Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 tại Hà Nội ​

Ngày phát hành: 13/10/2022 Lượt xem 1607


 

Nhìn lại sau 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội (CSXH), coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hệ thống pháp luật và chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01/6/2012 về một số vấn đề về CSXH giai đoạn 2012-2020, với mục tiêu "tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản bảo đảm gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn. Ðến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân". Từ kết quả đánh giá sơ kết 08 năm thực hiện, Bộ Chính trị kết luận (Kết luận 92-KL/TW, ngày 05/11/2020) về tiếp tục thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về CSXH giai đoạn 2012-2020.

Nhận thức vai trò, vị trí, tầm quan trọng của CSXH đối với quốc gia, từng địa phương, đặc biệt đối với Thủ đô, trong giai đoạn vừa qua, bám sát Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Kết luận của Bộ Chính trị, Đảng bộ và Chính quyền Thủ đô tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, ASXH của người có công với cách mạng, đảm bảo chất lượng cuộc sống người dân Thủ đô ngày càng được nâng cao qua từng thời kỳ; ban hành nhiều chính sách cao hơn chính sách Trung ương quy định, Nhân dân được hưởng thụ những thành tựu kinh tế - xã hội mà Thành phố đạt được trong công cuộc đổi mới.

 

1. Những kết quả đạt được trong thực hiện CSXH

 

(1) Về ưu đãi người có công

Chú trọng triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng, đúng chế độ các chính sách đối với các đối tượng chính sách người có công, đối tượng xã hội. Hiện Hà Nội quản lý gần 800.000 người có công, trong đó: gần 84.000 đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng, với tổng kinh phí chi trả hơn 152 tỷ đồng/tháng. Trong giai đoạn từ năm 2012 - 2022 tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng quy định hơn 300.000 hồ sơ đề nghị giải quyết chính sách ưu đãi đối với người có công. Thực hiện điều dưỡng phục hồi sức khỏe trên 394.000 lượt người có công. Ước hết năm 2022 tiếp nhận và giải quyết khoảng 315.000 hồ sơ liên quan đến chính sách ưu đãi đối với người có công, điều dưỡng phục hồi sức khỏe khoảng 435.000 lượt; giải quyết chính sách đối với người tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ Quốc tế theo các quy định của Chính phủ[1], trong đó trợ cấp một lần cho 259.315 người, trợ cấp hàng tháng 1.514 người.

Hằng năm, Thành phố tập trung rà soát, giải quyết đối với hồ sơ đề nghị công nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trên địa bàn Thành phố[2]. Kết quả xét duyệt 22 trường hợp hồ sơ tồn đọng (do gia đình lưu giữ), đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét, chấp thuận xác nhận liệt sĩ đối với 17 hồ sơ đủ điều kiện; trao Quyết định công nhận cấp giấy chứng nhận 635 thương binh, trao bằng Tổ quốc ghi công 126 gia đình liệt sỹ. Làm tốt công tác phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan trong triển khai thực hiện Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin; thực hiện di chuyển, tiếp nhận hài cốt liệt sĩ đảm bảo đúng quy định, tạo điều kiện tốt nhất để các gia đình thăm viếng mộ liệt sĩ...

Đặc biệt, nhằm chăm lo tốt người có công, ngoài thực hiện chính sách theo quy định của Trung ương, Hà Nội ban hành một số chính sách đặc thù, như: quy định mức hỗ trợ hằng năm đối với các ban liên lạc tù chính trị; quy định chính sách đặc thù về chế độ điều dưỡng đối người có công với cách mạng từ 80 tuổi trở lên thực hiện hai năm một lần, trong năm không thực hiện chính sách điều dưỡng của Trung ương, rút ngắn thời gian điều dưỡng đối với người có công với cách mạng, tạo điều kiện chăm lo, cải thiện nâng cao sức khỏe người có công; là một giải pháp đảm bảo về mặt ASXH và thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với người có công với cách mạng. Thành phố quy định cụ thể nội dung, mức tặng quà của Thành phố tới các đối tượng[3] góp phần thể hiện sự tri ân, quan tâm đối với các gia đình chính sách.

Phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” của Thành phố đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ[4]. Hỗ trợ xây mới và sữa chữa nhà ở đối với trên 12.400 hộ gia đình người có công với cách mạng với kinh phí trên 1.406 tỷ đồng. Thành phố đã hoàn thành việc hỗ trợ xây dựng sửa chữa nhà ở nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7/2017. Toàn Thành phố vận động ủng hộ quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa” được trên 332,6 tỷ đồng, tặng 52.835 sổ tiết kiệm “Tình nghĩa” với kinh phí trên 52,5 tỷ đồng, thường xuyên quan tâm tu bổ, nâng cấp các công trình ghi công liệt sĩ với kinh phí gần 830 tỷ đồng, khám bệnh cấp thuốc cho hàng trăm ngàn lượt người có công. Thành phố không còn hộ người có công thuộc diện hộ nghèo, hết năm 2020 không còn hộ người có công thuộc diện hộ cận nghèo.

 

 (2) Về việc làm, thu nhập

 Thành phố luôn quan tâm ưu tiên nguồn lực, ban hành nhiều cơ chế chính sách đặc thù liên quan đến CSXH đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người dân Thủ đô. Thường xuyên bổ sung nguồn vốn ngân sách Thành phố ủy thác qua Ngân hàng CSXH cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn. Tổng nguồn vốn Ngân sách Thành phố ủy thác qua Chi nhánh Ngân hàng CSXH thành phố Hà Nội là 4.709 tỷ đồng, tăng hơn 3.900 tỷ đồng so với năm 2012. Tổng dư nợ 16 chương trình tín dụng (đến 31/12/2021) đạt 11.743 tỷ đồng, trên 253.000 khách hàng đang vay vốn, tăng 7.749 tỷ đồng (65,9%) so với năm 2012[5]. Qua hoạt động vay vốn đã thu hút, tạo việc làm cho 86.000 lao động (hoàn thành 54% kế hoạch giải quyết việc làm của Thành phố năm 201[6]), đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu về giảm nghèo, tạo việc làm, đảm bảo ASXH trên địa bàn.

