh đạo tương lai có sự gắn kết chặt chẽ với quần chúng, có khả năng vận động, đối thoại, phân tích và giải quyết vấn đề hiệu quả, có tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật, theo đuổi tôn chỉ lãnh đạo tập thể là phương thức duy nhất để tìm ra giải pháp tối ưu cho các vấn đề phát sinh.
Tiếp theo, tôi xin đề cập tới chính sách đối ngoại.
Bối cảnh quốc tế mà chúng ta đối diện hôm nay đã khác với thời điểm tháng 4/2016, khi chúng ta tổ chức Đại hội lần thứ VII. 5 năm qua đã chứng kiến Chính phủ Mỹ gia tăng thái độ thù địch ở mức độ chưa từng có.
Về mặt lịch sử, bá quyền của Mỹ luôn là mối đe dọa đối với vận mệnh và sự tồn vong của đất nước Cuba. Đây không phải là một hiện tượng mới. Nó đã song hành với người dân Cuba từ thuở đầu thành lập nước, khi nhân dân ta bắt đầu có khát vọng và mơ ước về độc lập và quyền tự chủ.
Đây vốn đã là thách thức đối với những người anh hùng phát động cuộc chiến chống thực dân Tây Ban Nha vào thế kỷ 19. Nhiều thế hệ người Cuba tiếp nối cuộc đấu tranh vì độc lập trong thế kỷ 20 luôn phải đối mặt với mối đe dọa đó, và nhân dân ta hôm nay, khi bảo vệ tình đoàn kết, tự do và công bằng đã giành được, cũng vẫn phải đối diện với nó.
Bá quyền Mỹ đã thể hiện một cách đặc biệt thô bạo trong cuộc chiếm đóng quân sự nước ta từ năm 1898 tới năm 1902, và sau đó là việc áp đặt Tu chính án Platt như một phụ lục vào Hiến pháp Cuba khi đó.
Mỹ càng củng cố được bá quyền của mình với Hiệp ước quan hệ song phương năm 1934, một đề tài mà theo quan sát của tôi trong các cuộc trò chuyện thường ngày thì hầu như không ai hiểu rõ. Theo thỏa thuận này, người láng giềng phương Bắc của chúng ta đã buộc chính phủ phải chấp nhận sự hiện diện mang tính đe dọa của các đơn vị hải quân Mỹ tại ngay vịnh La Habana. Từ đó, Tu chính án Platt được thay thế, một cử chỉ thân thiện bề ngoài nhưng đầy giả dối khi mà những điều khoản mang tính xúc phạm chủ quyền nhất vẫn được giữ nguyên và được bổ sung thêm những cam kết chính trị và kinh tế làm gia tăng sự lệ thuộc của Cuba vào Mỹ, cho tới tháng 1/1959 lịch sử.
Đó là thách thức gắn liền với khái niệm về vận mệnh hiển nhiên của nước Mỹ, với Học thuyết Monroe tàn bạo và những quan niệm trong khuôn khổ chủ nghĩa toàn châu Mỹ mà đế quốc Mỹ triển khai nhằm áp đặt ách thống trị đối với toàn bộ khu vực kể từ thời đại của nhà giải phóng Simón Bolivar.
Trong 4 năm qua, ngoài sức mạnh vật chất to lớn và bất cân xứng vốn có của Mỹ cùng chính sách leo thang thù địch chống Cuba, còn có cả thái độ “đứng trên pháp luật”. Chính phủ Mỹ dường như tin rằng họ được phép tùy ý hành động và có quyền áp đặt buộc cả thế giới phải đi theo ý chí của họ chỉ bằng việc sử dụng sức mạnh thuần túy, và mưu đồ đẩy những trụ cột chính trị, luật pháp và đạo đức của các mối quan hệ quốc tế trong nhiều thập kỷ vào tình trạng khủng hoảng.
Cộng đồng quốc tế dường như bất lực trong việc cản trở hành vi chà đạp và lạm dụng ngang nhiên của cường quốc kinh tế, quân sự và công nghệ lớn nhất thế giới, trong khi cách hành xử vô trách nhiệm của họ lại chính là mối đe dọa lớn nhất cho hòa bình, ổn định, cân bằng sinh thái và cho chính sự sống trên Trái đất.
Bối cảnh đó lý giải phần nào hệ quả đặc biệt gây tổn hại của cuộc bao vây cấm vận kinh tế mà Mỹ áp đặt đối với nước ta. Nó cũng phơi bày những điểm yếu của một nền kinh tế quốc tế ngày càng giao thoa và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, ngày càng phục tùng ý chí của những trung tâm tài chính hùng mạnh vốn bị Washington kiểm soát.
Bất chấp nhiều lần bị phản đối và gần như nhất quán của cộng đồng quốc tế, cuộc bao vây này tiếp tục gây tổn hại tới quan hệ kinh tế của Cuba với tất cả các nước trên thế giới, bất kể những nước đó có lập trường chính trị hay trạng thái quan hệ nào với nước ta.
Trong nhiều trường hợp, chính phủ các nước thậm chí còn không có khả năng buộc các doanh nghiệp của chính nước mình phải tuân thủ những cam kết tự chủ quốc gia, khi những doanh nghiệp này luôn phải ngoan ngoãn phục tùng ý chí của Washington, như thể chúng ta đang sống trong một thế giới nô lệ dưới quyền lực đơn cực của Mỹ.
Đây là hiện tượng có tác động đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực tài chính, khi mà giới ngân hàng của nhiều nước ưu tiên tuân thủ các quy định của Chính phủ Mỹ hơn cả những quyết sách chính trị của chính phủ nước mình. Những thông lệ này ngày càng trở thành xu thế chung với sự mở rộng của quá trình toàn cầu hóa theo mô hình tự do mới.
Cuộc bao vây cấm vận mà nhân dân ta đã phải đối mặt trong suốt 60 năm qua với vô vàn nỗ lực, hi sinh và sự sáng tạo, hẳn đã có thể đè bẹp nền kinh tế và sự ổn định xã hội của bất kỳ quốc gia nào, kể cả những nước giàu có và hùng mạnh hơn Cuba. Đó là cuộc chiến kinh tế toàn diện, bất cân xứng và kéo dài nhất chống lại một quốc gia mà lịch sử thế giới từng ghi nhận.
Chỉ trong những điều kiện của hệ thống xã hội chủ nghĩa, dựa trên công bằng xã hội, khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng và ý chí đồng lòng bảo vệ đất nước, thì một quốc gia chậm phát triển, tương đối nhỏ bé và thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên như nước ta mới tránh được nguy cơ sụp đổ và thậm chí tiến bước trên con đường phát triển của mình.
Chính sách chống Cuba mà chính quyền tiền nhiệm của Mỹ áp dụng được tăng cường đúng vào thời điểm khắc nghiệt của đại dịch COVID-19. Nó đã phơi bày rõ ràng bản chất vô nhân đạo của chủ nghĩa đế quốc.
Đôi khi, nhiều người không hiểu một cách đầy đủ và đánh giá đúng những dữ liệu khách quan về tổn thất mà Mỹ đã gây ra cho nền kinh tế Cuba và tác động của hơn 240 biện pháp cưỡng ép đơn phương mà Washington đã áp đặt từ năm 2017. Cần phải hiểu rằng đây không chỉ đơn thuần là những hành động gia tăng cấm vận, mà chúng là những biện pháp mới, một vài trong số đó còn chưa từng có tiền lệ, góp phần nâng quy mô của cuộc chiến kinh tế này lên một nấc thang mới xét về tính chất thù địch, được phản ánh qua sự thiếu thốn vật chất trong cuộc sống hàng ngày của mỗi một người dân Cuba.
Thêm vào đó, còn phải kể tới chiến dịch tuyên truyền do Washington tài trợ với luận điệu dối trá rằng cuộc bao vây cấm vận này không có thật, rằng nó không thực sự gây tổn hại tới nền kinh tế Cuba, và rằng nó không phải là vấn đề đáng kể đối với sự phát triển và ổn định kinh tế của nước ta. Đó là thông điệp bịa đặt sai trái được truyền tải qua các phương tiện thông tin có sức ảnh hưởng nhằm phục vụ lợi ích của đế quốc và các mạng thông tin công nghệ số được lập ra nhằm tác động tới suy nghĩ của nhiều người, trong đó có cả một số đồng bào của chúng ta.
Một trong những hành động đầu tiên để siết chặt vòng cương tỏa kinh tế chống Cuba của Chính quyền Mỹ tiền nhiệm là việc đưa ra bản danh sách các tổ chức doanh nghiệp Cuba phải chịu các hạn chế bổ sung ngoài những hạn chế sẵn có từ lệnh cấm vận. Danh sách này, được công bố vào tháng 11/2017 và được cập nhật vài lần sau đó, hiện bao gồm 231 đơn vị, trong đó có nhiều doanh nghiệp thuộc hệ thống thương mại bán lẻ trong nước, hệ thống cung ứng các mặt hàng thiết yếu nhất cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, toàn bộ các cơ sở khách sạn trong nước và một số thể chế tài chính.
Chính phủ Mỹ biện minh cho hành động này rằng họ đang hạn chế hoạt động của những doanh nghiệp thuộc khu vực quốc phòng và an ninh, những doanh nghiệp bị cáo buộc vi phạm nhân quyền tại Cuba và can thiệp vào Venezuela.
Nhân dân ta hiểu rõ rằng hành vi phi pháp này nhắm vào các doanh nghiệp thành công mà chức năng hoạt động của chúng hoàn toàn mang tính kinh tế và thương mại, như tại bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, từ đó có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc gia.
Với những kinh nghiệm rút ra từ lịch sử phát triển đất nước, nhân dân ta cũng hiểu rõ rằng mục tiêu của biện pháp này là siết chặt vòng vây kinh tế nhằm phá hoại hệ thống doanh nghiệp, cản trở tiến trình cập nhật kinh tế, phá vỡ khả năng quản lý của nhà nước và kích động hành vi kinh tế không chính thức, xé nhỏ hoạt động kinh tế và gieo rắc sự hỗn loạn, với mục tiêu bóp nghẹt đất nước và châm ngòi cho các cuộc biểu tình trong xã hội.
Trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, chúng ta đã dành nhiều nguồn lực để đảm bảo lượng trang thiết bị và vật tư cần thiết cho các bệnh viện và trung tâm hỗ trợ. Chi phí này hẳn đã thấp hơn rất nhiều nếu Cuba không phải đi tới những thị trường xa xôi và trong nhiều trường hợp phải nhập khẩu những công nghệ nằm trong danh mục cấm vận thông qua trung gian.
Mặt khác, cuộc cấm vận về tài chính thực chất là một cuộc truy vết các giao dịch của Cuba, gây tổn hại nghiêm trọng tới khả năng thanh toán của chúng ta đối với các sản phẩm và dịch vụ nhập khẩu hay việc nhận tiền chi trả cho các sản phẩm xuất khẩu của chúng ta, khiến toàn bộ hoạt động ngoại thương bị sụt giảm.
Để trừng phạt những người Cuba sống ở trong và ngoài nước, Mỹ ban đầu hạn chế và sau đó đã cắt đứt mọi phương thức gửi kiều hối về Cuba.
Những thực tiễn này được minh chứng qua việc thiếu hụt các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân. Chúng cũng là nguyên nhân dẫn đến vô vàn khó khăn mà ngành công nghiệp quốc gia phải đối mặt trong việc tìm kiếm đủ vật tư cần thiết, hoàn thành đúng thời gian và đạt chất lượng quy định để đảm bảo sản xuất. Yếu tố này bao trùm các sản phẩm tiêu dùng cho tới thuốc men và thực phẩm chế biến.
Việc siết chặt cấm vận cũng khiến chúng ta khó có thể thực thi các cam kết tài chính quốc tế, bất chấp quyết tâm tuân thủ các thỏa thuận này và nỗ lực thực hiện những khoản thanh toán, mà dù ở mức khiêm tốn vẫn đòi hỏi phải có sự hy sinh to lớn.
Mỹ cũng tăng dần mức độ triển khai các biện pháp hạn chế đi lại tới Cuba, cả bằng đường không lẫn đường biển, gây tổn thất lớn cho một bộ phận đáng kể thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.
Thiệt hại mà các biện pháp này gây ra đối với đời sống của nhân dân không phải là điều ngẫu nhiên hay là thiệt hại ngoài dự kiến. Đó là hậu quả trực tiếp và là mục tiêu cụ thể của một chính sách nhằm trừng phạt toàn bộ nhân dân Cuba.
Một trong những hành động đáng kể nhất, xét về mức độ tàn bạo, hành vi coi thường luật pháp quốc tế và thái độ ngang ngược, là việc Mỹ tước đoạt các nguồn cung nhiên liệu cho Cuba từ tháng 4/2019. Để thực hiện điều này, họ đã áp dụng các biện pháp thuộc phạm trù chiến tranh không theo quy ước nhằm cản trở các nguồn cung này tới được lãnh thổ Cuba.
Đây là một trong những hành động minh họa rõ nét nhất cho khía cạnh mới của cuộc chiến tranh kinh tế mà Mỹ phát động chống Cuba. Đối diện với nó, chúng ta đã phải trải qua những giai đoạn cam go và nếu cái giá phải trả không lớn tới mức mà Mỹ tính toán, thì nguyên nhân chỉ có thể là nhờ vào sức mạnh của xã hội mà chúng ta đã xây dựng và bảo vệ, cùng khả năng kháng cự kiên cường của dân tộc anh hùng.
Một hành vi khác khắc họa bản chất đế quốc của Mỹ và quá trình leo thang lập trường thù địch chống Cuba là chiến dịch vô đạo đức chống lại hoạt động hợp tác y tế quốc tế của Cuba, vốn không có hình mẫu tương đương trên thế giới. Đó là nỗ lực mang tính bản thể của những nguyên tắc đạo đức trong xã hội mà chúng ta xây dựng, dựa trên tinh thần chia sẻ những gì chúng ta có, chứ không phải cho đi những gì chúng ta thừa thãi. Thành công trong việc liên tục xây dựng một nguồn nhân lực dồi dào và một hệ thống y tế công mạnh mẽ, hiệu quả và bền vững, đã cho chúng ta cơ hội chia sẻ với các dân tộc khác.
Đó là một sự nghiệp mang tinh thần đoàn kết và sẽ được duy trì bất chấp những chiến dịch chống phá. Sự nghiệp ấy đã cứu sống nhiều sinh mạng, đối phó với nhiều loại bệnh tật, xoa dịu những nỗi đau và cải thiện điều kiện sức khỏe cho hàng triệu người trên thế giới, đại đa số là tại các bộ phận dân cư dễ bị tổn thương và yếu thế, tại các khu vực xa xôi hẻo lánh, và đôi khi trong những điều kiện làm việc vô cùng khó khăn, thậm chí là nguy hiểm. Sự nghiệp đó cũng bao gồm hoạt động hỗ trợ hiệu quả và đáng biểu dương tại các nước chịu thảm họa thiên nhiên.
Đòn công kích của Mỹ nhắm mục tiêu hạ thấp uy tín của một sự nghiệp đầy cao quý và đã được công nhận rộng rãi, tước đoạt những nguồn thu chính đáng, trung thực và hợp pháp của Cuba mà hàng nghìn y, bác sĩ và nhân viên y tế đã nỗ lực mang lại cho đất nước.
Tiếp cận y tế là quyền dành cho tất cả mọi người và Chính phủ Mỹ đã phạm phải một tội ác khi bóp nghẹt nguồn cung dịch vụ y tế duy nhất mà hàng triệu người trên thế giới có thể tiếp cận, chỉ để đe dọa chúng ta.
Ngoài tất cả những điều vừa nêu trên, vào tháng 4/2019, với mục đích hăm dọa các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp có quan hệ kinh tế và thương mại với Cuba, lần đầu tiên Mỹ đã quyết định áp dụng Điều 3 Luật Helms-Burton “khét tiếng”, qua đó cho phép tòa án nước này được thụ lý các đơn kiện của công dân Cuba quốc tịch Mỹ đòi bồi thường đối với những tài sản từng được quốc hữu hóa một cách công bằng và hợp pháp trên lãnh thổ Cuba trong những năm đầu của cách mạng.
Đây không phải là một luật mới. Nó ra đời từ năm 1996, qua đó nâng chính sách bao vây cấm vận Cuba lên thành luật và đặt ra cho Chính phủ Mỹ các nhiệm kỳ nghĩa vụ tấn công Cuba về kinh tế, ở quy mô quốc tế và mang tính bao trùm. Đó cũng là sự ủy thác về mặt pháp lý đối với hoạt động kích động lật đổ chính trị và phá hoại trật tự hiến pháp tại Cuba, với ngân sách chính thức gồm hàng triệu USD mỗi năm.
Luật này còn đi xa tới mức hoạch định một chương trình can thiệp chính trị vào nước ta và thiết lập chế độ bảo hộ đặt Cuba dưới điều kiện của một vùng lãnh thổ phụ thuộc vào chủ quyền của Mỹ qua một quan chức giám hộ do Mỹ bổ nhiệm.
Đó là một công cụ hèn hạ, được những kẻ cơ hội đưa ra vào những thời điểm khắc nghiệt nhất trong thời kỳ đặc biệt của Cuba và vào lúc Washington tin rằng cách mạng không đủ khả năng đứng vững hay trung thành với ngọn cờ chủ nghĩa xã hội và bảo vệ sự nghiệp mà các anh hùng liệt sĩ của chúng ta đã gây dựng bằng xương máu.
Đó là lý do vì sao chúng ta nói rằng đây là đạo luật mà nhân dân ta sẽ không thể nào quên, ngay cả khi nó bị hủy bỏ vào một thời điểm nào đó.
Tháng 12/2014, khi chúng ta cùng với Chính phủ Mỹ dưới quyền Tổng thống Barack Obama tiến tới một thỏa thuận tốt đẹp giữa hai nước, tôi đã phát biểu trước Quốc hội rằng “tuy đã có một bước đi quan trọng, nhưng chúng ta vẫn còn phải giải quyết vấn đề cốt lõi, đó là việc xóa bỏ cuộc bao vây, cấm vận về kinh tế, thương mại và tài chính nhằm vào Cuba, vốn bị thắt chặt trong những năm gần đây, đặc biệt là trong lĩnh vực giao dịch tài chính, với những án phạt bất hợp lý chống lại ngân hàng của nhiều nước thứ ba”.
Lối hành xử hung bạo của Chính quyền Trump một lần nữa là minh chứng rõ ràng rằng bất kỳ triển vọng phát triển bền vững nào của quan hệ hai nước cũng đều phải gắn liền với việc xóa bỏ cuộc bao vây cấm vận kinh tế và khuôn khổ pháp lý vốn đang bảo trợ chính sách thù địch đó.
Chúng ta không hề ảo tưởng rằng đây là điều dễ dàng và đơn giản, mà ngược lại, nó đòi hỏi nhà cầm quyền Mỹ phải có nhận thức chính trị công tâm và thái độ cầu thị. Cuba đã và đang nhấn mạnh rằng chúng ta không xác định nhân dân Mỹ là kẻ thù, và rằng sự khác biệt về chính trị và tư tưởng không cản trở một mối quan hệ tôn trọng và văn minh giữa hai nước láng giềng. Chúng ta thậm chí còn bày tỏ rằng có thể phát triển một mối quan hệ hợp tác trong nhiều vấn đề có lợi cho cả hai nước và cho khu vực.
Chúng ta không bao giờ quên rằng trong nội dung của Điều 16, mục a) của Hiến pháp có khẳng định không bao giờ đàm phán các mối quan hệ kinh tế, ngoại giao và chính trị với bất kỳ một nhà nước nào khác trong điều kiện bị xâm phạm, đe dọa hay cưỡng ép.
Tại Đại hội Đảng lần này, tôi tái khẳng định mong muốn thúc đẩy đối thoại mang tính tôn trọng và xây dựng quan hệ theo hình thái mới với Mỹ. Điều đó không có nghĩa rằng để đạt được mục tiêu này, Cuba phải từ bỏ những nguyên tắc của cách mạng và chủ nghĩa xã hội, thực hiện những nhượng bộ mang tính ràng buộc về chủ quyền và độc lập, hay lùi bước trong việc bảo vệ những lý tưởng và thực hành chính sách đối ngoại của mình, vốn gắn liền với sự nghiệp chính nghĩa, việc bảo vệ quyền tự quyết của các dân tộc và sự ủng hộ lịch sử đối với các nước anh em.
Đồng thời, cũng ta cũng có nghĩa vụ phải luôn đề cao cảnh giác, phải nhận thức rõ những bài học về lịch sử, và phải bảo vệ quyền chủ quyền mà biết bao thế hệ người Cuba đã ngã xuống vì nó.
Không được lơ là phòng vệ và với nỗ lực liên tục và quyết tâm, chúng ta phải xây dựng các nền tảng kinh tế cho phép chúng ta đương đầu hiệu quả với cuộc chiến kinh tế không ngừng nghỉ và bất cân xứng từ một cường quốc sẵn sàng lợi dụng tầm vóc sức mạnh và ảnh hưởng kinh tế của mình để xâm hại Tổ quốc ta. (Còn tiếp)
Theo TTXVN