Thứ Tư, ngày 27 tháng 11 năm 2024

Bế mạc Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 15: Đề xuất nhiều cơ chế hợp tác, sáng tạo để hiện thực hoá tiềm năng của biển

Ngày phát hành: 30/10/2023 Lượt xem 687

 

Trong ngày thứ hai của Hội thảo quốc tế về Biển Đông (ngày 26/10/2023) diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh, các đại biểu dự 4 phiên thảo luận chính.

 

*Đoàn kết để tạo sức mạnh tập thể

 

Trong Phiên 5 “Vai trò của Cảnh sát biển trong tăng cường hợp tác ở Biển Đông”, các học giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác giữa các lực lượng Cảnh sát biển ở khu vực. Hầu hết các đại biểu bày tỏ quan ngại sâu sắc về các hoạt động “vùng xám”, một số hoạt động đơn phương của tàu hải cảnh Trung Quốc trên Biển Đông thời gian gần đây.
 
Các ý kiến đều nhấn mạnh tầm quan trọng của ngoại giao Cảnh sát biển; cho rằng các nước nhỏ và vừa nên đẩy mạnh hợp tác, tương tác với nhau, hành động nhất quán, đoàn kết dựa trên luật pháp quốc tế để tạo sức mạnh tập thể, trong đó có khuyến nghị thể chế hoá Diễn đàn Cảnh sát biển ASEAN. Một số ý kiến cho rằng các nước trong khu vực cần thống nhất chuẩn mực của tàu Cảnh sát biển, hợp tác chia sẻ chuyên môn về thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ an toàn, môi trường biển và duy trì trật tự trên biển, nâng cao kỹ năng và sự chuyên nghiệp của cảnh sát biển. Có ý kiến cho rằng Cảnh sát biển khu vực hợp tác xây dựng năng lực an ninh biển với các nước lớn ở trong và ngoài khu vực, xây dựng các bộ quy tắc kiểm soát hành vi của lực lượng cảnh sát biển.

 

*Chuyển đổi năng lượng truyền thống thành năng lượng xanh

 

Tại Phiên 6 “Thời điểm quyết định: Năng lượng truyền thống hay năng lượng tái tạo?”, các học giả đã trình bày về việc phát triển điện gió ngoài khơi, chuyển đổi năng lượng và khai thác tài nguyên đất hiếm. Các học giả cho rằng chuyển đổi xanh và bền vững trong việc khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng, tài nguyên biển là xu hướng không thể đảo ngược. Các nước phải cân bằng giữa khai thác và bảo tồn hệ sinh thái biển, góp phần đạt được mục tiêu thứ 7 của các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs) vào năm 2030 và mục tiêu của COP26 về phát thải ròng bằng không (net-zero) vào năm 2050. Hầu hết các đại biểu đều đánh giá cao tiềm năng điện gió của Việt Nam với vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn, và tài nguyên đất hiếm rất lớn - đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Có ý kiến khuyến nghị về việc khai thác đồng bộ năng lượng truyền thống và năng lượng tái tạo và chuyển đổi năng lượng truyền thống thành năng lượng xanh thông qua sử dụng công nghệ và khả năng tích trữ CO2. Có đại biểu chia sẻ bài học kinh nghiệm thu hút đầu tư điện gió ngoài khơi, cho rằng cần phải có khuôn khổ thể chế nhất quán, đáng tin cậy, giảm bớt thủ tục hành chính, rõ ràng và đơn giản, cập nhật thông tin và sự tham gia của người dân. Bên cạnh đó, việc khai thác điện gió ngoài khơi cần chú ý quy định của UNCLOS 1982 liên quan đến khu vực an toàn 500 mét và các “biện pháp phù hợp” để bảo đảm an toàn giao thông hàng hải.
 
Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng thách thức của điện gió ngoài khơi không chỉ là về vấn đề an toàn giao thông hàng hải. Thế giới vẫn chưa đánh giá toàn diện và đầy đủ về các thách thức do các trạm điện gió ngoài khơi tạo ra với môi trường sinh thái và sự sống của động vật trên biển và dựa vào biển. Có ý kiến cho rằng tài nguyên biển sâu ở khu vực ngoài vùng tài phán quốc gia là tài sản chung của nhân loại. Khai thác tài nguyên biển sâu không chỉ là vấn đề môi trường mà còn đang trở thành vấn đề địa chính trị trong cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn.

 

*Hoà bình, ổn định, hợp tác trên Biển Đông đóng vai trò quan trọng thiết yếu với EU

 

Bà Paola Pampaloni, Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á và Thái Bình Dương, Cơ quan Đối ngoại EU (EEAS) đã tham gia Hội thảo trực tuyến và có bài phát biểu quan trọng. Đối với EU, chủ nghĩa đa phương có ý nghĩa quan trọng, đặt trong bối cảnh chủ nghĩa đơn phương và cạnh tranh nước lớn có xu hướng ngày càng gia tăng. Bà Pampaloni nhấn mạnh: Chủ nghĩa đa phương vẫn tiếp tục là công cụ hiệu quả nhất trong quan hệ quốc tế, có lợi cho tất cả, để các nước có thể hợp tác với nhau để giải quyết tranh chấp và đạt được các mục tiêu chung. Chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế không thể bị tách rời; tham gia chủ nghĩa đa phương không thể là tiến trình có "lựa chọn".
 
EU có lợi ích chiến lược và kinh tế sống còn gắn liền với an ninh trên không gian biển và sự thịnh vượng của các quốc gia ven biển Đông. Hoà bình, ổn định, hợp tác trên Biển Đông đóng vai trò quan trọng thiết yếu với EU. EU phản đối mạnh mẽ bất cứ hành vi nào làm gia tăng căng thẳng và làm suy yếu trật tự dựa trên luật lệ. Bà Pampaloni khẳng định Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là “ngọn đèn dẫn đường”, “kim chỉ nam” định hướng cho giải quyết hoà bình các tranh chấp tại khu vực. Bên cạnh đó, EU ủng hộ tiến trình đàm phán do ASEAN dẫn dắt nhằm hướng tới một bộ quy tắc ứng xử COC hiệu quả, thực chất và ràng buộc pháp lý, trong đó COC phải tôn trọng lợi ích của bên thứ ba, phù hợp với luật pháp quốc tế. Bà tái khẳng định EU luôn ủng hộ chủ nghĩa đa phương hiệu quả và ủng hộ nguyên tắc vai trò trung tâm của ASEAN. EU đã và đang tăng cường hợp tác với ASEAN và các nước thành viên của ASEAN trong đó có Việt Nam, trong các lĩnh vực như nâng cao năng lực, tăng cường nhận thức không gian biển và tăng cường hiện diện trên biển; thông qua các chương trình, dự án cụ thể như CRIMARIO, ESIWA v.v

 

*Cần có khuôn khổ hợp tác về bảo vệ, xây dựng, duy trì cơ sở hạ tầng thiết yếu

 

Phiên 07 về “Cơ sở hạ tầng thiết yếu: Ý nghĩa chiến lược mới của công nghệ” tập trung vào đánh giá tầm quan trọng và tính chống chịu của cơ sở hạ tầng dưới biển, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường an ninh các cơ sở hạ tầng này. Nhiều ý kiến cho rằng mọi quốc gia dù có hay không có biển thì đều phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng dưới đáy biển, trong đó có hệ thống cáp ngầm để kết nối và truyền tải thông tin, dữ liệu. Sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng ngoài khơi càng gia tăng trong bối cảnh thế giới đang diễn ra cuộc chuyển dịch sang năng lượng xanh. Tuy nhiên, các vùng biển thuộc khu vực Châu Âu, Trung Đông và Châu Á, bao gồm Biển Đông, đều từng xảy ra các vụ việc mà cáp ngầm hoặc hệ thống đường ống dẫn dầu bị gián đoạn. Hai nhân tố chính tác động đến tính dễ bị tổn thương của hệ thống cáp ngầm là căng thẳng địa chính trị và việc một số tập đoàn công nghệ lớn nắm vai trò chủ đạo trong việc lắp đặt và điều hành hệ thống đường cáp biển. Ngoài ra, có một số ý kiến bổ sung rằng tính dễ bị tổn thương của mạng lưới cáp ngầm xuất phát từ thực tế đây là hạ tầng cứng, không thể di chuyển, cùng với vị trí nằm dưới đáy biển dẫn đến việc khó giám sát và mất thời gian xử lý sự cố. Điều này khiến cơ sở hạ tầng đáy biển dễ trở thành mục tiêu tấn công và bị phá hoại. Để giải quyết vấn đề này, các học giả cho rằng các quốc gia cần đặt an ninh cơ sở hạ tầng đáy biển là cơ sở hạ tầng thiết yếu, ở mức ưu tiên tương đương với an ninh kinh tế, quốc phòng. Ngoài ra, tính phụ thuộc và vị trí trải rộng trên toàn cầu, rằng cần có khuôn khổ hợp tác ở cấp khu vực và quốc tế để bảo vệ việc xây dựng, duy trì và bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu.
 
Trong Phiên 8 “Tiếng nói của thế hệ kế cận”, 5 diễn giả trong chương trình Lãnh đạo trẻ của Hội thảo từ Australia, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Tổ chức quốc tế Quản lý Tổng hợp Bền vững Biển Đông Á (PEMSEA) đã thảo luận về những lo ngại của thế hệ trẻ trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông; đồng thời chia sẻ  một số ý tưởng, đề xuất để đạt được một Biển Đông hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Các diễn giả trẻ khẳng định bên cạnh những mối lo ngại của khu vực từ trước đến nay liên quan đến các tranh chấp biển giữa các quốc gia, đặc biệt là những hành vi thực hiện yêu sách gây mất an ninh, an toàn hàng hải thì khu vực Đông Nam Á nói chung và Biển Đông nói riêng đang phải đối mặt với rất các mối đe dọa mang tính phi truyền thống khác như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, cạn kiệt tài nguyên biển, thiếu năng lượng sạch,.... Các diễn giả trẻ cho rằng, để cùng đạt được hòa bình và ổn định trên Biển Đông, các quốc gia trong khu vực phải tăng cường tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 và Phán quyết của Tòa Trọng tài Phụ lục VII trong vụ kiện Biển Đông; sớm hoàn thành COC và đặc biệt tăng cường hợp tác với nhau cũng như với các quốc gia ngoài khu vực để cùng giải quyết các vấn đề quan ngại chung như phát triển năng lượng sạch, thúc đẩy nghiên cứu khoa học biển, phòng chống nước biển dâng, bảo vệ hệ sinh thái biển.
 
Phát biểu bế mạc Hội thảo, TS. Nguyễn Hùng Sơn – Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao đánh giá Hội thảo đã chỉ ra những tiềm năng to lớn của biển và đại dương, đã đề xuất nhiều cơ chế và ý tưởng hợp tác sáng tạo để hiện thực hoá tiềm năng của biển. TS. Nguyễn Hùng Sơn nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì môi trường hoà bình, tăng cường đối thoại, hợp tác để tăng cường hiệu lực của luật pháp quốc tế, các cơ chế hợp tác đa phương, giảm bớt các hành động đơn phương, qua đó “thu hẹp vùng biển xám”. Đặc biệt, TS. Nguyễn Hùng Sơn nhấn mạnh cần hướng tới tương lai, xây dựng đội ngũ chuyên gia, nhà lãnh đạo trẻ khu vực quan tâm, hiểu biết và có thói quen đối thoại và hợp tác./.  

 

PV


Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết