7. Nhìn nhận tổng quát về xu hướng phát triển và vai trò của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới
Từ những phân tích mang tính dự báo tổng quát nêu trên, có thể nêu lên các xu hướng phát triển và vai trò của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới như sau:
i) - Chủ nghĩa tư bản, mà dẫn đầu là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vẫn tiếp tục phát triển theo các quy luật khách quan mà Mác đã nêu lên về “sự phát triển lịch sử tự nhiên của loài người” qua các hình thái kinh tế - xã hội (dù có trải qua các khúc quanh nào đó). Chủ nghĩa tư bản vẫn đóng vai trò chi phối chủ đạo các xu thế phát triển của thế giới; nhưng sự chi phối này đang chịu sự tác động, đấu tranh của các xu hướng phát triển lớn khác là: xu hướng phát triển “dân chủ xã hội”, xu hướng phát triển theo chủ nghĩa xã hội (hay “định hướng xã hội chủ nghĩa”), xu hướng “dân tộc chủ nghĩa” với những sắc thái khác nhau, xu hướng “tôn giáo hóa”…, tạo nên những giá trị chung của nhân loại trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
ii) - Thực tế cho thấy, trong các nước tư bản chủ nghĩa, nhất là trong các nước tư bản phát triển, do quy luật phát triển “phủ định” khách quan của quá trình phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đang từng bước “nẩy sinh” các nhân tố “xã hội chủ nghĩa” trong lòng nó đúng như dự báo của Mác; cùng với sự đấu tranh, tác động của các xu thể phát triển khác trên thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế; làm cho trong chế độ chủ nghĩa tư bản không thể không chứa đựng một số những giá trị chung của nhân loại (như hòa bình, dân chủ, quyền con người, bình đẳng giữa các quốc gia, chống nghèo đói, phát triển bền vững…). Điều này cho thấy, chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình phát triển vẫn giữ bản chất “bóc lột giá trị thặng dư”, nhưng dưới những hình thái mới[1]; nhất là khi khi tư bản sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghệ cao thì giá trị gia tăng thu được sẽ tăng nhanh và lớn hơn gấp nhiều lần (so với giá trị sức lao động vật lý). Nhưng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản “dường như” “buộc phải” ngày càng “nhân bản hơn” thông qua phát triển theo những giá trị chung của nhân loại, nâng cao hơn đời sống mọi mặt của người dân. Nhưng đây không phải là bản chất cốt lõi của chủ nghĩa tư bản, mà là kết quả sự vận động, phát triển nội tại của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa theo quy luật phủ định biện chứng mà Mác đã nêu (nếu không thế chủ nghĩa tư bản sẽ không tiếp tục phát triển được), đồng thời là kết quả đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động, của các xu thể phát triển dân chủ trên thế giới.
iii) - Dưới tác động của các xu hướng phát triển khác nhau và quá trình toàn cấu hóa - hội nhập quốc tế sâu rộng, vấn đề “ý thức hệ” không còn đóng vai trò “độc tôn” chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế, quan hệ giữa các nước; mà nổi lên hàng đầu là “lợi ích quốc gia - dân tộc”, “lợi ích tương hỗ” giữa các bên trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong đó, sức mạnh và tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự của một quốc gia vẫn đóng vai trò quan trọng trong định hình cấu trúc quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là vấn đề đấu tranh “ý thức hệ” bị mất đi, bị coi nhẹ.
iv) - Thế giới đang diễn ra quá trình “đa cực hóa”, đang hình thành các cực khác nhau về “quyền lực quân sự - chính trị”, về “trung tâm phát triển kinh tế, công nghệ” (các loại cực này có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không phải khi nào cũng là một); tạo thành các “tầng cực” (hay mạng lưới) các cực khác nhau: tầng trên cùng là Mỹ và Trung Quốc, tầng thứ hai gồm EU, Nhật bản, Nga, Ấn Độ, tầng thứ 3 gồm các nước tư bản phát triển khác trong nhóm G 20. Có các cực ở tầm quốc tế, có các cự ở tầm khu vực. Các tầng cực này lại đan xen với nhau theo các quan hệ lợi ích giữa các nước, và trong quan hệ với các nước khác trên thế giới. Xu thế này đưa đến tình trạng “phân mảnh” trong cấu trúc quan hệ quốc tế, vừa đấu tranh, vừa hợp tác không chỉ giữa các cực, giữa các nước, mà còn giữa các khối liên kết khác nhau, tác động “tiêu cực” đến quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong không ít trường hợp, các “cực lớn”, các khối liên kết lớn dùng “thế lực” của mình ép các nước nhỏ hơn phải “chọn bên”, hoặc chịu thiệt thòi.