 

Đẩy mạnh kết nối cung - cầu lao động thông qua việc tổ chức các phiên giao dịch việc làm. Từ năm 2012-2022, số phiên giao dịch việc làm được tổ chức là 1.519 phiên, với tổng số đơn vị, doanh nghiệp tham gia phiên là 54.676 đơn vị, số lao động được tư vấn, cung cấp thông tin là 632.976 lao động (trong đó, số lao động trúng tuyển là 206.077 lao động). Tạo việc làm thông qua các hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cho trên 31.000 người đi xuất khẩu lao động.

 

Tăng cường thông tin về thị trường lao động, ứng dụng công nghệ thông tin tăng hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành hệ thống Sàn giao dịch việc làm, phát triển Website "vieclamhanoi.net" thành “Cổng thông tin điện tử về lao động việc làm của Thành phố”, hỗ trợ lao động đăng tin tìm việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp đăng tin tuyển dụng; tổ chức phát hành Bản tin dự báo thị trường lao động. Nâng cao chất lượng tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động nhằm nhanh chóng đưa người lao động quay trở lại thị trường lao động tại sàn chính và 08 điểm, 05 sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các quận, huyện[7].

 

(3) Về công tác giảm nghèo

Công tác giảm nghèo được Thành phố xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Mục tiêu giảm nghèo được đưa vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố và Nghị quyết HĐND Thành phố hằng năm. Kế hoạch giảm nghèo được ban hành theo từng giai đoạn (05 năm), theo đó các chỉ tiêu, mục tiêu của Thành phố đặt ra luôn ở mức cao hơn so với quy định của Trung ương. Thành phố áp dụng chuẩn nghèo riêng cao hơn 1,5 lần chuẩn nghèo quốc gia. Ngoài các chính sách hỗ trợ giảm nghèo của Chính phủ quy định, Hà Nội ban hành nhiều chính sách đặc thù phù hợp với thực tế. Các chính sách, giải pháp hỗ trợ giảm nghèo được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, hiệu quả, công khai, minh bạch, đạt nhiều kết quả ấn tượng[8]. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 7,52% đầu năm 2011 xuống còn 0,96% cuối năm 2015 theo chuẩn nghèo của Thành phố giai đoạn 2011-2015. Giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3,64% đầu năm 2016, xuống chỉ còn 0,04% cuối năm 2020, Thành phố cơ bản không còn hộ nghèo, có 19/30 quận, huyện không còn hộ nghèo, trong đó: 02 quận không còn hộ nghèo và hộ cận nghèo.

 

(4) Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp

Các doanh nghiệp quan tâm, triển khai thực hiện các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH). Phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt khối các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tiền thân là doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm túc việc đóng, hưởng chế độ BHXH. Thông qua các hoạt động tuyên truyền, người lao động được tiếp cận, có hiểu biết nhiều hơn về chính sách, nhận thức rõ về lợi ích của việc tham gia BHXH. Vì vậy, số lượng lao động tham gia BHXH không ngừng tăng lên, từ 1,17 triệu người (năm 2012) lên 1,92 triệu người (năm 2021), đạt tỷ lệ 40,3% số người trong độ tuổi lao động tham gia BHXH; ước hết năm 2022, số người tham gia BHXH là 2,02 triệu người, đạt tỷ lệ 41,5%. Số người tham gia BHXH tự nguyện là 63.304 người (năm 2021), tương đương tốc độ gia tăng là 179% so với năm 2018. Số lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ hơn 1 triệu người (2012) lên trên 1,79 triệu người (2021).

Bảo hiểm thất nghiệp từng bước trở thành giá đỡ quan trọng, hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp và người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động hay mất việc làm. Hằng năm, Hà Nội tiếp nhận hồ sơ và quyết định hưởng trợ cấp BHXH cho 50 - 70 nghìn người. Từ 2012 đến nay, số người nộp hồ sơ đăng ký hưởng bảo hiểm thất nghiệp: 483.809 hồ sơ; ra Quyết định hưởng bảo hiểm thất nghiệp: 481.035 người, số tiền hỗ trợ trên 8.877 tỷ đồng; tư vấn giải quyết việc làm cho 483.809 người; hỗ trợ học nghề: 24.486 người (trên 78 tỷ đồng).

 

(5) Trợ giúp xã hội

Thành phố luôn quan tâm, thăm hỏi, động viên các hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng yếu thế. Hiện Hà Nội có trên 200.000 đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng và trên 2.700 đối tượng đang nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội (chiếm 2,3% dân số Hà Nội), trong đó: 99.000 người cao tuổi. Mức chuẩn trợ cấp xã hội của Hà Nội hiện là 440.000 đồng (cao hơn mức của Trung ương hiện là 360.000 đồng). Kinh phí thực hiện trợ cấp xã hội trên 100 tỷ đồng/tháng từ nguồn ngân sách Thành phố. Hà Nội ban hành Đề án sắp xếp lại các cơ sở trợ giúp xã hội công lập để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội, đồng thời mở rộng các dịch vụ xã hội đáp ứng nhu cầu của người dân. Kịp thời triển khai công tác cứu trợ đột xuất đối với các trường hợp gặp rủi ro bởi thiên tai, dịch bệnh, lý do bất khả kháng... Các trường hợp gặp rủi ro bởi thiên tai, hỏa hoạn... đều được chính quyền địa phương trợ cấp kịp thời để hỗ trợ khắc phục khó khăn, khắc phục hậu quả sau thiên tai, sớm ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất, kinh doanh... Công tác xã hội được triển khai có chiều sâu, chuyển hướng từ trợ cấp sang trợ giúp phát triển bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, có tính lan tỏa, thu hút ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức, nhà hảo tâm tham gia. Các chương trình, cuộc vận động đã được triển khai[9]. Các hoạt động thiết thực đó góp phần chăm lo đời sống vật chất và động viên tinh thần đối với người nghèo, người dễ bị tổn thương trên địa bàn. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới được triển khai tích cực, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm, chăm sóc và trợ giúp kịp thời; 14.160/14.221 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp bằng nhiều hình thức khác nhau, đạt tỷ lệ 99,6%; có 520/579 (89,8%) xã phường đạt tiêu chuẩn xã phường phù hợp với trẻ em. Nhận thức của xã hội về bất bình đẳng giới bước đầu được nâng cao. Công tác đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội được thực hiện quyết liệt. Mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường học không có tệ nạn xã hội được nhân rộng. Thành phố thực hiện chính sách hỗ trợ khuyến khích hỏa táng từ năm 2010[10] đến nay đạt 64,5%, đồng thời áp dụng hình thức thanh toán kinh phí hỗ trợ khuyến khích hỏa táng trực tiếp tại các cơ sở hỏa táng để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận các dịch vụ công của Thành phố.

 

(6) Về bảo đảm giáo dục tối thiểu

Hà Nội có quy mô hàng đầu cả nước về giáo dục, đi đầu trong phổ cập giáo dục mầm non, trung học phổ thông. Số trẻ 5 tuổi đến trường đạt 100%; 100% xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Thành phố quan tâm bố trí kinh phí đầy đủ, kịp thời, công tác đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm, chú trọng giải quyết tình trạng thiếu trường, lớp công lập. Hoàn thành việc xóa phòng học tạm, phòng học cấp 4 nguy hiểm. Giai đoạn 2012-2021, các đơn vị có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thực hiện tuyển sinh đào tạo đạt 1.857.716 lượt người[11]. Tính đến 31/12/2021, đã tổ chức đào tạo nghề cho 217.571 người là lao động nông thôn[12]; giải quyết việc làm sau đào tạo 169.909 lao động nông thôn/212.859 qua đào tạo; tỷ lệ có việc làm của người lao động sau học nghề đạt trên 79,8%[13]. Bình quân mỗi năm có khoảng 185.771 lượt người được tham gia đào tạo nghề, góp phần quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực qua đào tạo cho thị trường lao động Thủ đô, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của Thành phố tăng từ 43,5% năm 2012 lên 71,1% năm 2021. Số học sinh, sinh viên, học viên có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt từ 60 - 85%, góp phần quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực qua đào tạo cho thị trường lao động Thủ đô.

 

Chi trả tiền cho các đối tượng chính sách tại phường Nguyễn Trãi (quận Hà Đông). Ảnh: TTXVN

 

(7) Bảo đảm y tế tối thiểu (gm cả bảo hiểm y tế)

Tính đến cuối năm 2021, toàn Thành phố đạt tỷ lệ 91,8% người dân tham gia bảo hiểm y tế (BHYT); 100% các xã đã xây dựng kế hoạch thực hiện công tác BHYT trên địa bàn, phân công nhiệm vụ cho các ban ngành, đoàn thể thực hiện vận động nhân dân tham gia BHYT tự nguyện. Mạng lưới y tế cơ sở được phát triển ngày càng toàn diện. Đến nay, 100% số xã đạt các tiêu chí quốc gia về y tế xã. Công tác xây dựng chuẩn quốc gia về y tế xã được Thành phố quan tâm chỉ đạo, đã có sự phối hợp tốt của các Sở, ban, ngành, đoàn thể. 100% trạm y tế có bác sỹ công tác tại trạm, trong đó: 502/579 trạm y tế có bác sỹ biên chế. 100% trạm y tế được xây dựng kiên cố và được mua sắm trang thiết bị y tế đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Các trạm y tế cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân.[14]

Các bệnh viện đa khoa tuyến huyện được đầu tư về cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế, đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh thông thường của nhân dân. Các bệnh viện đã thực hiện được các kỹ thuật đúng tuyến, nhiều bệnh viện đã thực hiện được kỹ thuật vượt tuyến như mổ sọ não, mổ nội soi… Số lượt khám chữa bệnh tại các bệnh viện tuyến huyện ngày càng tăng, công suất sử dụng giường bệnh đều đạt trên 100%. Số bệnh nhân điều trị nội trú hàng năm đều tăng, giảm số bệnh nhân chuyển viện lên tuyến trên. 53 phòng khám đa khoa khu vực thuộc các Trung tâm Y tế quận, huyện, thị xã đã được đầu tư trang thiết bị y tế và tăng cường cán bộ chuyên môn, thu hút được nhiều bệnh nhân đến khám, chữa bệnh.[15]

Thành phố đầu tư phát triển hệ thống y tế dự phòng ở các huyện và thị xã về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tăng cường nguồn nhân lực, bảo đảm cho y tế dự phòng tuyến huyện thực hiện tốt công tác phòng chống dịch, vệ sinh an toàn thực phẩm và thực hiện các chương trình y tế. Thực hiện các biện pháp đồng bộ nhằm kiểm soát, khống chế các dịch bệnh. Tuyên truyền nâng cao sức khỏe phòng chống dịch bệnh và bệnh, tật học đường cho học sinh được triển khai sâu rộng. Các chương trình, đề án, dự án trong lĩnh vực y tế được quan tâm triển khai thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu y tế của người dân và giảm tải cho tuyến trên. Một số dự án quan trọng được triển khai, hoàn thiện[16]. Các bệnh viện đều đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng, đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại[17]. Chất lượng khám, điều trị bệnh được tăng cường, các bệnh viện đã đưa khoảng 30 kỹ thuật, công nghệ mới vào chẩn đoán và điều trị bệnh. Triển khai thí điểm lập hồ sơ khám, quản lý sức khỏe điện tử toàn dân và đã lập được hơn 859.000 hồ sơ. Ngành y tế thực hiện chương trình đổi mới phong cách, thái độ ứng xử của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Tất cả các chương trình y tế theo định hướng của Bộ Y tế đều được triển khai đảm bảo đúng tiến độ. Các chỉ tiêu chuyên môn từng chương trình đạt và vượt mức Thành phố giao.

 

(8) Bảo đảm nhà ở tối thiểu

Thành phố tập trung huy động nguồn lực phát triển nhà ở, hỗ trợ cải tạo nhà ở cho người có công và hộ nghèo. Theo số liệu khảo sát, thống kê, tính đến thời điểm 31/12/2020, tổng diện tích sàn nhà ở trên toàn địa bàn Thành phố đạt 224,73 triệu m2, diện tích bình quân đầu người toàn Thành phố đạt 27,25 m2/người[18]; tổng diện tích nhà ở toàn Thành phố đã tăng thêm khoảng 49,67 triệu m2 so với năm 2016 (đạt 175,05 triệu msàn). Đối với từng giai đoạn, Thành phố ban hành kế hoạch xây mới, sửa chữa nhà ở cho người có công và hộ nghèo. Về cơ bản, không còn nhà ở dột nát, nhà tạm trên địa bàn. Chú trọng đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, cải tạo các chung cư cũ, xuống cấp, xây dựng khu nhà ở cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu[19]. Tháng 9/2021, HĐND Thành phố đã thông qua Nghị quyết “Đề án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Phát triển nhà ở, quản lý nhà và thị trường bất động sản được tiếp tục đẩy mạnh, đã hoàn thành 06 dự án nhà ở thương mại[20]; 02 dự án nhà ở xã hội[21]; 05 dự án tái định cư[22]. Riêng năm 2021, Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Hà Nội đã tổ chức Chương trình bàn giao kinh phí hỗ trợ xây dựng 100 nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của 11 huyện, thị xã, với kinh phí trích từ Quỹ Vì người nghèo Thành phố là 4 tỷ đồng (hỗ trợ 40 triệu/nhà); vận động các doanh nghiệp ủng hộ các vật dụng khác cho hộ gia đình. Triển khai hỗ trợ 06 nhà đại đoàn kết cho các hộ là người có công với cách mạng khó khăn về nhà ở với tổng trị giá 480 triệu đồng.

 

(9) Bảo đảm nước sạch

Các dịch vụ đô thị dần được cải thiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống cung cấp nước sạch được đầu tư mở rộng, khắc phục tình trạng thiếu nước sinh hoạt ở các khu dân cư. Tỷ lệ hộ dân có điện, nước sinh hoạt đạt 100%. Thành phố tiếp tục đẩy nhanh các dự án cấp nước sạch khu vực đô thị với tổng nguồn nước sạch tập trung cung cấp cho Thành phố đạt khoảng 1.520.000 m3/ngày đêm, tăng 623.000m3/ngày đêm so với năm 2016. Với tổng công suất các nguồn cấp hiện cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho 100% nhân dân khu vực đô thị và mở rộng cấp nước cho khu vực nông thôn. Khu vực nông đạt trên 252/414 xã được tiếp cận nguồn nước sạch từ việc đầu tư xây dựng công trình cấp nước và mạng cấp nước từ hệ thống cấp nước tập trung của Thành phố. Hệ thống cấp nước nông thôn có khả năng cung cấp được khoảng 3,6 triệu người (900.135 hộ), khoảng 80% người dân nông thôn được tiếp cận nước sạch; chỉ còn 162 xã (358.055 hộ với 1.356.777 người) chưa được đầu tư hệ thống cấp nước tập trung.

 

Đầu tư các trạm xử lý rác thải, nước thải; hoàn thành cải tạo môi trường nhiều hồ tại nội đô. Tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, xử lý triệt để các điểm nóng về ô nhiễm bụi, khí thải. Hiện khối lượng rác trên địa bàn các quận, huyện, thị xã được phân luồng về tiếp nhận, xử lý tại khu liên hợp xử lý chất thải Nam Sơn (khoảng 5.000 - 5.500 tấn/ngày) và khu xử lý chất thải Xuân Sơn (khoảng 1.500 tấn/ngày). Công nghệ xử lý bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh, số lượng nhỏ (khoảng 100 tấn/ngày) được xử lý bằng phương pháp đốt thông thường tại Nhà máy xử lý rác thải Xuân Sơn của Hợp tác xã Thành Công.

 

(10) Bảo đảm thông tin truyền thông

Công tác thông tin tuyên truyền được thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Triển khai tích cực Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư” và các phong trào xây dựng nếp sống văn minh dưới nhiều hình thức phong phú (trong việc cưới hỏi, tang, lễ hội...). Tiếp tục phát huy vai trò tích cực của các mô hình gia đình văn hóa, nhà văn hóa, tổ dân phố, đơn vị văn hóa. Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, xây dựng đời sống văn hóa; hoàn thiện quy định công nhận các danh hiệu văn hóa trên địa bàn. Tổ chức các hoạt động nghệ thuật, thể thao… phục vụ các sự kiện, kỷ niệm các ngày lễ lớn. Thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao được đẩy mạnh.

 

Thành phố triển khai đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên báo chí và hệ thống thông tin cơ sở về phát triển kinh tế ở các xã miền núi gắn với xây dựng nông thôn mới, công tác giảm nghèo cho các xã miền núi; triển khai đưa báo về cơ sở: từ tháng 6/2013 đến tháng 02/2014, đưa 10 đầu báo[23] về điểm bưu điện văn hóa của 16 xã miền núi, xã đặc biệt khó khăn của 06 huyện[24] để phục vụ người dân đọc báo miễn phí. Từ tháng 3/2014 đến hết năm 2015, đưa 04 ấn phẩm báo chí về 15 điểm bưu điện văn hóa xã và 157 nhà văn hóa thôn của 16 xã. Hoạt động đưa thông tin về các xã miền núi, xã khó khăn đã giúp người dân có điều kiện tiếp cận với thông tin, tri thức, nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Triển khai Chương trình viễn thông công ích, Đề án số hóa truyền hình mặt đất, đến ngày 15/8/2016, Thành phố đã hoàn thành công tác hỗ trợ, lắp đặt đầu thu, cáp truyền hình cho hộ nghèo, đảm bảo 100% hộ nghèo được tiếp cận và sử dụng truyền hình số. Từ năm 2016, Thành phố thường xuyên tổ chức các hoạt động phát triển văn hóa đọc, như: Phố Sách Xuân, Hội Sách Thiếu nhi, thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân Thủ đô[25].

 

(11) Nhiều chính sách đặc thù, mô hình, điển hình về CSXH

Thành phố áp dụng mức chuẩn nghèo luôn cao hơn khoảng 1,5 lần so với chuẩn nghèo Trung ương. Mức chuẩn trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội cao hơn khoảng 30%. Tổ chức điều dưỡng luân phiên đối với người có công với cách mạng 2 năm/lần. Xây dựng, ban hành các quy định xây dựng, sửa chữa nhà ở cho người có công với cách mạng, nhà ở cho hộ nghèo, cận nghèo. Ngoài nguồn ngân sách, Thành phố huy động thêm các nguồn lực, vận động xã hội hóa để hỗ trợ cho các hộ chính sách, hộ nghèo. Triển khai các dự án xây nhà ở xã hội; nhà bán, cho thuê, thuê mua dành cho người có thu nhập thấp khu vực đô thị. Hằng năm, ngân sách Thành phố bổ sung nguồn vốn ủy thác sang Ngân hàng CSXH để cho vay giải quyết việc làm, trong đó ưu tiên hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người khuyết tật... Thành phố ban hành chính sách đặc thù trợ cấp hàng tháng cho người già yếu không có khả năng tự phục vụ; người mắc bệnh hiểm nghèo không có khả năng lao động; thanh niên xung phong không có khả năng lao động, sống cô đơn. Mức trợ cấp bằng mức chuẩn trợ giúp xã hội[26]. Hỗ trợ đầu tư đường dây điện từ sau công tơ đến nơi sử dụng điện của các hộ gia đình thuộc diện hộ nghèo tại 15 xã miền núi, giữa sông; hộ nghèo có thành viên là đối tượng bảo trợ xã hội (người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, người tâm thần), mức hỗ trợ 720.000 đồng/hộ. Thực hiện tặng quà chúc thọ, mừng thọ cho người cao tuổi vào dịp Tết Nguyên đán, mức tặng quà cao hơn mức quy định của Trung ương. Cấp thẻ đi xe buýt miễn phí cho người khuyết tật, thương bệnh binh có nhu cầu. Giảm 50% giá vé xe buýt tháng đối với người cao tuổi. Thực hiện tốt công tác tập trung người lang thang xin tiền trên địa bàn Thành phố, đưa vào Trung tâm Bảo trợ xã hội trong dịp Tết Nguyên đán và những đợt rét đậm, rét hại, góp phần đảm bảo trật tự, mỹ quan đô thị. Đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng thông tin, giải trí, thư viện để nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần cho người dân. Đặc biệt, chú ý đầu tư các công trình vui chơi lành mạnh cho trẻ em, khu luyện tập thể dục thể thao. Quan tâm đầu tư, nâng cấp chợ nông thôn, hỗ trợ xây dựng các trung tâm thương mại cấp huyện, xã để cung cấp các nguồn hàng phong phú, có chất lượng. Tổ chức các phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn.

 

2. Một số vấn đề đặt ra đối với CSXH trong thời gian tới

 

(1) Để thực hiện tốt CSXH cần có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính quyền; sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả của các sở, ngành, quận, huyện, thị xã; sự chung tay góp sức của các tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội. Ưu tiên tăng nguồn lực Thành phố và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa nguồn lực thực hiện các CSXH.

 

(2) Các CSXH cần được xây dựng, ban hành phải phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân; thường xuyên tiến hành rà soát, hoàn thiện để tránh trùng lắp, chồng chéo; tuyên truyền rộng rãi, công khai, minh bạch để mọi người dân biết và tham gia giám sát. Việc xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, giải pháp trong công tác ASXH cần gắn kết với các đề án, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

 

(3) Tiếp tục cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công; bảo đảm an sinh xã hội, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của ngân sách.

 

(4) Phát triển hệ thống ASXH đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH. Phát triển nhà ở xã hội theo dự án đồng bộ, văn minh, hiện đại; phân bố tập trung, vị trí phù hợp nhằm tạo sự thuận lợi cho người sử dụng; đẩy mạnh phát triển nhà ở cho các đối tượng công nhân, người lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu chế xuất; đảm bảo các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và những điều kiện dân sinh khác. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh cho cá nhân và gia đình.

 

(5) Hiện đại hóa hệ thống quản lý theo hướng chuyên nghiệp, tinh gọn, hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chính sách ASXH ở các cấp, đáp ứng nhu cầu tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân. Thường xuyên tiến hành giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách ở cơ sở. Gắn nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát với công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Định kỳ tiến hành sơ, tổng kết để đánh giá, rút kinh nghiệm và nhân rộng những bài học hay, những cách làm hiệu quả, những gương điển hình. Kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân trực tiếp tham mưu, tham gia các nhiệm vụ đảm bảo ASXH.

 

(6) Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các CSXH.

 

3. Giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thực hiện CSXH

Từ kết quả tổng kết đánh giá 10 năm thực hiện CSXH, Hà Nội là một trong những địa phương đi đầu hoàn thành các mục tiêu đề ra. Với mục tiêu tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công; bảo đảm ASXH toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân, trong giai đoạn tới, Hà Nội tập trung triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đối với CSXH. Cụ thể:

 

3.1. Ưu đãi người có công

Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Thực hiện ưu đãi người có công với cách mạng phù hợp với tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội. Chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người có công, đảm bảo người có công có mức sống trung bình cao hơn mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Tiếp tục nghiên cứu, cải cách, hoàn thiện các chính sách ưu đãi người có công. Nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội, khuyến khích các cơ quan, tổ chức, cá nhân tích cực tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho người có công, góp phần bảo đảm công bằng xã hội và tạo điều kiện thuận lợi để người có công xây dựng cuộc sống, tiếp tục khẳng định vai trò trong cộng đồng xã hội. Đẩy mạnh các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ”, xây dựng nhà tình nghĩa, chăm sóc, giúp đỡ thương, bệnh binh nặng, bố mẹ liệt sỹ già yếu cô đơn, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đào tạo, sắp xếp việc làm đối với con thương binh, con liệt sĩ…

 

3.2. Việc làm và thị trường lao động

(1) Giải pháp tạo việc làm

Phát huy các nguồn lực của xã hội vào việc tạo việc làm và đảm bảo việc làm. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm, công tác dự báo thị trường lao động. Tăng cường huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp và các tổ chức trong công tác đào tạo nâng cao trình độ người lao động. Thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi[27] để khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo với các hình thức khác nhau như đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tự tổ chức đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp nhằm đào tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và nhu cầu xã hội...

Phát triển mạnh khu vực dân doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nhanh chóng tạo ra việc làm và thu hút lao động vào sản suất. Phát triển kinh tế trang trại, kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp, thị trường xuất khẩu lao động. Tiếp tục phát triển các làng nghề, phố nghề truyền thống theo hướng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao. Kết hợp giữa phát triển các làng nghề với phát triển du lịch để tạo việc làm.

(2) Về phát triển thị trường lao động và giải quyết việc làm

Đẩy mạnh triển khai và đa dạng hóa các dịch vụ cung ứng nhân lực cho các doanh nghiệp. Khai thác tối đa nhu cầu lao động tại các thị trường mới tiềm năng cũng như các thị trường truyền thống. Bên cạnh đó, đẩy mạnh khai thác nhu cầu lao động trong các lĩnh vực và các nghề mới, đòi hỏi trình độ cao cả về tay nghề và ngoại ngữ, các nghề trong lĩnh vực y tế, dịch vụ... Triển khai các biện pháp ngăn ngừa lao động bỏ hợp đồng, lao động hết hạn hợp đồng không về nước, ở lại làm việc bất hợp pháp. Kiên quyết xử lý các vi phạm của cá nhân và doanh nghiệp để chấn chỉnh hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Đảm bảo và triển khai có hiệu quả nguồn tín dụng ưu đãi để giải quyết việc làm của các Chi nhánh Ngân hàng CSXH, đảm bảo 100% hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn có nhu cầu và đủ điều kiện đều được vay vốn. Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Nhà nước đến nhân dân; hướng dẫn cho vay đúng đối tượng, sử dụng vốn vay đúng mục đích và quản lý, giám sát thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi.

Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện các chính sách, văn bản, pháp luật; thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc các doanh nghiệp, nhà đầu tư, thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý lao động. Đổi mới cách thức quản lý lao động để công tác quản lý lao động đạt hiệu quả tốt nhất.

 

3.3. Về công tác giảm nghèo

Tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Phong trào thi đua “Vì người nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau”. Triển khai đồng bộ các chính sách, giải pháp giảm nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều, chú trọng giảm nghèo tại vùng đồng bào dân tộc, miền núi.

Các chính sách hỗ trợ hộ nghèo tập trung, không nên dàn trải, gây nên sự ỷ lại, trông chờ sự hỗ trợ từ Nhà nước của người dân. Xây dựng các chính sách cụ thể cho các nhóm đối tượng cụ thể (theo nguyên nhân nghèo, nhu cầu cần hỗ trợ); chính sách hỗ trợ mang tính khuyến khích, tạo động lực cho các hộ vươn lên.

Cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, đặc biệt tại các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, vùng dân tộc, miền núi. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả cơ chế, chính sách giảm nghèo để cải thiện điều kiện sống của người nghèo và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế; giáo dục và đào tạo; nhà ở; nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin; giảm nghèo gắn với an ninh quốc phòng… Thực hiện chương trình giảm nghèo gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới.

 

3.4. BHXH và bảo hiểm thất nghiệp

Thể chế hóa và triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về cải cách chính sách BHXH. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương, chính sách về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp với nhiều hình thức phong phú, thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về sự cần thiết, lợi ích, ý nghĩa, tầm quan trọng của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi người dân khi tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

 

3.5. Trợ giúp xã hội

Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội và chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội tại các cơ sở xã hội. Chủ động ứng phó với diễn biến phức tạp của thiên nhiên, thời tiết; bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời để ổn định cuộc sống.

Đổi mới phương pháp, cách thức trợ giúp xã hội. Linh hoạt trong tiếp cận và cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội để đối tượng được tiếp cận, sử dụng dịch vụ thuận tiện. Tăng cường các hoạt động tư vấn, tham vấn cho người dân có nhu cầu trợ giúp. Nâng cao năng lực phát hiện các vấn đề xã hội của cộng đồng để người dân chủ động thông báo với cấp có thẩm quyền giải quyết hoặc phòng ngừa ảnh hưởng tiêu cực đến người dân.

Thực hiện các chính sách dân tộc kịp thời, đúng đối tượng. Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, dự án về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chính sách thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ, các chương trình, kế hoạch phòng, chống tệ nạn xã hội.

 

3.6. Các dịch vụ xã hội cơ bản

Đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cuộc cách mạng mới và hội nhập quốc tế. Đầu tư cơ sở vật chất trường, lớp học và trang thiết bị dạy học theo hướng đồng bộ, kiên cố, hiện đại và đạt chuẩn quốc gia. Xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh, thân thiện, không có bạo lực học đường. Chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, truyền thống trong ngành giáo dục; giáo dục động cơ học tập, trách nhiệm công dân trong học sinh, sinh viên. Tập trung nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học. Thực hiện các chính sách phát triển giáo dục và đào tạo cho vùng khó khăn và đối tượng chính sách. Tiếp cận công bằng trong giáo dục và đào tạo. Rà soát sắp xếp hợp lý mạng lưới trường mầm non, trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp đảm bảo đủ chỗ học cho người học.

Tổ chức thực hiện tốt các chương trình dạy nghề, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn, gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Tăng cường công tác xã hội hoá trong lĩnh vực đào tạo nghề; nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo.

Nâng cao sức khỏe, thể lực, tầm vóc và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Thực hiện đồng bộ các đề án, chương trình về nâng cao sức khỏe và tầm vóc người dân. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế cấp cơ sở, đảm bảo tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân; đưa công nghệ mới vào việc chăm sóc sức khỏe, giảm thời gian khám và điều trị. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở. Phát triển y học gia đình; đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế cấp xã. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. Đẩy mạnh đầu tư, giảm tình trạng quá tải bệnh viện. Triển khai các hoạt động nâng cao sức khỏe của bà mẹ và trẻ em. Đẩy mạnh tuyên truyền trong công tác thực hiện bảo hiểm y tế, tiến tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.

Triển khai các dự án nhà ở xã hội cho các đối tượng, như: công nhân, người thu nhập thấp... [28] Cải cách thủ tục hành chính, khuyến khích, tạo điều kiện các nhà đầu tư xây dựng triển khai các dự án nhà ở cho các đối tượng CSXH thuê, mua.

Chuyển biến mạnh mẽ về ý thức bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về bảo vệ môi trường. Khuyến khích xã hội hóa đầu tư bảo vệ môi trường. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm. Tập trung xử lý kịp thời các điểm gây ô nhiễm, nhất là ở các làng nghề, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Xây dựng các khu xử lý chất thải rắn quy mô cấp huyện, liên huyện, nhà máy phân hữu cơ. Tích cực triển khai công nghệ mới, xử lý triệt để ô nhiễm môi trường nước. Phát triển hệ thống thủy lợi, thoát nước và xử lý nước thải.

 

3.7. Các giải pháp thực hiện

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội trong việc thực hiện các chương trình, chính sách đối với người có công và bảo đảm ASXH.

 

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, thể chế hoá Nghị quyết, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức và nhân dân về CSXH. Xác định rõ CSXH chăm lo cho người dân là nhiệm vụ chiến lược, là trách nhiệm thường xuyên của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức, đoàn thể và nhân dân Thủ đô; đặt con người vào trung tâm chính sách; phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp, đoàn kết, "tương thân, thương ái" của dân tộc ta.

Cải tiến và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ưu đãi người có công và ASXH. Rà soát, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Thành phố; các cơ chế, chính sách bảo đảm tính hệ thống và đồng bộ, đơn giản và hiệu quả; vừa hỗ trợ, vừa khuyến khích nỗ lực vươn lên của các đối tượng thụ hưởng, khắc phục sự ỷ lại vào Nhà nước.

 

Ðẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các CSXH.

Thành phố ưu tiên bảo đảm đủ nguồn lực để thực hiện chính sách người có công, đồng thời quan tâm bố trí ngân sách và đẩy mạnh xã hội hóa huy động nguồn lực cho việc thực hiện CSXH. Ðổi mới việc phân bổ nguồn lực đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu của các CSXH. Phân cấp mạnh cho các địa phương và đề cao trách nhiệm của địa phương trong quản lý, sử dụng, lồng ghép các nguồn lực thực hiện. Hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân, bảo đảm minh bạch, hiệu quả./.

 

TS. Nguyễn Văn Phong

Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội

 

 


 

 



[1] Các Quyết định: số 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2002; số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008; số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011; Số 49/2015/QĐ-TTg ngày 14/10/2015.

[2] Quy định tại Quyết định số 408/QĐ-LĐTBXH ngày 20/3/2017 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

[3] nhân dịp Tết Nguyên đán, kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, Quốc khánh 2/9.

[4] như: 100% xã, phường, thị trấn làm tốt công tác thương binh liệt sĩ; 100% bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được cơ quan, đơn vị nhận phụng dưỡng.

[5] Năm 2021, nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng CSXH Thành phố đã giải ngân 115.000 lượt khách hàng là hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn được vay vốn, trong đó: trên 2.900 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, 78.000 lượt khách hàng vay vốn chương trình giải quyết việc làm. 

[6] Riêng nguồn ủy thác Thành phố cho vay trên 47.600 lượt khách hàng, góp phần thu hút, tạo việc làm gần 52.400 lao động.

[7] Giai đoạn 2012 - 2022, Hà Nội giải quyết việc làm trên 1,7 triệu lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo hiện đạt 70,2%; giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị từ 5,89% (năm 2011) xuống 4,85% (năm 2015) và 3,97% (năm 2021).

[8] Cụ thể: Năm 2016, Thành phố hỗ trợ 100% hộ nghèo tiếp cận truyền hình số mặt đất. Năm 2017, Thành phố tập trung hỗ trợ 100% gia đình người có công với cách mạng thoát nghèo; cơ bản hoàn thành công tác hỗ trợ nhà ở cho người có công; Thành phố không còn xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Năm 2018, hoàn thành Chương trình hỗ trợ nhà ở hư hỏng cho hộ nghèo; tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2018 còn 1,16%, hoàn thành trước 02 năm mục tiêu giảm nghèo của Thành phố giai đoạn 2016-2020. Năm 2019, tập trung hỗ trợ các hộ không có khả năng thoát nghèo. Cuối năm 2020, Thành phố cơ bản không còn hộ nghèo.

[9] như: hỗ trợ thường xuyên, đột xuất, trợ vốn, tặng học bổng, tặng xe lăn, xây sửa nhà, chăm sóc sức khỏe, hiến máu, hiến tạng nhân đạo, tham gia phòng ngừa ứng phó với thiên tai thảm họa, thực hiện chính sách an sinh xã hội, chung tay xây dựng nông thôn mới....

[10] tỷ lệ người dân sử dụng hình thức hỏa táng đối với người thân khi qua đời tăng từ 6% (trước năm 2010).

[11] Trong đó: trình độ cao đẳng: 179.202 người, trình độ trung cấp: 199.801 người; trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng: 1.478.713 người.

[12] Nghề nông nghiệp 112.910 người, chiếm 51,9%; nghề phi nông nghiệp 104.661 người, chiếm 48,1%.

[13] Trong đó: doanh nghiệp tuyển dụng và bao tiêu sản phẩm 35.359 người, chiếm 20,8%; tự tạo việc làm 132.068 người, chiếm 77,7%; thành lập tổ hợp tác, tổ sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp 2.482 người, chiếm 1,5%.

[14] Trước năm 2008, các trạm y tế xã chưa thực hiện khám chữa bệnh BHYT; đến nay, đã thu hút được người bệnh đến khám, có trạm trung bình có đến 30-50 bệnh nhân/ngày. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Y tế, Thành phố đã triển khai 04 trạm y tế điểm tại xã Minh Châu - Ba Vì, Tân Hội - Đan Phượng, Yên Nghĩa - Hà Đông, Tây Mỗ - Nam Từ Liêm và đang triển khai mở rộng đến các trạm y tế trên toàn địa bàn.

[15] Nhiều phòng khám đa khoa khu vực thu hút nhiều bệnh nhân đến khám chữa bệnh từ 150-250 người bệnh/ngày như phòng khám đa khoa Xuân Giang - Sóc Sơn, Tri Thuỷ - Phú Xuyên, Ngãi Cầu - Hoài Đức…

[16] như: khai trương tòa nhà khám bệnh chất lượng cao tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội; Trung tâm tiêu hóa Bệnh viện Xanh-pôn; Bệnh viện điều trị Covid-19.

[17] như: bệnh viện Sóc Sơn, Đông Anh, Thạch Thất, Chương Mỹ, Quốc Oai, Vân Đình.

[18] vượt mục tiêu theo Chương trình phát triển nhà ở được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 996/QĐ-TTg ngày 19/6/2014 (khoảng 26,3 m2/người) và vượt mục tiêu theo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia tại Quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 (25m2/người).

[19] như: nhà ở cho công nhân tại xã Kim Chung (huyện Đông Anh), Việt Hưng (quận Long Biên), khu nhà ở xã hội (NOXH) tại các quận: Nam Từ Liêm, Hà Đông. Triển khai 10 dự án nhà ở, ký túc xá cho khoảng 43.500 học sinh, sinh viên tại các khu đô thị mới Pháp Vân - Tứ Hiệp (quận Hoàng Mai), Mỹ Đình II (quận Nam Từ Liêm).

[20] Tương đương 351.924 m2 sàn, 2.456 căn nhà riêng lẻ và 469 căn hộ chung cư.

[21] Tương đương 88.211 m2 sàn, 1.234 căn hộ chung cư.

[22] Tương đương 105.760 m2 sàn, 1.322 căn hộ chung cư.

[23]10 đầu báo gồm: Nhân dân hàng ngày, Nhân dân cuối tuần, Hà Nội mới, Hà Nội ngày nay, Hà Nội mới cuối tuần, Kinh tế và Đô thị, Kinh tế và Đô thị cuối tuần, Dân tộc và Phát triển, Pháp luật và Xã hội, Người Hà Nội.

[24] 6 huyện: Thạch Thất, Ba Vì, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Phúc Thọ

[25] Phố Sách Hà Nội chính thức hoạt động từ ngày 01/5/2017 - là tuyến phố đầu tiên của Hà Nội dành riêng cho sách, kết hợp giá trị lịch sử của khu vực Phố 19/12 và không gian văn hóa đọc, đáp ứng nhu cầu của đông đảo nhân dân Thủ đô.

[26] Từ năm 2011 là 350.000 đồng/người/tháng; từ năm 2021 là 440.000 đồng/người/tháng

[27] gồm những giải pháp ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về đào tạo nhân lực chất lượng cao thuộc ngành nghề mũi nhọn.

[28] Cân đối nhu cầu NOXH tại các quận, huyện, thị xã đảm bảo phân bố hợp lý trên địa bàn theo quy hoạch. Rà soát quy hoạch các khu công nghiệp, khu đô thị mới, khu nhà ở chưa dành quỹ đất 20% (hoặc 25%) để xác định vị trí, quỹ đất xây dựng NOXH đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch phát triển. Bố trí nguồn tiền các chủ đầu tư nhà ở thương mại đã nộp tương đương giá trị quỹ đất 20%, 25% để phát triển NOXH theo quy định. Kêu gọi, huy động nguồn lực xã hội tham gia đầu tư xây dựng NOXH tập trung, NOXH cho thuê phục vụ công nhân và người lao động làm việc tại các khu công nghiệp, phát triển nhà ở tái định cư; Cân đối, bố trí nguồn vốn từ ngân sách để thực hiện chuẩn bị đầu tư phục vụ đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư thực hiện dự án theo quy định của pháp luật hiện hành. Thực hiện cho vay ưu đãi (qua Quỹ Đầu tư phát triển, Ngân hàng chính sách) để hỗ trợ NOXH cho các đối tượng theo quy định tại Điều 49, 50 Luật Nhà ở. Tiếp tục phối hợp, kiến nghị các Bộ, ngành Trung ương sớm ban hành hướng dẫn: Việc quản lý, sử dụng khoản tiền sử dụng đất phải nộp đối với quỹ đất 20% tại dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị theo quy định; Việc lựa chọn chủ đầu tư thực hiện dự án tại quỹ đất 20% (25%) thuộc các dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị sau khi đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận không bố trí do không còn phù hợp và đã bố trí quỹ đất thay thế theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 49/2021/NĐ-CP của Chính phủ; Nghiên cứu bổ sung quy định (theo hướng được bán NOXH) để giải quyết khó khăn cho chủ đầu tư dự án NOXH sau nhiều lần công bố công khai dự án, tiếp nhận hồ sơ thuê, thuê mua NOXH (theo quy định tại Điều 20 Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ) mà không có người dân đăng ký nhằm giải quyết thu hồi vốn đầu tư của chủ đầu tư, thu hút nhà đầu tư tham gia phát triển NOXH.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết