1. Đặt vấn đề
Phát triển xã hội từ lâu đã là khát vọng, là mục tiêu hướng tới trong chiến lược phát triển của các quốc gia, dân tộc. Một xã hội văn minh, thịnh vượng luôn đảm bảo cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần cho mọi công dân. Chính vì vậy, khi xây dựng chiến lược phát triển tổng thể, các quốc gia đều mong muốn đề cao mục tiêu phát triển bền vững, tránh tăng trưởng bằng mọi giá đi liền với sự hủy hoại môi trường sinh thái và bất bình đẳng xã hội.
Ở Việt Nam, mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” được Đảng và nhân dân ta nỗ lực phấn đấu thực hiện nhằm hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Tổng Bí thư Nguyễn Phúc Trọng đã chỉ rõ: “đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”.[1]
Phát triển xã hội (PTXH) là sự vận động, biến đổi theo hướng tiến bộ, hợp quy luật của cấu trúc và các thiết chế xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu an sinh và phúc lợi, nâng cao chất lượng sống của con người, xây dựng môi trường xã hội văn minh, lành mạnh. Về bản chất, PTXH là nhằm phát triển con người, với nội hàm bao quát cả chỉ số phát triển con người HDI (tuổi thọ, học vấn, sức khỏe) mà các quốc gia trên thế giới luôn phấn đấu. Hội nghị Thượng định toàn cầu 2030 về Phát triển bền vững (tháng 9/2015) đã đưa ra nội hàm chủ yếu của phát triển xã hội bao gồm:
- Xóa bỏ nghèo đói, tạo việc làm bền vững, có năng suất và hỗ trợ sinh kế cho người dân.
- Tạo dựng môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp lý phù hợp cho phép mọi công dân phát triển toàn diện.
- Tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận rộng rãi và công bằng các dịch vụ nhà ở, giáo dục, y tế có chất lượng.
- Phát triển giáo dục-đào tạo, tạo công bằng về cơ hội giáo dục, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Thúc đẩy gắn kết và đồng thuận xã hội trên cơ sở củng cố quyền con người và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Giảm bất bình đẳng xã hội, bảo vệ các nhóm dễ tổn thương.
- Thực hiện bình đẳng giới trong các lĩnh vực.
- Tăng cường nguồn lực cho phát triển xã hội.
Các quốc gia không phân biệt trình độ phát triển, hệ thống chính trị, đang nỗ lực phấn đấu thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs ) nhằm chấm dứt nghèo đói, bảo vệ hành tinh và đảm bảo sự thịnh vượng của nhân loại. Giải pháp quan trọng của quản lý PTXH là hoàn thiện chính sách, thể chế để có thể huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả, quản lý rủi ro và khủng hoảng để ổn định xã hội, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của người dân, bảo đảm chất lượng cuộc sống ngày một gia tăng và hoàn thiện. Các chủ thể tham gia PTXH bao gồm: Nhà nước, thị trường, các tổ chức xã hội, cộng đồng, nhóm và cá nhân, có vai trò và chức năng khác nhau ở từng quốc gia. Tuy nhiên, Nhà nước như một tổ chức quyền lực chính trị trong quản lý xã hội phải là chủ thể tổ chức, giám sát ở tầm vĩ mô việc thực hiện các chiến lược, chính sách, chương trình quốc gia về PTXH.
Bài viết tập trung xem xét các đặc trưng và xu hướng phát triển xã hội của các nước tư bản phát triển trong phạm vi 20 năm qua. Các nước tư bản phát triển được xem xét bao gồm các nước Bắc Âu và Tây Âu (Thụy Điển, Đức, Pháp, Anh, Tây Ban Nha), Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc). Đây là những quốc gia theo mô hình chủ nghĩa tư bản phúc lợi, chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và chủ nghĩa tư bản nhà nước. Song các quốc gia này có đặc điểm chung là sự bứt phá trong phát triển kinh tế, tốc độ công nghiệp hóa và năng suất lao động cao, đầu tư nguồn lực cho phát triển xã hội, bảo vệ môi trường. Việc tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia tư bản phát triển nhằm rút ra những đặc điểm và nhận diện các xu hướng trong PTXH, để Việt Nam có thể tận dụng tốt hơn các điều kiện và cơ hội phát triển xã hội bền vững.
2. Đặc điểm phát triển xã hội ở các nước tư bản phát triển
Cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội cho mọi người
Không có quốc gia nào thành công trong PTXH mà lại không hài hòa giữa phát triển phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Đây là đặc trưng phổ quát trong xây dựng hệ thống dịch vụ và phúc lợi xã hội ở các quốc gia PTXH thành công. Việc hoạch định các chính sách xã hội dựa trên mục tiêu “phúc lợi cho mọi người” nhằm tạo điều kiện cho quản đại quần chúng hưởng thụ của cải quốc gia bằng nỗ lực của chính bản thân với sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội. Việc duy trì và tăng trưởng kinh tế cao, ổn định là điều kiện rất quan trọng để các quốc gia phát triển có thể đảm bảo an sinh và phúc lợi cho mọi người.
Lấy lợi ích số đông và sự hài lòng của người dân là tiêu chí đánh giá hiệu quả chính sách
Các nước tư bản chú trọng xây dựng mạng lưới bảo trợ xã hội rộng khắp để bảo đảm cho mọi người dân được hưởng những dịch vụ phúc lợi cơ bản. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nhu cầu của cá nhân trong xã hội, thực hiện những quyền cơ bản của công dân, nhất là quyền an sinh. Bên cạnh đó, các quốc gia còn dựa vào các tổ chức tôn giáo, nhà thờ và coi đây là một kênh đảm bảo an sinh xã hội quan trọng, là chỗ dựa của một bộ phận đáng kể dân chúng.
Các quốc gia tư bản phát triển đều lấy công bằng xã hội là mục đích chính trị và kinh tế, thông qua các biện pháp phân bổ lại thu nhập theo hướng có lợi cho những người không thể tự giúp mình. Công bằng không phải là chia đều hay cào bằng mà là tạo cơ hội và khả năng tiếp cận cơ hội đồng đều nhau, không có phân biệt cho tất cả mọi người. Mục tiêu này được đánh giá bởi đa số người dân thông qua bầu cử tự do, dân chủ và các cuộc trưng cầu dân ý định kỳ về sự hài lòng.
Ưu tiên đào tạo và trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao, phát triển con người
Với một hệ thống giáo dục - đào tạo tiên tiến, chất lượng hàng đầu, các quốc gia Tây Âu, Bắc Âu và Hoa Kỳ luôn là địa bàn thu hút rất nhiều sinh viên và nhân tài đến từ khắp nơi trên thế giới. Với hệ thống văn bằng và chương trình học tập chất lượng, tiên tiến và có nhiều sự lựa chọn cho người học. Hệ thống giáo dục quốc dân phát triển mạnh qua nhiều thập kỷ đã góp phần đào tạo những chuyên gia giỏi, nhà khoa học có trình độ, đủ sức riển đất nước. Phát triển giáo dục và đào tạo nhân lực chất lượng cao là đặc trưng của PTXH ở các nước tư bản phát triển, Không thực hiện cào bằng cán bộ, viên chức mà dựa trên cách đánh giá và những tiêu chí đặt ra cho một vị trí công việc. Chính sự đầu tư cho giáo dục và nguồn nhân lự có chất lượng đã góp phần quan trọng để phát triển bền vững nói chung và phát triển xã hội nói riêng.
Tôn trọng quyền con người, đảm bảo dân chủ trong quản lý xã hội với sự giám sát của người dân và các tổ chức xã hội
Dân chủ là một hình thức tổ chức xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là cái gốc của quyền lực chính trị thông qua hệ thống bầu cử tự do. Tất cả mọi thành viên trong xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực và người lãnh đạo đất nước một cách bình đẳng, không có rào cản. Trong thực hành dân chủ, mọi công dân đều được hưởng các quyền tự do được pháp luật công nhận và bảo vệ. Như một giá trị phổ quát của nhân loại, dân chủ có không gian chính trị rộng lớn và dân chủ hóa là xu hướng tiến bộ và tất yếu trong PTXH.
Nền dân chủ của các nước tư bản phát triển được cũng cố bằng sự bảo đảm hầu hết các quyền con người trong điều kiện xã hội phát triển. Các tổ chức ngoài nhà nước tham gia hỗ trợ, tư vấn đối thoại với giới chủ và nhà nước, trực tiếp có mặt trong nhiều lĩnh vực hàng đầu của PTXH như công bằng xã hội, quyền con người, bảo vệ khí hậu và môi trường, tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp, thúc đẩy bình đẳng giới… nhằm tạo điều kiện cho người dân và xã hội giám sát, đánh giá và phản biện những vấn đề liên quan đến quá trình PTXH.
Đầu tư nguồn lực cho phát triển xã hội và con người
Để có thể có được những đặc trưng trên, các nước tư bản phát triển đã đầu tư nguồn lực đáng kể cho phát triển xã hội và con người. Những thành tựu phát triển kinh tế và tốc độ tăng trưởng cao đã tạo điều kiện cho chi tiêu xã hội. Đặc biệt, hệ thống thuế ở mức cao là nguồn lực quan trọng để đầu tư cho PTXH và con người. Việc trốn thuế, nợ thuế bị pháp luật nghiêm cấm, bất kể người đó hay doanh nghiệp đó là ai. Như vậy mới đảm bảo được nguồn tài chính để đầu tư cho an sinh và phúc lợi xã hội.
Hình thức phúc lợi được quan tâm nhất ở các nước tư bản phát triển là trợ cấp cho trẻ em, bà mẹ đơn thân và các gia đình có thu nhập thấp, thậm chí phúc lợi này được chi trả cho tới khi trẻ lớn lên đến 16 tuổi. Những gia đình có con nhỏ được thụ hưởng những chính sách hỗ trợ riêng. Bên cạnh đó, trợ giúp xã hội còn được cung cấp cho những người không thể có cuộc sống đầy đủ như lao động thất nghiệp, người khuyết tật, người nghỉ hưu hoặc có thu nhập quá thấp. Các tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn, các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận thường xuyên đối thoại với chính phủ để đi đến thỏa thuận trong phân bổ kinh phí và mức độ đầu tư cho an sinh xã hội, đem lại tác động tích cực và kết quả đáng kể trong chính sách thuế, mở rộng đối tượng hưởng phúc lợi, tạo việc làm, tăng lương tối thiểu và chi tiêu cho giáo dục, y tế, nhà ở xã hội,…
3. Xu hướng phát triển xã hội của các nước tư bản phát triển
Xu hướng tích cực
- Các quốc gia tư bản phát triển đã đạt được những thành tựu khá ấn tượng trong quá trình PTXH. Hệ thống phúc lợi và an sinh được hoàn thiện theo thời gian. Đây là cơ sở để các quốc gia này tích cực hợp tác trong các vấn đề PTXH, giải quyết những thách thức toàn cầu liên quan đến an ninh con người, an toàn xã hội trong bối cảnh khủng hoảng khí hậu, năng lượng, dịch bệnh… Nhận thức được các nguy cơ và hạn chế đối với PTXH, các quốc gia đã chú trọng tăng cường năng lực quản lý biến đổi xã hội và xử lý khủng hoảng, nhất là sau đại dịch Covid-19. Xu hướng này còn góp phần thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia, đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa và trước những thách thức chung toàn cầu.
- Các quốc gia tư bản phát triển đều có xu hướng phi tập trung hóa, tăng cường phân cấp trong quản lý PTXH. Vai trò của nhà nước trong phúc lợi xã hội có xu hướng ngày càng giảm bớt, thay vào đó là vai trò tích cực của thị trường và năng động của các tổ chức xã hội. Các biện pháp phân cấp mạnh mẽ được thực hiện trong quản lý PTXH, ngay ở khâu lập kế hoạch và thực hiện chính sách với sự tham gia rộng rãi của xã hội, cộng đồng và người dân.
- Các quốc gia tư bản phát triển luôn chú trọng thúc đẩy việc làm, xây dựng thị trường lao động tích cực, và ưu tiến cải cách hệ thống an sinh (mà chủ yếu là bảo hiểm xã hội) nhằm khuyến khích người lao động làm việc, tăng cường trách nhiệm cá nhân. Đây là xu hướng chung qua nhiều thập kỷ, nhất là ở khu vực châu Âu. Khẩu hiệu “việc làm cho người có thể, an sinh cho người không thể” cho thấy tính hiệu quả của chính sách xã hội ở các quốc gia này. Bên cạnh đó, luật pháp và sự thương lượng giữa nhà nước, doanh nghiệp, công đoàn và người lao động có vai trò quan trọng, diễn ra trong môi trường cạnh tranh nhưng bình đẳng và với niềm tin xã hội cao.
Xu hướng tiêu cực:
- Tình hình thế giới đang đứng trước khó khăn, trở ngại. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột vũ trang dẫn đến những thiệt hại, tổn thất cho con người và PTXH. Cuộc xung đột Nga-Ucraina, các cuộc khủng hoảng chính trị tại châu Phi, kinh tế suy thoái, khủng hoảng khí hậu và năng lượng, các thảm họa thiên tai, dân số già, mức sinh thấp, và cả những hệ lụy dai dẳng của đại dịch Covid-19 đang có tác động sâu sắc đến PTXH ở các quốc gia, trong đó có các nước tư bản phát triển. Tình hình đó làm tăng thêm rủi ro trong cuộc sống, bất bình đẳng xã hội gia tăng và có chiều hướng xấu đi trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Các chính sách xã hội dù có tốt đến đâu nhưng nếu áp dụng mãi thì sẽ mất dân hiệu quả và thậm chí có tác động tiêu cực, đòi hỏi luôn có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thách thức mới.
- Trong bối cảnh đó, ngân sách cho PTXH bị căt giảm, chi tiêu cho xã hội bị thu hẹp ở hầu hết các quốc gia, lạm phát và thất nghiệp gia tăng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Sức ép ngày càng tăng về chi tiêu xã hội, lương hưu, tình trạng mất việc, dân spps già, thiếu lao động là những thách thức đối với mô hình PTXH của các quốc gia tư bản phát triển hiện nay. Những khó khăn phát sinh trong tình hình mới đòi hỏi các quốc gia phải ứng phó, giải quyết với những giải pháp hiệu quả.
- Sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc (nationalism) và trào lưu dân túy mới (neo-populism) [2] với những thủ đoạn chính trị mang tính mị dân của một số chính trị gia trên thế giới, có tác động vào quan điểm, tâm lý của đám đông người dân (cử tri) nhằm kêu gọi, lôi kéo, tranh thủ quần chúng để đạt được sự ủng hộ chính trị, nhất là khi người dân phải đối mặt với những khó khăn do suy thoái kinh tế hay bất ổn an ninh, chính trị. Đồng thời, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa bài ngoại và chủ nghĩa dân tộc đoan đã nổi lên trong những năm qua ở châu Âu và Bắc Mỹ nhằm chống lại người nhập cư. Những xu hướng phức tạp này đang tạo ra những thay đổi lớn trong cục diện quốc tế và làm thay đổi các chính sách đối ngoại và trong nước, có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình PTXH ở các quốc gia.
4. Một số kinh nghiệm gợi mở cho Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được sau 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, PTXH ở Việt Nam còn nhiều bất cập trên thực tế, chưa được quán triêt, thể chế hóa để có thể quản lý và điều tiết theo quan điểm hệ thống, cân đối liên lĩnh vực. Nguồn lực đầu tư cho PTXH còn rất hạn chế, lại manh mún và phân tán. Nhận thức không đầy đủ, thậm chí sai lệch về vai trò của PTXH đã dẫn đến phương thức quản lý có xu hướng nặng về ứng phó, chắp vá khi xảy ra vụ việc theo kiểu “thiếu đâu bù đấy”. PTXH chưa được đầu tư, theo dõi, đánh giá thường xuyên như một trụ cột quan trọng của hệ thống kinh tế - xã hội tổng thể. Nhiều vấn đề xã hội phúc tạp nhức nhối khi vai trò quản lý của nhà nước còn yếu, sự tham gia của xã hội còn hạn chế và việc thực thi kỷ cương phép nước không nghiêm.
Kinh nghiệm PTXH của các nước tư bản phát triển có tính gợi mở và có thể tham khảo đối với Viêt Nam để có những chiến lược, chính sách PTXH phù hợp với hoàn cảnh, điệu kiện và yêu cầu của công cuộc Đổi mới ở nước ta. Cụ thể:
1. Điều tiết hài hòa giữa tốc độ tăng trưởng và an sinh xã hội nhằm giảm nghèo, tạo việc làm bền vững, ổn định cuộc sống của người dân. An sinh không chỉ có chức năng đảm bảo một cuộc sống an toàn cho mọi thành viên xã hội, trên các lĩnh vực y tế, việc làm, nhà ở, hưu trí… mà quan trọng hơn, nó còn góp phần điều chỉnh, cân bằng lợi ích giữa các giai tầng, điều tiết các mâu thuẫn, xung đột để tăng cường niềm tin, sự đồng thuận trong xã hội. Cần thực hiện phi tập trung hóa các dịch vụ ASXH, nhà nước không nên và không thể quản lý tất cả mà cần xã hội hóa, khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lực và chi tiêu xã hội. PTXH ở Việt Nam có thuận lợi lớn khi cấu trúc xã hội thuần nhất, không bị chia cắt bởi màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo như các nước tư bản phát triển. Đặc trưng này cần được phát huy để hạn chế gia tăng bất bình đẳng và phân hóa xã hội, tăng cường đoàn kết và đồng thuận giữa các tầng lớp nhân dân.
2. Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực được tất cả các quốc gia tư bản đặc biệt quan tâm và chú trọng đầu tư trong PTXH. Hệ thống giáo dục được tất cả các quốc gia khẳng định là nhân tố rất quan trọng trong PTXH, sản sinh ra nhân tài và phát triển con người toàn diện cho quốc gia, dân tộc. Việt Nam cần chú trọng đến mục tiêu và phương pháp trong giáo dục - đào tạo, phù hợp với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, trong bối cảnh kinh tế thị trường, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Cần khẩn trương xây dựng một chương trình giáo dục toàn diện, cơ bản, có chất lượng cao để có thể đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài cho phát triển đất nước. Nếu không đào tạo, không sử dụng và không huy động được sự đóng góp trí tuệ của lực lượng tinh hoa tài giỏi (các nhà lãnh đạo quản lý, nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân,,,) thì đất nước sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển xã hội nói riêng và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung.
3. PTXH không thể tách rời vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền và quyền lực của nhà nước. Song, sự thao túng quyền lực, câu kết và lạm dụng quyền lực là những nhân tố làm yếu đi vai trò lãnh đạo của Đảng. hiệu quả của bộ máy quản lý, khiến các chính sách xã hội không đi vào cuộc sống, không đến với người dân, thậm chí phản tác dụng. Cần có cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực để bộ máy quản lý PTXH minh bạch, hoạt động hiệu quả, ít tham nhũng với sự tham gia tích cực, rộng rãi của các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên lãng phí, tham nhũng, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng vẫn chưa được đẩy lùi triệt để. Hiện nay, những nỗ lực và quyết tâm đấu tranh chống tham gắn với kiểm soát quyền lực đang được thực hiện quyết liệt, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, từ Trung ương đến địa phương để làm trong sạch, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, góp phần hình thành cơ chế răn đe để mỗi cán bộ, đảng viên ở các cơ quan công quyền “không dám tham nhũng, không thể tham nhũng và không muốn tham nhũng.”
4. Quá trình phát triển xã hội của các nước tư bản đều dựa trên mối quan hệ giữa ba trụ cột: Thị trường, Nhà nước, Xã hội. Với mục tiêu phát triển hệ thống an sinh và phúc lợi cho mọi người, vai trò của nhà nước rất quan trọng. Tuy nhiên, đây chỉ là điều kiện cần, chưa đủ để thúc đẩy xã hội phát triển. Bên cạnh vai trò quan trọng của nhà nước, cần có sự tham gia quản lý của các tổ chức xã hội, cộng đồng, đoàn thể và công dân để đưa các chính sách xã hội vào cuộc sống. Trước đây, người dân nước ta bằng lòng với vị thế bị quản lý, thậm chí bị thực dân, phong kiến cai trị, và chưa nhận thức được rằng hiện nay họ chính là một chủ thể quản lý xã hội quan trọng xây dựng một nhà nước pháp quyền hiện đại, trong sạch và minh bạch, góp phần lành mạnh hóa xã hội và đáp ứng yêu cầu PTXH bền vững. Cần tăng cường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng quy định pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, thực hiện dân chủ XHCN để nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, thể hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân.
5. Phát triển xã hội cần khai thác tối đa các nguồn lực nội sinh của đất nước, nhưng nguồn lực nội sinh đó sẽ được nhân lên khi có sự kết hợp và bổ sung bởi các nguồn lực quốc tế, bao gồm cả nguồn lực vật chất (vốn, kỹ thuật, công nghệ) và nguồn lực phi vật chất (kiến thức, kinh nghiệm, ý tưởng). Trong mối quan hệ giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực quốc tế, thì nguồn lực trong nước là quyết định. Việt Nam cần tranh thủ sự ủng hộ và hỗ trợ của các đối tác quốc tế, nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đây chính là con đường tối ưu nhất để PTXH, đảm bảo an ninh quốc gia, an sinh xã hội, an ninh con người trong tình hình mới.
5. Kết luận
Để có thể thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ, công bằng, rất cần sự cân đối, hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phát huy vai trò của các chủ thể (nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng, công dân) khi hoạch định chiến lược, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án PTXH trong đó lấy con người là trung tâm, không đánh đổi tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo theo tăng trưởng kinh tế, phá hoại môi trường. Với những thành tựu đạt được sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng tương lai phát triển xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam là tươi sáng. Với quan điểm xuyên suốt lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội, Việt Nam sẽ xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
GS.TS. Đặng Nguyên Anh
Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
[1] Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 27
[2] Chủ nghĩa dân túy cánh hữu (phổ biến ở Bắc Âu, bảo vệ các nhà nước phúc lợi nhưng không mở rộng dịch vụ, trợ cấp xã hội, dựa vào tầng lớp trung lưu, nhấn mạnh yếu tố sắc tộc và chống người nhập cư; hoặc những người thuộc tầng lớp lao động ở Hoa Kỳ ủng hộ Tổng thống Doland Trump...); Chủ nghĩa dân túy cánh tả (phổ biến ở khu vực Mỹ La-tinh và Nam Âu, được sự ủng hộ của người nghèo và hướng theo các chương trình tái phân phối lợi ích, khắc phục tình trạng bất bình đẳng về kinh tế). Xem truy cập: https://www. the-american-interest.com/2017/ 11.28/what-is-popu1ism/