Kinh tế phát triển chính là cơ sở vật chất cho việc xây dựng, thực hiện chính sách xã hội và ngược lại, một nền tảng xã hội công bằng, ổn định sẽ là điều kiện cho tăng trưởng. Về bản chất, đầu tư cho chính sách xã hội cũng chính là đầu tư cho tăng trưởng trong tương lại. Việc kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội vì vậy là điều kiện quan trọng cho tăng trưởng đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong quá trình đổi mới, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định kiên trì thực hiện gắn kết chính sách kinh tế, phát triển kinh tế với chính sách xã hội, phát triển xã hội.
1. Bước vào thời kỳ đổi mới trước yêu cầu phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ quan điểm: “thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội…mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế”[1]. “Đi đôi với công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, chúng ta phải triển khai tích cực, kiên quyết và bền bỉ các hoạt động về phát triển xã hội”[2]. Tinh thần này luôn được quán triệt trong đường lối phát triển của Đảng qua các kỳ đại hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta đã nhấn cụ thể hơn và đặt yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ: “Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững”. Và Hội nghị Trung ương 5 khoá XI cũng đã nêu: “chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kì”.
Đại hội XII và XIII tiếp tục khẳng định phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, đồng thời nêu rõ phải: “bảo đảm gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội”[3].
Như vậy trong suốt tiến trình đổi mới, Đảng ta luôn chủ trương gắn kết chặt chẽ, đồng bộ chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Chính sách xã hội không phải là “cái đuôi” của chính sách kinh tế, mà được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế. Việc kết hợp các chính sách này là yêu cầu của tăng trưởng gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu của phát triển nhanh và bền vững. Sự kết hợp này đòi hỏi phải thực hiện ngay từ việc xác định mục tiêu của chính sách, đòi hỏi kết hợp ngay trong các chính sách và từng bước thực hiện chính sách, cũng như ở mỗi cấp, mỗi địa phương và mỗi vùng miền khi triển khai chính sách.
Thực tiễn phát triển thế giới cho thấy, đã từng có mô hình ưu tiên thiên lệch cho tăng trưởng hoặc cho các vấn đề xã hội, song đều phải trả giá. Đảng ta khẳng định kết hợp ngay từ đầu, đồng bộ và hài hoà các chính sách tăng trưởng kinh tế với chính sách giải quyết vấn đề về xã hội, không phải là mong muốn chủ quan, mà có cơ sở lý luận thực tiễn, vì:
Thứ nhất, bản thân các vấn đề kinh tế và xã hội gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Trình độ phát triển kinh tế là tiền đề để phát triển xã hội và ngược lại, sự hợp lý, sự công bằng và tiến bộ được thực hiện qua chính sách xã hội lại tạo ra những động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế. “Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất”[4]. Chính sách xã hội luôn gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, chính sách xã hội phải hướng tới sự công bằng xã hội, bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. Chính sách xã hội hợp lý là tạo điều kiện phát triển kinh tế bền vững, quan tâm đến lợi ích và phát huy được tiềm năng lao động sáng tạo của tất cả các giai cấp và tầng lớp dân cư trong xã hội.
Thứ hai, xét về mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội, suy cho cùng, đều hướng tới mục tiêu phát triển con người. Chính sách xã hội hướng đến bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của con người. Chính sách kinh tế nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất, đưa xã hội đến phồn vinh, giàu mạnh để giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo cho con người cuộc sống hạnh phúc.
Thứ ba, xuất phát từ bản chất chế độ, từ yêu cầu phát triển bền vững, chúng ta có thể và phải kết hợp chặt chẽ, hài hoà các chính sách. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Thứ tư, việc kết hợp chính sách nhằm tạo sự tăng trưởng đi liền với giải quyết các vấn đề xã hội, không chỉ là ý chí của Đảng và Nhà nước ta, mà quan trọng hơn, điều đó phù hợp với mong muốn và lợi ích của người dân. Đây chính là cở sở xã hội để hiện thực hoá việc kết hợp chặt chẽ và hài hoà giữa các chính sách.
2. Quá trình vận động của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu các nguồn lực gia tăng do đáp ứng tốc độ cao của tăng trưởng, nên đã đặt ra hàng loạt vấn đề kinh tế và xã hội đòi hỏi phải xử lý giải quyết. Tuy nhiên, việc xử lý các vấn đề chính sách này ra sao còn tuỳ thuộc vào quan điểm phát triển và khả năng của mỗi nền kinh tế. Về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế đã tồn tại các phương cách khác nhau trong việc xử lý các vấn đề chính sách đặt ra.
Thứ nhất, ưu tiên chính sách thúc đẩy tăng trưởng
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Tăng trưởng kinh tế là một tiêu chí cơ bản để đánh giá thành tựu kinh tế - xã hội của một quốc gia, bởi tăng trưởng kinh tế bao giờ cũng được xem là cơ sở, là nền tảng giải quyết hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội. Do vậy, cũng dễ hiểu khi các quốc gia đều có khát vọng tăng trưởng và việc ưu tiên cho tăng trưởng là điều khá phổ biến trong lịch sử phát triển của các nền kinh tế trên thế giới.
Trong chủ nghĩa tư bản, với mục đích chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp đã tìm mọi cách để tăng sản xuất, gia tăng sản lượng hàng hoá nhằm thu lợi nhuân tối đa. Trong khi đó môi trường xã hội không được quan tâm giải quyết thoả đáng, bất công xã hội, chêng lệch thu nhập gia tăng, môi trường xuống cấp.
Tình trạng chạy theo mục tiêu tăng trưởng thường được xuất hiện ngay trong các quốc gia đang phát triển bước vào thời kì công nghiệp hoá. Thông thường, các quốc gia này muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nhằm đuổi kịp các nước đi trước, nên cũng đã bằng mọi cách đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Tăng trưởng trên thực tế cũng đã mang lại phồn vinh cho xã hội, và cũng vì vậy dễ lầm tưởng rằng tăng trưởng kinh tế tự nó không làm nảy sinh những hệ quả tiêu cực cho xã hội, môi trường.
Tuy nhiên, sẽ là không đúng và nguy hiểm khi theo đuổi tăng trưởng bằng mọi giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, bởi đôi khi quá trình tăng trưởng mang ý nghĩa hai mặt. Việc tăng trưởng kinh tế quá mức, quá sức chịu đựng của hạ tầng xã hội cũng sẽ làm cho kinh tế trở nên “quá nóng”, dẫn tới nảy sinh vấn đề xã hội.
Minh chứng cho điều trên là thực tiễn phát triển ở một số quốc gia quá chú trọng đến tốc độ tăng trưởng. Chẳng hạn, Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai đã tập trung khôi phục kinh tế. Bước vào thập niên 60, nhất là thập niên 70 của thế kỉ XX, Nhật Bản đã dồn sức cho tăng trưởng. Cùng với sự tăng trưởng, đời sống xã hội Nhật Bản cũng có những biến đổi. Bên cạnh sự phồn vinh theo tăng trưởng, hàng loạt vấn đề môi trường và xã hội nảy sinh, như công nghiệp hoá đã đưa đến sự trống rỗng khu vực nông nghiệp do xu hướng di dân, làm giảm khả năng tự túc nông sản của Nhật Bản, sự gia tăng chênh lệch thu nhập. Đáng chú ý, do sự tập trung đầu tư cho sản xuất, ít chú ý đến kết cấu hạ tầng phục vụ dân sinh, nhất là trong xử lý chất thải ở đô thị, đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng nề. Tình hình này buộc Nhật Bản phải điều chỉnh chiến lược tăng trưởng, cùng với tăng trưởng đã ban hành nhiều kế hoạch bảo đảm phúc lợi và giảm ô nhiễm môi trường.
Trường hợp Trung Quốc rất đáng chú ý, sau mấy chục năm Trung Quốc tiến hành cải cách, mở cửa theo tư duy “phát triển nghiêng lệch” do Đăng Tiểu Bình đề ra, cho phép một bộ phận dân chúng, một bộ phận khu vực giàu lên trước rồi tiến tới thực hiện cùng giàu có, phát triển bằng mọi giá, “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” đã làm cho kinh tế phát triển một cách nhanh chóng. Song, tư duy phát triển đó triển khai trên thực tế cũng đã nảy sinh không ít vấn đề, như chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp cư dân trong xã hội; tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; vấn đề dân sinh trở thành điểm nóng; trong xã hội tồn tại nhiều hiện tượng hủ bại, tiêu cực và các hoạt động phạm tội, gây ra những ảnh hưởng xấu đến sự ổn định của xã hội... Nhằm giải quyết những vấn đề nêu trên, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XVI (tháng 9-2004) Đảng Cộng sản Trung Quốc lần đầu tiên đưa ra khái niệm “xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”. Trung Quốc coi vấn đề xây dựng “xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa” là nhiệm vụ chiến lược nhằm xây dựng một xã hội công bằng và văn minh, đồng thời bảo đảm cho sự phát triển xã hội và kinh tế bền vững ở nước này. Đặc biệt tại Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2017) đã nhấn mạnh cùng với tiếp tục phát triển kinh tế hợp lý thì trách nhiệm vô cùng quan trọng mà Trung Quốc phải đồng thời giải quyết là những vấn đề an sinh xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống người dân.
Xu hướng chú ý đến tăng trưởng trên thực tế đã được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổng kết lại trên một số mô hình tăng trưởng cụ thể, như tăng trưởng không tạo thêm việc làm; tăng trưởng thô bạo; tăng trưởng câm; tăng trưởng mất gốc và tăng trưởng bất chấp tương lai. Đó là những mô hình tăng trưởng không lành mạnh, hoặc phản phát triển.
Như vậy, cả về lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy, về dài hạn không thể chỉ tập trung vào chính sách tăng trưởng, vì tăng trưởng không tự dẫn đến giải quyết được vấn đề xã hội. Có thể trong những thời đoạn nhất định chú trọng đến chính sách tăng trưởng, song về dài hạn phải luôn gắn chính sách tăng trưởng với chính sách giải quyết các vấn để xã hội, môi trường. Bởi lẽ, nếu tập trung quá nhiều vào tăng trưởng GDP, coi nhẹ các vấn đề xã hội sẽ cản trở đa số người hưởng lợi từ sự tăng trưởng. Mức thu nhập thấp của số đông công chúng dẫn tới làm suy yếu dài hạn nhu cầu trong nước, tác động tiêu cực đến sự phát triển toàn diện của lực lượng lao động. Cho nên, phát triển xã hội là điều kiện quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế và cần phải chuyển từ ưu tiên chính sách cho tăng trưởng kinh tế sang thực hiện kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Thứ hai, ưu tiên chính sách giải quyết các vấn đề xã hội
Trước thực tế bất ổn của việc ưu tiên cho chính sách tăng trưởng đã xuất hiện chiều hướng chú trọng đến chính sách giải quyết các vấn đề xã hội. Nổi bật theo hướng này là mô hình phát triển nền kinh tế thị trường xã hội. Theo đó, các quốc gia Bắc Âu, mà tiêu biểu là Thụy Điển, đã chủ trương kết hợp sử dụng kinh tế thị trường với việc thi hành một hệ thống chính sách xã hội để bảo đảm sự đồng thuận xã hội cho phát triển.
Hệ thống các chính sách bao gồm trợ cấp từ giáo dục, y tế, phúc lợi… được phân bổ rộng rãi theo hướng mọi người dân đều được bảo đảm các lợi ích và dịch vụ an sinh xã hội cơ bản với mức giá hợp lý hoặc miễn phí ngay từ lúc chưa lọt lòng cho tới khi chết. Mô hình Bắc Âu cũng có mức độ bình đẳng cao, có nghĩa là phân phối thu nhập tương đối công bằng thông qua việc áp dụng mức độ đánh thuế cao, giáo dục miễn phí và cơ hội bình đẳng trong tiếp cận việc làm.
Để tạo nguồn thực hiện chính sách xã hội rộng rãi, nhà nước tiến hành đánh thuế lũy tiến đối với thu nhập. Trong nhiều năm, nguồn thu từ thuế thu nhập đạt tới 55% GDP. Đối với những người có thu nhập cao nhất, tỷ lệ thuế có khi lên tới 80%.
Trong một số thập niên đầu thực hiện mô hình kinh tế thị trường xã hội, nhiều người nghĩ rằng đây là mô hình lý tưởng. Song, với chính sách phúc lợi lớn, số đông người dân dễ lạm dụng các trợ cấp xã hội, còn các chủ doanh nghiệp tìm cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để tránh bị thuế lũy tiến cao đánh vào thu nhập. Kết quả là, kinh tế thị trường trong nước kể từ cuối những năm 70 bị suy thoái và nhà nước phúc lợi xã hội cũng có những dấu hiệu “kiệt sức” rõ rệt. Chính phủ của Đảng xã hội - dân chủ đã đổ vỡ. Thụy Điển cũng đã phải điều chỉnh lại chính sách an sinh xã hội, cắt giảm trợ cấp thất nghiệp, ốm đau, tàn tật... nhằm giảm bớt mức chi, tương thích với khả năng đáp ứng của tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh mô hình nhà nước phúc lợi của các nước Bắc Âu, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng đã triển khai việc nhà nước bao cấp toàn bộ hệ thống an sinh xã hội. Mô hình này trong giai đoạn đầu cũng đã phát huy tác dụng trong việc tạo ra sự ổn định xã hội. Tuy nhiên, mức chi phí lớn cho hệ thống an sinh xã hội khiến nhà nước không đủ khả năng đáp ứng, do nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp hoạt động kém hiệu quả. Đây cũng là một lý do đẩy đến sự đổ vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu cũ. Để phát triển đi lên buộc các quốc gia phải cải cách, đổi mới.
Việt Nam trước thời kỳ đổi mới cũng đã triển khai mô hình nhà nước thực hiện chính sách bảo đảm y tế, giáo dục, văn hóa cho người dân. Học sinh đi học được miễn học phí, người ốm đi khám và chữa bệnh không mất tiền. Với chính sách này đã duy trì và ổn định đời sống người dân trong điều kiện chiến tranh. Mặc dù sản xuất còn hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu, song chúng ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó viện trợ bình quân mỗi năm khoảng 1 triệu tấn lương thực cùng nhiều nhu yếu phẩm và nguyên, nhiên vật liệu khác. Khi đất nước chuyển sang thời bình, nguồn viện trợ giảm, trong khi sản xuất trong nước không gia tăng và trên thực tế trong điều hành chính sách còn mắc sai lầm, rõ nhất là cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1985. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống của người dân vô cùng khó khăn. Trước thực tế này, Việt Nam đã thực hiện đổi mới, chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất là chuyển sang chú ý phát triển kinh tế, tạo cơ sở cho giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Tại Đại hội VI - Đại hội của đổi mới đã khẳng định quan điểm: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế”[5].
Rõ ràng là, nếu chú trọng vào chính sách giải quyết các vấn đề xã hội, trong khi khả năng đáp ứng từ sự tăng trưởng của nền kinh tế không tương thích, chắc chắn chính sách sẽ không đạt được kết quả bền vững. Vấn đề đặt ra là, cần có sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Thứ ba, phối kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Thực tiễn phát triển của các nền kinh tế thế giới cho thấy, cần phải phối kết hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế và xã hội để phát huy đồng thời tác động của chúng. Sự phát huy tác dụng đồng thời các chính sách này sẽ tạo điều kiện để chúng bổ trợ, tạo nền tảng thúc đẩy việc hiện thực hóa các mục tiêu của chính sách. Sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa các chính sách thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau:
- Triển khai kết hợp chặt chẽ, hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội đòi hỏi phải kết hợp ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Không chờ đợi đến khi kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Chính vì vậy, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.
- Sự hài hòa trong kết hợp được thể hiện ở chỗ: Chính sách kinh tế phải tạo được động lực trong xã hội, bảo đảm ổn định xã hội, đến lượt nó, chính sách xã hội phải tạo cơ sở thúc đẩy nền kinh tế phát triển, vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế cho phép, vừa đặt ra những thách thức mới, hướng tới sự phát triển bền vững. Đó chính là cái độ hợp lý trong điều hành chính sách. Nếu nguyên tắc trên không được bảo đảm, hiệu quả các chính sách sẽ giảm và trên thực tế sẽ phát sinh các vấn đề kinh tế - xã hội đòi hỏi phải điều chỉnh các chính sách cho phù hợp.
- Sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa các chính sách được thể hiện ngay trong việc phối kết hợp khi triển khai quá trình quy hoạch, xây dựng mục tiêu và giải pháp, dự án, chương trình thực thi chính sách, cũng như trong việc phân bổ nguồn lực để thực thi chính sách. Sự kết hợp chính sách phải được triển khai không chỉ trên phạm vi quốc gia mà ngay cả trong từng địa phương, vùng, miền và trong mỗi cơ quan, đơn vị dựa trên các nguyên tắc chung và phù hợp với điều kiện đặc thù về mặt lịch sử, văn hóa và trình độ kinh tế - chính trị của mỗi chủ thể. Như vậy trên nguyên tắc chung, phải có các phân hệ chính sách cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực, vùng, miền.
- Sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa, đồng bộ không có nghĩa máy móc là phải đồng thời. Có khi giải pháp chính sách kinh tế cần triển khai trước nhằm tạo điều kiện cho thực thi chính sách xã hội, cũng có thể các giải pháp chính sách xã hội triển khai trước để tạo cơ sở nền tảng xã hội cho thực thi các quyết định về kinh tế. Tính năng động và cụ thể triển khai thực thi chính sách là do tình huống chính sách đặt ra, đòi hỏi các cơ quan quản lý và thực thi chính sách cần phối kết hợp giải quyết theo nguyên tắc tăng trưởng gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Kết hợp hài hòa chính sách cho đến nay là mong muốn trong điều hành chính sách của nhiều quốc gia. Điều này có thành hiện thực hay không phụ thuộc vào ý chí chính trị, mục tiêu trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phụ thuộc năng lực điều hành của bộ máy hành chính.
3. Để bảo đảm gắn kết chính sách kinh tế với chính xã hội một cách chặt chẽ, hiệu quả, trong thời gian tới cần chú ý tập trung một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, quán triệt tốt các chính sách cũng như yêu cầu, nội dung của sự phối kết hợp các chính sách đến với mỗi cơ quan, đơn vị, cũng như tới mọi người dân, nhất là những đối tượng trực tiếp xây dựng, thực thi và thụ hưởng chính sách. Muốn nhân dân thực hiện các chính sách đó thì điều quan trọng là phải cho thấy được các chính sách đó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, đẩy mạnh phát triển kinh tế số, xã hội số, tạo cơ sở chủ động trong các chính sách xã hội. Việc đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình sang tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, sẽ tạo cơ sở tiết kiệm nguồn lực, nâng cao hiệu quả tăng trưởng, đồng thời cũng góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Bởi lẽ quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng này cũng có nghĩa chuyển hướng sang mô thức phát triển bền vững, đi liền khai thác nguồn lực là quá trình tái tạo các nguồn lực. Theo lô-gic tăng trưởng, với việc chuyển nền kinh tế sang tăng trưởng theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, hiệu quả tăng trưởng sẽ tăng lên, kéo theo thu nhập bình quân đầu người cũng tăng theo, tức quỹ tiêu dùng và sức mua của dân cư cũng sẽ tăng lên, mức sống của người dân sẽ được cải thiện.
Thứ ba, xây dựng quy hoạch cụ thể, khoa học để cân đối hợp lý đầu tư nguồn lực cho các vùng lãnh thổ, các chương trình quốc gia. Việc xây dựng quy hoạch cụ thể, khoa học là việc làm cần thiết để tạo ra sự phát triển hài hòa, hợp lý giữa các vùng, miền, các ngành, lĩnh vực. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội chính là lựa chọn phương án hợp lý phát triển và tổ chức không gian các đối tượng, các hoạt động kinh tế - xã hội trên một vùng lãnh thổ nhất định. Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã được thông qua ở tầm vĩ mô, cần triển khai các quy hoạch cụ thể chi tiết. Một quy hoạch khoa học, hợp lý về phát triển vùng sẽ tạo điều kiện khai thác thế mạnh từng vùng, phù hợp văn hóa, tập quán, bảo đảm phát triển bền vững.
Thứ tư, nhất quán nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm công bằng tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng. Phương thức phân phối này phù hợp trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, ngoài việc dựa vào kết quả lao động, việc phân phối cần được tính theo các mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác. Như vậy vừa khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, vừa giải quyết được công ăn việc làm, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Thứ năm, huy động sức mạnh tổng hợp, phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn dân tạo môi trường tăng trưởng thực thi tốt chính sách kinh tế. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội là một trong những vấn đề được các nước hết sức quan tâm, nước phát triển cũng như nước đang phát triển. Sự tăng trưởng kinh tế sẽ cho phép có thêm nguồn lực chăm lo phát triển về xã hội mà trọng tâm là hệ thống an sinh xã hội. Và ngược lại, vấn đề xã hội được giải quyết tốt, hệ thống an sinh xã hội vận hành tốt sẽ bảo đảm cho xã hội ổn định, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, tăng trưởng với nhịp độ cao và bền vững. An sinh xã hội là hợp điểm của tất cả mọi chính sách phát triển. Xã hội càng phát triển và càng đạt tới nấc thang cao hơn của tiến bộ, văn minh và hiện đại thì càng phải quan tâm giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Thứ sáu, thể chế hóa các chính sách và yêu cầu của việc kết hợp chặt chẽ chính sách. Sự kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội là cần thiết, bảo đảm cho sự tăng trưởng gắn với tiến bộ, công bằng xã hội. Tuy nhiên, việc kết hợp là hoạt động chủ quan của những người thực thi chính sách. Bên cạnh việc tuyên truyền về nội dung, sự cần thiết gắn kết, đòi hỏi phải thể chế hóa các chính sách và yêu cầu kết hợp các chính sách. Bởi vì trong thực tiễn, do xuất phát từ các lợi ích cục bộ, lợi ích trong ngắn hạn, nên không phải ai cũng chú trọng đến việc kết hợp chính sách. Đặc biệt trong bối cảnh khi mà kinh tế chưa phát triển cao thì càng cần phải chú ý thể chể hóa các chính sách và các yêu cầu về sự kết hợp chính sách. Thể chế hóa các chính sách được coi là điều kiện cần thiết để các chính sách đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng thúc đẩy tăng trưởng và hướng tới thiết lập sự công bằng xã hội.
Thứ bảy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều tiết của Nhà nước trong xây dựng và triển khai chính sách. Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh không tự động hướng tới tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước mới có thể thực hiện tốt được mục tiêu này. Bởi vậy, phải xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều tiết nền kinh tế của Nhà nước. Chỉ một bộ máy quản lý có hiệu lực mới có thể xây dựng và triển khai tốt các chính sách trong thực tiễn.
Thứ tám, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm triển khai thực hiện tốt các định hướng chính sách, cả chính sách kinh tế lẫn chính sách xã hội. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cuộc cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, cũng như trong bản thân các quốc gia, ngành, lĩnh vực diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải có chính sách tốt với nguồn nhân lực chất lượng cao, hoạt động với năng suất cao, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đó cũng là mục tiêu của các chính sách.
PGS.TS. Vũ Văn Hà,
TKKH HĐLLTƯ
Tài liệu tham khảo chính
1.Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, H,2005
2. Văn kiện Đại hội X, XI, XII và XIII, Nxb Chính trị quốc gia, các năm 2006, 2011, 2016, 2021
3. Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương: Những thành công lớn của các Đại hội trong thời kỳ đổi mới (1986-2006), H.2006
4. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb, Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022
[1] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H. tr. 90-91
[2] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, sdd, tr.161
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.134.
[4] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H. tr. 91
[5] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H. tr. 91