v) - Chủ nghĩa tư bản, mà đại diện là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, vẫn là lực lượng chủ đạo phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại (cả nền kinh tế thực và nền kinh tế ảo), nền khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nền giáo dục - đào tạo chuyên gia trình độ và chất lượng cao; là lực lượng chủ đạo phát triển Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư. Dưới tác động của các cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc, dưới tác động của đại dịch Covid -19, tác động của các cuộc chiến tranh nóng (điển hình là giữa Nga và Ucraina), tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư và của biến đổi khí hậu toàn cầu, đang diễn ra sự thay đổi và hình thành trật tự kinh tế thế giới mới, vai trò ngày càng lớn hơn của các nền kinh tế mới nổi. Sự hình thành của trật tự kinh tế thế giới mới, với xu hướng “phân mảnh” theo các khối liên kết khác nhau, sẽ kéo theo những thay đổi lớn về cấu trúc và thể chế kinh tế thế giới (như hình thành kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh…; sự thay đổi các luật lệ kinh tế quốc tế, hình thành các trung tâm tài chính mới, các thị trường hàng hóa dịch vụ mới với phương thức và cơ chế hoạt động mới trên quy mô toàn cầu, hình thành các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới liên kết các nhóm nước khá nhau…). Điều này tất yếu đưa đến những đặc trưng, hình thức và cơ chế toàn cầu hóa kinh tế mới. Đồng thời, cũng sẽ diễn ra quá trình các nước tìm các giải pháp để nâng cao năng lực “độc lập - tự chủ” và khả năng “ứng phó”, “chống chịu” của nền kinh tế mỗi nước, trước những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa mới.
vi) - Quá trình toàn cầu hóa chủ nghĩa tư bản tiếp tục được đẩy mạnh (hình thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu), sẽ tác động tới sự phát triển của tất cả các nước trên thế giới. Điều này thể hiện ở sự phát triển ngày càng nhiều với quy mô kinh tế ngày càng lớn các tập đoàn kinh tế “đa quốc gia”, “xuyên quốc gia” (nhất là các tập đoàn tài chính và công nghệ). Bản thân cấu trúc sở hữu của các tập đoàn này cũng thay đổi mạnh mẽ từ sở hữu riêng của các nhà tư bản sang sở hữu xã hội (với sự ham gia góp cổ phần của hàng triệu cổ đông trên toàn thế giới, trong đó phần đông là những người lao động, công chức, nhất là khi xuất hiện thị trường chứng khoán toàn cầu); điều đó làm thay đổi quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối trên toàn cầu. Đối với các tập đoàn này, tính chất “dân tộc” ngày càng giảm đi, lợi ích và lợi nhuận thu được từ rất nhiều nước khác nhau trên thế giới; ngay tại các nước “chính gốc” của các tập đoàn cũng đang phải ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách để “buộc” các tập đoàn đó thực hiện nghĩa vụ đối với quốc gia “chính gốc” (như việc cấm hay hạn chế đầu tư và chuyển giao công nghệ cao vào nước khác; buộc các tập đoàn công nghệ không được vi phạm, làm tổn hại đến lợi ích kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự và đạo đức xã hội[2]; việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu[3] của chính phủ các nước có xuất xứ FDI sẽ làm giảm sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư tại các quốc gia đang phát triển vốn chủ yếu dựa vào ưu đãi thuế để thu hút FDI…). Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa sẽ đưa đến sự ra đời của những thể chế “quản lý” toàn cầu mới đối với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia (hay phi dân tộc) này. Quá trình toàn cấu hóa và hội nhập quốc tê sâu rộng, cũng làm cho thể chế, cơ chế, cơ chế, chính sách quản lý - quản trị riêng của từng nước bị “hạn chế” vai trò tác động, không đáp ứng được hiệu quả cao, nếu không thích ứng với các thể chế toàn cầu.
vii) - Nhìn tổng thể, quá trình dân chủ hóa các lĩnh vực, các mặt, các phương diện của xã hội ngày càng tăng lên (điều này diễn ra dưới “sức ép”, tác động của sự phát triển khách quan, nội tại của mỗi nước theo quy luật phủ định biện chứng mà Mác đã nêu; mặt khác là dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế với sự đấu tranh, phát triển các giá trị chung của nhân loại). Song hành với quá trình này, vẫn có sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa nước lớn cường quyền, chủ nghĩa bảo hộ thiên lệch, áp đặt.
viii) - Trong quá trình phát triển, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các quốc gia luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc mình lên trên hết, nhưng phải đặt trong tương quan và tôn trọng các lợi ích chính đáng của các quốc gia - dân tộc khác. Sự “tùy thuộc lẫn nhau” ngày càng tăng lên; các nước đều mong muốn xây dựng các quan hệ “bền vững”, “ồn định” với các nước khác, nhất là với các nước đối tác chiến lược, các đồng minh chiến lược. Tuy nhiên điều này phụ thuộc vào “lòng tin chiến lược”, sự tin cậy lẫn nhau, được xây dựng như thế nào giữa các đối tác, thể hiện tập trung ở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ - thể chế phát triển, lợi ích phát triển của nhau.
ix) - Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, do sự chênh lệch (khoảng cách) lớn về trình độ sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghệ, trình độ số hóa, sở hữu vốn, sở hữu nguồn nhân lực chất lượng cao - trình độ cao giữa các nước phát triển và các nước còn lại, dẫn đến xu hướng phân hóa ngày càng cao về lợi ích (giá trị gia tăng) thu được giữa các quốc gia (các doanh nghiệp) nắm giữ các “công đoạn” khác nhau trong các chuỗi sản xuất, cung ứng; các nước (doanh nghiệp) chủ yếu tham gia vào công đoạn gia công, lắp ráp sẽ thu được lợi ích thấp nhất. Điều này đặt ra vấn đề hệ trọng là, một quốc gia không vươn lên làm chủ được công nghệ, sẽ luôn là nước đi sau (dù có là công xưởng lắp ráp của thế giới), trở thành “bãi rác công nghệ” của các nước tiên tiến, sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
x) - Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng về mọi mặt, với tư duy chỉ đạo xuyên suốt là “lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết”, quan hệ quốc tế của một quốc gia với các nước khác, sẽ có thể có sự “phân ly” nhất định (cấp độ khác nhau, tính chất, quy mô khác nhau…) giữa các quan hệ về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…Đây là điều khác biệt với quan hệ quốc tế theo kiểu “chọn phe” rạch ròi như trước đây.
xi) - Những vấn đề toàn cầu ngày càng tăng lên, liên quan đến lợi ích, “vận mệnh” của tất cả các nước, của cả nhân loại. Trong đó phải kể đến vấn đề hòa bình và phát triển; tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, vấn đề ô nhiễm môi trường toàn cầu, vấn đề suy thoái môi trường sinh thái toàn cầu, vấn đề cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên toàn cầu; vấn đề an ninh con người, an ninh phi truyền thống, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh xã hội, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, tiền tệ…, mà từng nước không thể (hoặc khó) giải quyết một cách hiệu quả, đòi hỏi phát có sự hợp tác giữa các nước trên bình diện toàn cầu.
xii) - Phát triển bền vững là một xu thế, một yêu cầu, một giá trị chung của nhân loại, của tất cả các nước. Sau hàng thế kỷ, nhất là trong những thập kỷ cuối thể kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, loài người, nhất là các nước phát triển, đã đẩy mạnh phát triển theo chiều rộng, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và “tàn phá” môi trường sinh thái, “vay mượn” nguồn sống của các thế hệ sau, “hy sinh môi trường vì tăng trưởng kinh tế”, tạo nên tình trạng phát triển không bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Giờ đây, cả các nước tư bản phát triển, các nước đang phát triển và các nước còn kém phát triển, đều nhận thức rõ phải xây dựng phương thức phát triển bền vững đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái; coi đây là một giá trị chung của nhân loại. Chính vì vậy mà Liên hiệp quốc đã nhất trí cao đưa ra Mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu (Sustainable Development Goals - SDG), hướng tới một “nền sản xuất xã hội xanh, tiêu dùng xanh”. Đây là mục tiêu phổ quát được thiết kế nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo rằng tất cả mọi người ở mỗi quốc gia thành viên được hưởng hòa bình và thịnh vượng vào năm 2030[4].
8. Về những động lực thúc đẩy sự phát triển của CNTB hiện đại
Với tình cách là một hình thái kinh tế - xã hội, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại có những động lực nội tại (bên trong chủ nghĩa tư bản) và có những động lực (tác động) từ bên ngoài chủ nghĩa tư bản. Có thể nêu khái quát như sau:
8.1. Về động lực nội tại (bên trong)
- Sự phát triển nhu cầu khách quan của con người, của xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa (theo quan điểm của Mác); sự phát triển của lực lượng sản xuất (gắn liền với sự phát triển của KHCN và phát triển con người). Sự phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo vừa là kết quả của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời lại là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Động lực phát triển nội tại trong sự phát triển theo quy luật “lượng - chất”, “phủ định biện chứng” của hình thái kinh tế - xã hội TBCN (theo quan điểm của Mác: “Giai cấp tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội”[5]; “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình thành”[6]. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự “đấu tranh” để giải quyết mâu thuẫn giữa sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại trên nền tảng chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về mặt khách quan cũng là một động lực phát triển nội tại rất quan trọng.
- Nhà nước trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển luôn có sự thay đổi, điều chính cơ chế, chính sách phát triển để thích ứng với sự thay đổi của bối cảnh phát triển trong nước và quốc tế (mặc dù không phải khi nào cũng đạt được như mong muốn).
- Động lực lợi ích, chạy theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản; thúc đẩy đổi mới sáng tạo; mang lại lợi ích cho cá nhân và đồng thời cho cả xã hội.
- Động lực của cơ chế thị trường (tự do kinh doanh, cạnh tranh, tích tụ, tập trung tư bản…).
- Động lực xã hội hóa nền sản xuất xã hội (từ phát triển lực lượng sản xuất đẩy tới xã hội hóa lực lượng sản xuất; kéo theo xã hội hóa quan hệ sản xuất).
- Động lực dân chủ hóa xã hội; động lực đấu tranh giai cấp trong các nước tư bản chủ nghĩa; thúc đẩy nâng cao trách nhiệm xã hội.
8.2. Về động lực bên ngoài :
- Sự cạnh tranh giữa “hai phe” (trước đây), hai xu hướng phát triển hiện nay: TBCN và XHCN; và các xu hướng phát triển khác.
- Sự hợp tác và cạnh tranh giữa các nước với nhau, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn (kể cả giữa các nước TBCN).
- Tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; hình thành các giá chung của nhân loại (có thể nói quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, xuất hiện những vấn đề toàn cầu như: ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống ô nhiễm môi trường sinh thái, phát triển xanh - bề vững, an ninh phi truyền thống, hòa bình và phát triển…) là sự kết hợp cả các tác động bên ngoài và bên trong đối với mỗi nước.
- Tác động của học thuyết của Mác và các học thuyết tiến bộ khác. Nhiều học giả phương Tây cho rằng Học thuyết của Mác là vũ khí sắc bén phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa; các chuẩn đoán của Mác về những khuyết tật, căn bệnh của chủ nghĩa tư bản sâu sắc hơn bất kỳ nhà lý luận nào của giai cấp tư sản, rằng “ chủ nghĩa tư bản có được thành công ngày hôm nay, ở một mức độ nào đó, công lao thuộc về Mác, vì chính Mác đã vạch rõ những căn bệnh của chủ nghĩa tư bản, giúp chủ nghĩa tư bản tìm ra phương hướng cho công cuộc cải cách của mình”[7].
9. Những hạn chế, tác động tiêu cực trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong giai đoạn mới
Với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội, một mấc thang, một giai đoạn phát triển khách quan của nhân loại (theo Mác), chủ nghĩa tư bản, nhất là chủ nghĩa tư bản hiện đại, thể hiện rõ là chế độ kinh tế - xã hội tiến bộ hơn rất nhiều so với các chế độ kinh tế - xã hội trước đó; “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”[8], đã có những bước phát triển quan trọng về mặt chính trị, xã hội và con người. Tuy nhiên, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong những thập kỷ qua, cũng như trong những thập kỷ tới, vẫn chứa đựng những hạn chế, tiêu cực trong quá trình phát triển, gắn liền với bản chất của chủ nghĩa tư bản. Có thể nêu khái quát một số vấn đề như sau:
i) - Về kinh tế: Do là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển trên nền tảng của chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa, với mục đích và động cơ chủ yếu là theo đuổi lợi nhuận tối đa; như Mác nói: “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”[9]. Chủ nghĩa tư bản hiện đại luôn tìm cách làm cho tỷ suất giá tri thặng dư tăng lên, đặc biệt là sử dụng vai trò chủ đạo của khoa học công nghệ hiện đại, thể hiện ở cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc. Sự bóc lột giá trị thặng dư đã mang một hình thái mới thông qua “sở hữu trí tuệ”. Hơn thế nữa, quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện đại được “hiện đại hóa” không chỉ bó hẹp trong các nước tư bản chủ nghĩa, mà đã được “quốc tế hóa” sang các nước khác, nhất là sang các nước đang phát triển và kém phát triển.
Với việc phát triển và ứng dụng KHCN hiện đại vào phát triển lực lượng sản xuất mới, tạo nên quá trình xã hội hóa cao lực lượng sản xuất (và dó đó xã hội hóa cao quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ sở hữu) trong mỗi nước và trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, do cấu trúc, vị trí và vai trò của các loại tài sản trong sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng thay đổi theo xu hướng tài sản trí tuệ vươn lên đóng vai trò hàng đầu; do đó, chủ nghĩa tư bản hiện đại với việc sở hữu tài sản trí tuệ cao, càng làm cho phân hóa sở hữu tài sản giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau và giữa giai cấp tư bản với các tầng lớp lao động ngày càng lớn hơn. Sự phân cực trong vấn đề sở hữu tài sản và thu nhập là biểu hiện của tình trạng bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới. Nếu như trong những năm 1960, khoảng cách về thu nhập giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển là 30 lần, thì đến năm 2020, khoảng cách này là 70 lần[10]. Các tỷ phú tập trung hầu hết ở các nước phát triển; Các nước G20 là nơi chiếm gần 80% số lượng tỷ phú toàn cầu. Theo công bố của Tổ chức Oxfam ngày 25/7/2024, tài sản của 1% dân số giàu nhất thế giới đã tăng tổng cộng 42.000 tỷ USD trong thập niên qua; số tăng này cao hơn gần 36 lần so với tài sản mà 50% dân số nghèo trên thế giới tích lũy được. Tài sản ròng của nhóm 1% giàu nhất tăng bình quân gần 400.000 USD/người, trong khi mức tăng của nhóm 50% nghèo nhất là 335 USD/người...
Kinh tế ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước; tuy nhiên trong mỗi nước, nhà nước có vai trò khác nhau, có mức độ can thiệp và điều tiết hoạt động của nền kinh tế thị trường khác nhau. Trong bối cảnh phát triển nhanh và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, nhà nước ở các nước tư bản phát triển đều tăng cường mức độ can thiệp và điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm hạn chế những “bất cập” của cơ chế thị trường. Đồng thời, trên bình diện quốc tế, sự hình thành các khối (như EU, BRICS…), các liên kết song phương và đa phương đưa ra các quy định để điều tiết sự phát triển ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên, tất cả các mô hình kinh tế ở các nước tư bản phát triển là kinh tế thị trường hiện đại, đều lấy kinh tế tư nhân, tự do kinh doanh, chạy theo lợi nhuận tối đa làm nền tảng, nên luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích của từng chủ thể kinh tế, nhất là các tập đoàn lớn với nhau và với ngay nhà nước tư bản chủ nghĩa. Khi sự điều tiết của nhà nước bất cập, kém hiệu quả luôn chứa đựng nguy cơ khùng hoảng kinh tế (thậm chí ở mức nghiêm trọng), tác động tiêu cực đến sự phát triển không chỉ của một nước, mà lan rộng ra nhiều nước, nhiều châu lục (như đã từng xảy ra trong những năm 1997-1998, 2007-2008). Trong tương lai, nguy cơ này vẫn hiện hữu.
Hiện nay và trong giai đoạn mới, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong các nước phát triển và trên bình diện quốc tế luôn gắn với quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế trên nền tảng của công nghệ số, quá trình số hóa; tạo nên mối quan hệ khách quan, nhưng rất phức tạp, đầy rủi ro, tác động qua lại lẫn nhau giữa nền kinh tế thực (nền sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực) với nền kinh tế tài chính tiền tệ và với nền kinh tế ảo (virtual economy - là nền kinh tế mới tồn tại trong thế giới ảo). Việc không có đầy đủ khung khổ pháp lý và các chế tài điều chính hiệu quả mối quan hệ này trong mỗi nước cũng như trên bình diện quốc tế luôn chứa đựng những nguy cơ dẫn đến khủng hoảng, đổ vỡ nền kinh tế không chỉ trong mỗi nước, mà còn lan tỏa sang tất cả các nước đối tác ở những mức độ khác nhau, đưa đến hậu quả khôn lường.
ii) - Về chính trị: Ở hầu hết các nước tư bản sẽ vẫn là hệ thống đa đảng, nhưng khi các đảng có xung đột về giá trị phát triển, về lợi ích, về quyền lãnh đạo nhà nước… dẫn đến sự phân cực ngày càng sâu sắc giữa các đảng phái trong mỗi nước, tác động tiêu cực đến sự ổn định nền chính trị - xã hội, dẫn đến sự phân cực xã hội, làm gia tăng suy giảm niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị, vào nhà nước; và có thể nảy sinh sự mâu thuẫn giữa các nước tư bản. Điều này được thể hiện rõ ở các nước tư bản phát triển, như ở Mỹ và một số nước EU. Các nền dân chủ tư sản đang đứng trước những thách thức lớn từ các xu hướng dân tộc chủ nghĩa cực đoan, các xu hướng cực tả, cực hữu, chủ nghĩa ly khai, thậm chí cả sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít. Các xu hướng này sẽ không chỉ tác động tiêu cực đến quá trình dân chủ hóa ở các nước tư bản, tiếp tục làm cho nền chính trị của các nước này rơi vào tình thế căng thẳng và bất ổn định; mà còn tác động tiêu cực đến quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn mới, cũng không loại trừ xu hướng các lực lượng tư bản “đầu sỏ” ở các nước sử dụng các biện pháp để “chi phối” nhà nước pháp quyền, làm biến dạng quá trình dân chủ hóa; thậm chí trên bình diện quốc tế còn liên kết với nhau trở thành các thế lực tư bản toàn cầu “phi nhà nước”, chống lại ngay các chính sách của các nước chính quốc. Đồng thời chủ nghĩa tư bản hiện đại ở một số nước sẽ vẫn có xu thế áp đặt các “tiêu chuẩn, giá trị” về tự do, dân chủ, quyền con người ở các nước tư bản sang các nước khác; các nước lớn buộc các nước nhỏ hơn phải “chọn bên” trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế; dùng các “quyền lực nước lớn” để đưa ra các “tiêu chuẩn kép”, các chính sách “trừng phạt”, cấm vận đối với các nước khác. Cao hơn nữa, các thế lực tư bản hiếu chiến, “lái súng” luôn tìm cách gây xung đột, chiến tranh để có cơ hội đẩy mạnh sản xuất và buôn bán vũ khí.
iii) - Về xã hội: Trong những thập kỷ tới, xu hướng phát triển xã hội ở các nước tư bán phát triển vẫn sẽ hết sức đa dạng, phức tạp, đan xen nhau giữa các xu hướng tích cực với các xu hướng tiêu cực; thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ và cả những nhân tố đưa đến những hậu quả tiêu cực. Theo các dự báo, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn khó tránh khỏi các cuộc khùng hoảng kinh tế (ở những cấp độ khác nhau); điều này sẽ dẫn đến sự phá sản của nhiều doanh nghiệp, kéo theo là tình trạng thất nghiệp của nhiều triệu người. Đồng thời, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo AI, tự động hóa trong nền kinh tế sẽ dẫn đến tình trạng “thất nghiệp cơ cấu” ngày càng tăng, kể cả đội ngũ trí thức, công nhân lành nghề. Điều này sẽ làm cho tình trạng bất bình đẳng về thu nhập và tài sản, sự phân hoá và khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng rộng. Trong tác phẩm “tư bản thế kỷ XXI”, Thomas Piketty cho rằng mức độ phân hoá xã hội phụ thuộc vào quan hệ giữa tỷ lệ sinh lời của tư bản và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hiện nay cũng như trong những thập kỷ tới, tỷ lệ sinh lời của vốn tư bản tăng lên cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì nhất định sẽ làm cho bất bình đẳng xã hội ngày càng gia tăng nghiêm trọng hơn.
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình toàn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản toàn cầu do các tập đoàn tư bản chi phối với sự hỗ trợ của nhà nước tư bản sẽ đẩy mạnh thực hiện sự bóc lột giá trị thặng dư trên bình diện quốc tế gắn với những hình thức mới, như: xuất khẩu tư bản, đầu tư ra nước ngoài, chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; khai thác tài nguyên, sử dụng lao động giá rẻ; thu hút các nước đang phát triển, kém phát triển vào mạng lưới, sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu ở các công đoạn gia công lắp ráp, giá trị gia tăng thấp…Các tập đoàn tư bản thu được lợi nhuận độc quyền cao do độc quyền về công nghệ, về thương hiệu sản phẩm, về thị trường... Mặc dù các nước tư bản phát triển có những đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận cho sự phát triển của các nước đang phát triển và kém phát triển, nhưng trong nhiều trường hợp làm cho các nước này bị lệ thuộc nhiều mặt vào đầu tư nước ngoài, tạo thành “hai nền kinh tế” trong một quốc gia ít có sự gắn bó với nhau (nền kinh tế từ đầu tư nước ngoài FDI và nền kinh tế nội địa). Nếu không có chính sách đúng, nội lực của nền kinh tế bị suy yếu, chậm phát triển, không thực hiện được có hiệu quả quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đó là chưa kể đến hậu quả về ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, huỷ hoại môi trường sinh thái, và chịu ảnh hưởng nặng nề khi có các biến động tiêu cực của nền kinh tế thế giới.
Trong thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin, của số hoá, mạng hóa toàn cầu, chủ nghĩa tư bản hiện đại không chỉ sử dụng các công cụ này trong sản xuất kinh doanh để “tối đa hóa” lợi nhuận, mà còn để “quản lý xã hội”, “quản lý con người” vì các mục đích lợi nhuận tối đa của mình, như Couldry và Mejias đã khẳng định, “chủ nghĩa thực dân dữ liệu” mở đường cho một giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản[11], khiến đời sống con người không chỉ bị chủ nghĩa tư bản chiếm dụng và trực tiếp khai thác lợi nhuận, mà còn bị chúng giám sát và quản trị liên tục. Cùng với đó là các cuộc “xâm lăng về văn hóa”, truyền bá những giá trị văn hóa, xã hội, con người trái với thuần phong, mỹ tục, đạo đức, giá trị sống của các nước khác; làm suy yếu “sức mạnh mềm” của các nước này; thậm chí có thể gây ra những cuộc “cách mạng mầu” ở các nước.
iv) - Về bảo vệ môi trường: Từ cuối thế kỷ XX đến nay, phát triển bền vững trở thành một giá trị chung ngày càng cấp thiết hơn của nhân loại. Năm 2015, Liên hợp quốc đưa ra 17 mục tiêu phát triển bền vững, được cụ thể hóa thành 169 tiêu chí cụ thể và khuyến cáo các chính phủ trên thế giới cùng nhau hoàn thành vào năm 2030[12], với mục tiêu tổng quát là: Nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh, sự phát triển phải cân bằng giữa tính bền vững về mặt xã hội, kinh tế và môi trường; đảm bảo rằng đến năm 2030, tất cả mọi người đều được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Đây là một cuộc đấu tranh rộng lớn của toàn nhân loại, trước hết là các lực lượng tiến bộ nhằm bảo vệ môi trường sinh thái. Trong quá trình phát triển, dưới sức ép của các xu thế tiến bộ và vì lợi ích của chính quốc gia mình, chủ nghĩa tư bản hiện đại với việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến đang “vượt qua” giai đoạn khai thác và sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm môi trường ở nước mình; thực hiện các chính sách và sử dụng công nghệ cao để bảo vệ môi trường sinh thái của nước mình. Hiện nay và trong giai đoạn mới, không thể phủ nhận chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng đang đóng vai trò quan trọng trong vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững. Tuy nhiên trên bình diện quốc tế, chủ nghĩa tư bản hiện đại dường như đang sử dụng các “chính sách kép” đối với các nước đang phát triển và kém phát triển trong vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái: Một mặt đưa ra các quy định cao (rất cao) về tiêu chuẩn sản xuất và xuất nhập khẩu các hàng hóa dịch vụ từ các nước còn kém phát triển hơn (như tiêu chuẩn về chất lượng, xuất xứ hàng hóa, về phát thải…); mặt khác, lại dùng công nghệ cao, sở hữu trí tuệ để khai thác với giá rẻ các nguồn tài nguyên của các nước kém phát triển hơn, mua tín chỉ Carbon giá rẻ từ những nước này để “cân bằng” phát thải của nước mình... Điều này đang đặt ra những khó khăn, thách thức lớn đối với các nước đang phát triển và kém phát triển.
Con đường duy nhất để các nước đang phát triển và kém phát triển có thể tận dụng có hiệu quả các cơ hội mở ra trong hội nhập quốc tế, nhất là với các nước tư bản phát triển; đồng thời hạn chế, “hóa giải” được những tác động tiêu cực từ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại, là phải có đường lối và chiến lược phát triển đúng, gắn liền với đó là xây dựng và thực thi có hiệu quả một thể chế phát triển tổng hợp, đồng bộ, phù hợp về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang có sự thay đổi, phát triển mang tính đột biến, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc. Trọng tâm là phải không ngừng nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước, nâng cao năng lực độc lập tự chủ trong sự phát triển và hội nhập quốc tế.
(Hết)
PGS.TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp
[1]Trong cuốn sách “Capital in the Twenty-First Century - Tư bản trong thế kỷ 21”, Thomas Piketty chỉ ra rằng: thu nhập từ tư bản, có tốc độ tăng cao hơn nhiều so với thu nhập từ sức lao động (thường thấp hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế). Hiên nay, ở các nước phát triển, thu nhập từ tư bản vào khoảng 4-5%/năm, trong khi đó tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân của các nước này chỉ vào khoảng 1-2%/năm. Thomas Piketty đưa ra “quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản”: ở các nước phát triển tổng giá trị tư bản của nền kinh tế so với tổng thu nhập quốc dân hàng năm thường ở mức 5-6 lần. Ví dụ ở các nước như Pháp, Anh, Đức, Ý, Mỹ, Nhật Bản, thu nhập quốc dân đầu người chừng 30.000-35.000 euro/năm, còn tổng sản nghiệp đầu người (tức tư bản) chừng 150.000-200.000 euro. Do đó, nếu tổng tư bản bằng sáu năm tổng thu nhập quốc dân và nếu tỷ lệ thu nhập từ tư bản là 5% thì phần chia cho tư bản từ thu nhập quốc dân là 30%.
[2]Google LLC (Công ty TNHH Google) là một công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ, nhưng 1/2023, Chính phủ Mỹ đã kiện Google vì độc quyền công nghệ quảng cáo trực tuyến (Bộ Tư pháp và 8 bang của Mỹ đã kiện, yêu cầu giải thể mảng kinh doanh quảng cáo của Google với cáo buộc công ty này độc quyền bất hợp pháp công nghệ quảng cáo kỹ thuật số).
[3]Thuế tối thiểu toàn cầu được đưa ra vào ngày 8/10/2021 tại Diễn đàn hợp tác toàn cầu về Chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS). Trong đó, Trụ cột 2 quy định về thuế suất thuế tối thiểu toàn cầu (15%) dự kiến áp dụng từ 2024. Nguyên tắc này cho phép nước đầu tư đánh thuế tối thiểu 15% đối với thu nhập được miễn, giảm thuế tại nước nhận đầu tư. Việc đó tác động nhiều chiều đến những nước đang phát triển như Việt Nam, nhất là trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI.
[4]Mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu SDG gồm 17 mục tiêu, cũng có thể nói đó là các giá trị phát triển chung của nhân loại, bao trùm tất cả các lĩnh vực.
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.4, tr 600-601.
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, T.13, tr.15-16.
[7] Trần Tích Hỷ, Mác nói gì với chúng ta, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội – 2017, tr.362-363.
[8] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 603
[9] C. Mác - Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 23, tr. 872
[10] George Freeman: The Storm Before the Calm, N. Y. Press, USA, 2020,
[11] Xem: Nguyễn Hồng Hải Đăng: “Chủ nghĩa thực dân dữ liệu: Dữ liệu đô hộ chúng ta thế nào?”, Tạp chí Tia sáng, ngày 30-6-2021, https://tiasang.com.vn/dien-dan/chu-nghia-thuc-dan-du-lieu-du-lieu-do-ho-chung-ta-the-nao-28259/
[12] Xem: UNDP: “What are the Sustainable Development Goals”, năm 2015, https://www.undp.org/sustainable-development-goals?