Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Đổi mới thể chế phát triển và đẩy mạnh xã hội hóa cung ứng dịch vụ công

Ngày phát hành: 14/08/2018 Lượt xem 10170

(HĐLL) Để đổi mới thể chế cung ứng dịch vụ công cần thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm vụ, giải pháp. Trước hết cần nhận thức đúng và đầy đủ bản chất, nội hàm của những khái niệm, phạm trù liên quan; lựa chọn nội hàm phù hợp với điều kiện của Việt nam trên cơ sở đó đề xuất định hướng đổi mới thể chế phát triển và cung ứng các dịch vụ công phù hợp và hiệu quả. 


1. Bản chất của dịch vụ công, nhất là dịch vụ công cộng nói chung và trong từng lĩnh vực dịch vụ


(1) Dịch vụ: Theo từ điển Bách Khoa toàn thư Việt Nam “Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt". Trong đời sống xã hội hiện nay, toàn bộ các hoạt động cung cấp dịch vụ hợp thành khu vực thứ ba của nền kinh tế - khu vực dịch vụ. Khu vực dịch vụ bao gồm rất nhiều ngành khác nhau phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, cho sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước, cho hoạt động trí tuệ, văn hoá, giáo dục, cho các mặt của đời sống xã hội. Tham gia cung cấp các dịch vụ có thể là các đơn vị công, có thể là các đơn vị tư, có thể là sự hợp tác công - tư, tuỳ theo tính chất của từng lĩnh vực, loại hình dịch vụ.


(2) Dịch vụ công : Là hoạt động cung cấp dịch vụ vì lợi ích chung, nhấn mạnh phía cung ứng dịch vụ, vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công.


Khái niệm dịch vụ công bao gồm một số loại dịch vụ khác nhau, thậm chí rất khác nhau về tính chất. Tuy nhiên, các dịch vụ này có các đặc điểm chung như sau:


Thứ nhất, đây là những hoạt động phục vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này cho xã hội. 


Thứ hai, Nhà nước có thể tổ chức các đơn vị công lập đảm nhiệm cung cấp dịch vụ công hoặc Nhà nước không trực tiếp tổ chức cung ứng mà ủy nhiệm cho các chủ thể khác ngoài nhà nước thực hiện việc cung ứng dịch vụ. 


Thứ ba, việc Nhà nước cung ứng dịch vụ công thường không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Người sử dụng có thể không phải trả tiền hoặc có thể phải thanh toán một phần hay toàn bộ chi phí; tuy nhiên, trong mọi trường hợp, Nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này không nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.


Thứ tư, mọi người dân đều có quyền hưởng sự cung ứng dịch vụ công cơ bản, thiết yếu ở mức độ tối thiểu, với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền một cách công bằng, bình đẳng.


Tóm lại, dịch vụ công là dịch vụ do Nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân.


Ở Việt Nam, khái niệm dịch vụ công bao hàm ba nhóm dịch vụ chủ yếu. Một là, nhóm dịch vụ hành chính công; hai là, nhóm dịch vụ sự nghiệp công; ba là, nhóm dịch vụ công ích 


(3) Dịch vụ công cộng : Là những dịch vụ công phục vụ chung cho mọi người với hai tính chất: không loại trừ và không cạnh tranh. Theo mức độ đáp ứng hai tính chất trên, người ta chia dịch vụ công cộng ra làm 2 loại: loại dịch vụ công cộng thuần tuý (hoàn hảo) và dịch vụ công cộng không thuần tuý (không hoàn hảo). Dịch vụ công cộng thuần tuý là những dịch vụ công đáp ứng tuyệt đối hai tính chất trên (như dịch vụ an ninh, quốc phòng, y tế dự phòng, giáo dục bắt buộc - phổ cập miễn phí...). Còn dịch vụ công cộng không thuần tuý là những dịch vụ công không đáp ứng đầy đủ hai tính chất trên, vẫn còn có tính loại trừ và tính cạnh tranh ở mức độ nào đó (ví dụ dịch vụ khám chữa bệnh cho cá nhân mỗi người, giáo dục đại học...). Trên thực tế, các dịch vụ công cộng thuần tuý thường rất ít, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số dịch vụ công cộng.
Dịch vụ công nói chung, nhất là dịch vụ công cộng thường chứa đựng bản chất tổng hợp về kinh tế, chính trị - xã hội, xã hội, pháp lý….Trong mỗi loại dịch vụ công, dịch vụ công cộng các yếu tố bản chất đó có vị trí khác nhau. Việc xác định rõ bản chất đó sẽ là một cơ sở quan trọng đề chế định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích của các chủ thể liên quan như Nhà nước, người cung cấp nguồn lực, đơn vị cung ứng dịch vụ, người hưởng thụ (tiêu dùng). Và do các mối tương quan về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích giữa các chủ thế khác nhau trong mỗi loại dịch vụ nên cơ chế cung ứng cung sẽ có thể khác nhau. 


Nếu quan niệm rằng tất cả các dịch vụ thuộc các lĩnh vực xem xét (như giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ) đều là dịch vụ công (theo nghĩa rộng) thì thực chất đã không nhận thức đầy đủ và sâu bản chất của dịch vụ công (nhất là các dịch vụ công cộng thuần thúy); và như thế rất khó chế định được cơ chế chính sách phát triển phù hợp, hiệu quả.  


Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, việc sản xuất và cung ứng dịch vụ công được xác định là lĩnh vực “sự nghiệp” của xã hội và do các đơn vị công lập thực hiện theo cơ chế bao cấp. Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dịch vụ công đã có sự phát triển nhanh chóng, phong phú, đa dạng, đòi hỏi phải có nhận thức mới về dịch vụ công cả về bản chất, cơ chế phát triển và cung ứng, về nguồn lực và các chủ thể tham gia, về vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội, của người hưởng thụ và của tất cả các chủ thể tham gia sản xuất và cung ứng dịch vụ công phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong các văn kiện đaị hội Đảng những nhiệm kỳ gần đây đều nhấn mạnh yêu cầu đổi mới thể chế cung ứng dịch vụ công. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Thực hiện cơ chế thị trường và đẩy mạnh xã hội hóa cung cấp các dịch vụ công. Cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công, giao quyền tự chủ phù hợp, nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp…Đối với những hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu, bao gồm y tế, giáo dục mà Nhà nước đang kiểm soát giá, phải đảm báo công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá; tính đúng, tính đủ chi phí và thực hiện theo gía thị trường theo lộ trình phù hợp. Đồng thời, hỗ trợ cho đối tượng chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ công, nhất là các hình thức hợp tác công - tư. Đảm bảo bình đẳng giữa đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập. Đa dạng hình thức xã hội hóa các đợn vị sự nghiệp công như: thí điểm cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp công; giao cộng đồng quản lý, cho thuê cơ sở vật chất, tài sản của Nhà nước để kinh doanh cung ứng dịch vụ công và thực hiện cơ chế đơn vị sự nghiệp công hoạt động như doanh nghiệp công ích” .


 2.  Phân định các loại dịch vụ trong từng lĩnh vực


Trong điều kiện cụ thể của đất nước (nhất là về nguồn lực) phải phân định cho rõ các loại dịch vụ trong từng lĩnh vực (dịch vụ công, dịch vụ công cộng thuần túy, dịch vụ công cộng không thuần túy…), xác định phạm vi của các loại dịch vụ đó, vì mỗi loại dịch vụ đó được cung cấp với những cơ chế khác nhau, nguồn lực khác nhau, đối tượng khác nhau…; đối với các dịch vụ công cộng thuần túy thường được cung cấp mang tính chất “bao cấp” cao hơn, còn đối với các dịch vụ công khác thì tính chất bao cấp sẽ ít hơn, thậm chí có thể hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Trên thực tế, trong mỗi lĩnh vực dịch vụ đều có các loại dịch vụ với các tính chất khác nhau đó. Mỗi loại dịch vụ sẽ cần có cơ chế cung cấp tương thích.


3. Hoàn thiện thể chế phát triển, cung ứng dịch vụ công, chế định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình của các chủ thể liên quan trong từng loại dịch vụ


Trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện thể chế là chế định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình của tất cả các chủ thể liên quan như Nhà nước, người cung cấp nguồn lực, nhà đẩu tư, đơn vị cung ứng dịch vụ, người hưởng thụ (tiêu dùng), xã hội và mức độ vận dụng cơ chế thị trường (hay tiếp cận thị trường) phù hợp và hiệu quả đối với từng loại dịch vụ. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, nhất là việc chế định rõ vai trò của Nhà nước trong điều kinh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Nhìn nhận khái quát Nhà nước có bốn nhiệm vụ chủ yếu sau : i) Ban hành khung khổ pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về dịch vụ công, cơ chế quản lý đối với họat động của tất cả các chủ thể liên quan; ii) Là người đảm bảo nguồn lực chủ yếu để sản xuất và cung ứng dịch vụ công; iii) Ban hành cơ chế cung cấp dịch vụ công phù hợp đối với từng lĩnh vực. Có thể là người trực tiếp (thông qua các đơn vị của Nhà nước) sản xuất và cung ứng dịch vụ công, hoặc đặt hàng với các đơn vị ngoài nhà nước cung cấp; iv) Ban hành cơ chế, chính sách thực hiện các chính sách xã hội trong cung cấp các dịch vụ công (như chế độ ưu tiên đối với các đối tượng và lĩnh vực dịch vụ công, ban hành cơ chế chính sách đơi với các cùng khó khăn…); v)  Kiểm tra, giám sát quá trình và chất lượng cung cấp các dịch vụ công. Tuy nhiên, trong  các nhiệm vụ đó thì vai trò của Nhà nước có những điểm chung, nhưng cũng có thể sẽ khác nhau đối với từng loại dịch vụ cụ thể, lĩnh vực cụ thể. Điều này liên quan trực tiếp đến cơ chế xã hội hóa quá trình cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực.


4. Xác định rõ phương thức sản xuất và cung cấp dịch vụ công


Đây là một nhiệm vụ cũng rất quan trọng, vì đối với mỗi loại dịch vụ cần chế định một phương thức sản xuất và cung cấp phù hợp - hiệu quả. Có thể có bốn phương thức sản xuất và cung cấp sau : i) Sản xuất và cung cấp theo phương thức bao cấp hoàn toàn; ii) Sản xuất và cung cấp theo phương thức kinh doanh “không vì lợi nhuận”; iii) Sản xuất và cung cấp theo phương thức kinh doanh “vì lợi nhuận” hoàn toàn theo cơ chế thị trường; iv) Sản xuất và cung cấp theo phương thức “bán vì lợi nhuận” (tức là chấp nhận cho vì lợi nhuận ở mức hạn chế, phù hợp với điều kiện cụ thể. Trên thực tế có thể có các phương án kết hợp khác nhau giữa bốn phương thức trên; đồng thời có loại dịch vụ người thụ hưởng được miễn phí hoàn toàn, có loại phải đóng một phần nào đó, có loại người thụ hưởng phải đóng đầy đủ chi phí.


5. Quy hoạch xây dựng hệ thống sản xuất và cung cấp dịch vụ công hiệu quả phù hợp với từng lĩnh vực


Việc quy hoạc xây dựng hệ thống sản xuất và cung cấp dịch vụ công nói chung, trong từng lĩnh vực dịch vụ nói riêng và cụ thể đối với từng loại dịch vụ trong một lĩnh vực cần phải dựa trên nguyên tắc “thống nhất tối đa” hệ thống trong mỗi lĩnh vực dịch vụ (thậm chí có thể liên lĩnh vực), để tránh trùng lắp, lãng phí cả về tổ chức và nguồn lực. Tuy nhiên có những loại dịch vụ công có những đặc thù riêng vẫn cần phải có hệ thống sản xuất và cung cấp riêng phù hợp, nhất là đối với các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó kahwn. Vấn đề này cần được nghiên cứu thiết kế cụ thể. Trên cơ sở đó tổ chức sắp xếp lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công trên phạm vi cả nước và trong mỗi lĩnh vực cụ thể. 


6. Xây dựng tiêu chí, cơ chế và hệ thống kiểm tra, giám sát, đánh giá việc sản xuất và cung cấp dịch vụ công


Đây cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng. Cần xây dựng đồng bộ hệ thống tiêu chí, cơ chế và hệ thống kiểm tra, giám sát, đánh giá việc sản xuất và cung cấp dịch vụ công như sau : i) Hệ thống kiểm tra, giám sát, đánh giá của Nhà nước; ii) Chế định cơ chế về trách nhiệm giải trình của các đơn vị tham gia sản xuất và cung cấp dịch vụ công; iii) Chế định cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá của các tổ chức xã hội; iv) Chế định rõ quyền và lợi ích của những người được cung cấp dịch vụ công, quyền được yêu cầu Nhà nước và các đơn vị sản xuất và cung cấp dịch vụ công phải đáp ứng đúng quyền, lợi ích và chất lượng dịch vụ công cho mình.


7. Nhận thức rõ, đúng, đầy đủ hơn về bản chất và chế định cơ chế xã hội hóa phù hợp, hiệu quả trong sản xuất và cung cấp dịch vụ công   


Trong cơ chế kế hoạch tập trung, do vai trò quan trọng của dịch vụ công cộng nên việc sản xuất và cung ứng các dịch vụ công cộng được xác định là "sự nghiệp" của xã hội và do các đơn vị công lập thực hiện theo cơ chế bao cấp. Chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển nhanh chóng, phong phú và đa dạng của nhu cầu về dịch vụ, những khiếm khuyết của mô hình cung ứng dịch vụ kiểu cũ đặt ra hàng loạt các vấn đề, đòi hỏi phải có những chuyển biến căn bản từ cách nhìn nhận về dịch vụ công, dịch vụ công cộng, về cơ chế huy động nguồn lực cho phát triển lĩnh vực này và trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội trong việc tham gia cung ứng dịch vụ công cộng phù hợp cơ chế mới. Vì vậy xã hội hoá việc cung ứng dịch vụ công, dịch vụ công cộng là một chủ trương rất đúng đắn của Đảng và Nhà nước.


Xã hội hoá dịch vụ công cộng là với vai trò và trách nhiệm chủ đạo của Nhà nước, thực hiện đa dạng hoá các thành phần xã hội và các chủ thể trong toàn xã hội tham gia vào việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng. Xã hội hóa dịch vụ công cộng nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất, phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển các dịch vụ công cộng mà trước hết là các dịch vụ cơ bản, thiết yếu trong giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao...; thứ hai là, tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách và người nghèo, được thụ hưởng dịch vụ công cộng. Xã hội hoá phải được triển khai đồng bộ trên cả 3 nội dung: tăng cường vai trò của Nhà nước về quản lý, tăng đầu tư của Nhà nước gắn với đổi mới cơ chế đầu tư để nâng cao hiệu quả; đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập theo hướng nâng cao tính tự chủ, công khai, minh bạch, hiệu quả; đẩy mạnh phát triển các cơ sở ngoài công lập tham gia cung ứng dịch vụ theo quy hoạch của nhà nước.


Xã hội hoá dịch vụ công cộng không đơn thuẩn chỉ là huy động nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính của xã hội. Nội dung không kém phần quan trọng, thậm chí còn có thể quan trọng hơn là phát huy được trí lực và tinh thần trách nhiệm của xã hội đóng góp cho sự nghiệp chung nhằm phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng.


Trong xã hội hoá, việc đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế các chủ thể tham gia cung cứng dịch vụ công cộng cho xã hội là một nội dung rất quan trọng, nhằm huy động mọi nguồn lực, lực lượng trong dân và doanh nghiệp để phát triển các dịch vụ công cộng, đáp ứng nhu cầu về dịch vụ ngày càng cao, phong phú và đa dạng của xã hội; nếu chỉ dựa vào các cơ sở công lập thì không thể nào đáp ứng được. Việc đa dạng hoá các nguồn lực, các chủ thể cung ứng dịch vụ công cộng (công lập, ngoài công lập, kết hợp công tư) tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ công cộng.


Việc đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công, đặc biệt là dịch vụ công cộng gắn với đẩy mạnh xã hội hoá cung ứng dịch vụ có ý nghĩa về nhiều mặt, tạo thêm nguồn kinh phí cần thiết cho sự phát triển các dịch vụ phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, xóa bao cấp tràn lan; chi phí của các đơn vị dịch vụ công cộng không chỉ do ngân sách nhà nước đảm nhận, mà còn có phần thu từ những người được hưởng dịch vụ và từ cộng đồng. Xoá bỏ các khoản thu không chính thức, không minh bạch đang tồn tại khá phổ biến đi liền với sự phân phối không công bằng trong nội bộ các đơn vị làm dịch vụ, hạn chế và ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trái đạo đức nghề nghiệp. Tạo thêm nguồn thu để cải cách chế độ tiền lương, trước hết là bảo đảm thu nhập thoả đáng hơn cho trên một triệu người đang làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt là những người có tay nghề cao, cống hiến lớn. Xây dựng đồng bộ cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng, để các đơn vị này phát triển bền vững. Các cơ quan hành chính tập trung thực hiện đúng trách nhiệm và chức năng quản lý nhà nước đối với việc cung ứng dịch vụ công nói chung, đặc biệt là các dịch vụ công cộng.


8. Đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước


- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phát triển và quản lý cung cấp dịch vụ công nói chung và cụ thể đối với từng lĩnh vực. Trong đó cần chế định cơ chế tự chủ phù hợp và hiệu quả (đồng bộ về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, về tổ chức biên chế và nhân sự, về cơ chế tài chính; đặt mục tiêu thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn làm trọng tâm) đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công trong từng lĩnh vực và từng cấp độ tự chủ. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách đẩy mạnh xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước và phù hợp với bản chất, loại hình điều kiện của từng lĩnh vực. Tách quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ công; cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động nội bộ của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghiên cứu xây dựng Luật sự nghiệp công.


- Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống quản lý nhà nước về các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp thuộc các bộ, ngành từ trung ương xuống cơ sở theo hướng tinh gọn, không trùng chéo về chức năng nhiệm vụ và tổ chức, bộ máy, nhân sự. Hoàn thiện cơ chế vận hành, chế định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của từng cấp, từng đơn vị, từng cá nhân, nhất là những người đứng đầu.
- Xây dựng, hoàn thiện định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng loại hình dịch vụ công; tiêu chí phân loại, xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập; tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực.

- Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho phát triển các lĩnh vực cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, song  đổi mới cơ chế phân bổ và cấp kinh phí : Xây dựng và hoàn thiện các danh mục dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước trong từng lĩnh vực. Đổi mới cơ chế, cơ cấu và phương thức đầu tư theo nguyên tắc: Đối với các dịch vụ công cộng hoàn hảo và các dịch vụ công cộng quan trọng thiết yếu liên quan đến đời sống của người dân, Nhà nước bảo đảm kinh phí để thực hiện; đối với các dịch vụ công mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực cần thiết cho nhu cầu xã hội thực hiện theo cơ chế đặt hàng, thực hiện cơ chế đấu thầu cung cấp dịch vụ công khai, bình đẳng cho các cơ sở công lập và ngoài công lập cùng tham gia; đối với các dịch vụ công khác thực hiện theo cơ chế xã hội hóa, liên kết, hợp tác công - tư huy động sự tham gia cung ứng của các chủ thể trong xã hội. 


Chuyển từ cấp kinh phí mang tính bình quân theo số lượng biên chế sang cấp kinh phí mang tính cạnh tranh theo số lượng, chất lượng và giá dịch vụ công; Chuyển đổi cơ chế kinh phí cho đơn vị cung ứng dịch vụ công sang cơ chế cấp cho đối tượng thụ hưởng.


- Nhà nước chế định phù hợp và quản lý có hiệu quả khung các loại phí, lệ phí và giá các dịch vụ công. Nghiên cứu việc chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp với từng lĩnh vực theo hướng Nhà nước quy định khung giá dịch vụ đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu đối với xã hội, từng bước tính đủ các chi phí trong giá dịch vụ sự nghiệp. Trong một số linh vực chuyển sang thực hiện phương thức hỗ trợ trực tiếp kinh phí cho các đối tượng  được thụ hưởng để mua dịch vụ sự nghiệp công từ thị trường, thay vì chế độ miễn, giảm giá dịch vụ thông qua các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. 
- Rà soát, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo hướng chuyển từ quy hoạch theo đơn vị hành chính sang quy hoạch theo nhu cầu của xã hội và thị trường. Chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang hình thức công ty cổ phần theo quy định của Nhà nước.
Chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ, ngành về cho chính quyền địa phương quản lý với vai trò chủ quản. Bộ chỉ thực hiện chủ quản đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ và một số đơn vị sự nghiệp quan trọng, chuyên sâu.

- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công đúng các quy định của pháp luật.

 

PGS.TS  Trần Quốc Toản

 

(1) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 276-277

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết