Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Cơ sở lý luận về quản lý phát triển xã hội, quản trị phát triển xã hội trong điều kiện hiện nay

Ngày phát hành: 09/09/2019 Lượt xem 17205

 

1. Lý luận về quản lý phát triển xã hội và quản trị phát triển xã hội

Trong bài viết này, tập trung trước hết vào chiều cạnh xã hội của quá trình phát triển xã hội, với các vấn đề xã hội như là một phân hệ của xã hội chỉnh thể (gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội). Vì thế, cũng tập trung làm rõ việc quản lý phát triển xã hội với các vấn đề xã hội. Báo cáo của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển xã hội tại Đan Mạch, Copenhagen, từ ngày 6 đến ngày 12 tháng 03 năm 2005 đã đề cập tới 10 vấn đề xã hội trong phát triển: 1) Giải quyết việc làm; 2) xoá đói giảm nghèo;3) hoà nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương (phụ nữ; trẻ em; thanh niên; dân tộc thiểu số; người tàn tật; người cao tuổi; đồng bào vùng khó khăn; phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, hoà nhập cộng đồng); 4) tăng cường vai trò gia đình; 5) phát triển giáo dục; 6) dân số- kế hoạch hoá gia đình; 7) chăm sóc sức khoẻ nhân dân (cộng đồng); 8) bảo trợ xã hội (bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội); 9) môi trường; 10) hạn chế và ngăn ngừa các hành vi tội phạm (ma tuý, mãi dâm, buôn lậu, tham nhũng, làm giàu bất chính…). Mười vấn đề đó đã thể hiện tầm nhìn toàn diện về lĩnh vực xã hội trong quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn còn những vấn đề xã hội mới nẩy sinh, cần quan tâm nghiên cứu, kiểm soát và giải quyết.

Quản lý xã hội là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học xã hội. Thông thường, các nhà nghiên cứu phân loại quản lý xã hội theo hai cách hiểu, hiểu theo nghĩa rộng và hiểu theo nghĩa hẹp. “Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ chức của chủ thể quản lý xã hội lên xã hội và các khách thể có liên quan, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu mang tính xu thế phát triển khách quan của xã hội”[1]. Quản lý xã hội luôn diễn ra trong một môi trường biến động, vận động không ngừng. Do đó, quản lý xã hội luôn phải quan tâm đến quá trình phát triển, vận động của các sự vật, hiện tượng. Chính vì thế, ngày nay, chúng ta thường nói quản lý xã hội, về thực chất, là quản lý phát triển xã hội. Bản thân các chủ thể quản lý, các đối tượng và khách thể quản lý, cũng vận động, phát triển không ngừng.

Quản lý phát triển xã hội là việc sử dụng các công cụ, giải pháp về chính sách để thúc đẩy, điều tiết, xử lý các vấn đề của xã hội, để đảm bảo các mục tiêu của quá trình phát triển xã hội. “Quản lý sự phát triển xã hội tổng thể, bao gồm quản lý phát triển kinh tế, quản lý phát triển hệ thống chính trị, quản lý phát triển văn hóa, quản lý phát triển xã hội theo nghĩa hẹp, quản lý phát triển con người, quản lý nguồn lực vật chất nhân tạo, nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội”.[2] Như vậy, nói đến quản lý phát triển xã hội tức là nói đến quá trình hoạt động, hành động của chủ thể quản lý, thông qua các chính sách và các phương tiện, công cụ quản lý, để đạt được mục tiêu đặt ra. Quản lý phát triển xã hội không thuần túy chỉ là hoạt động một chiều từ chủ thể quản lý, mà còn là một quá trình tương tác liên tục giữa chủ thể với khách thể và các nhân tố tác động. “Quản lý phát triển xã hội là hoạt động quản lý của nhà nước với sự phối hợp của các tổ chức ngoài nhà nước trong việc tổ chức xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật, các công cụ quản lý, huy động tối đa các nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội, hướng vào việc phát triển cá nhân và cộng đồng, phát triển xã hội bền vững” [3]. Nói một cách tổng quát: "Quản lý phát triển xã hội, một cách chung nhất, là sự tác động có chủ đích của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (trực tiếp là Nhà nước, hoặc các tổ chức ngoài nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay khách thể quản lý (đời sống xã hội), bằng các nguồn lực trong xã hội và các công cụ, phương thức tác động đa dạng, nhằm hướng sự vận hành và phát triển của đời sống xã hội theo các mục tiêu đặt ra”[4]. Đồng thời, cần thống nhất tiếp cận giải quyết các vấn đề này một cách biện chứng. “Quản lý các vấn đề xã hội và phát triển xã hội ( theo nghĩa hẹp, như là một lĩnh vực của đời sống xã hội), thứ nhất, cần đặt trong hệ thống các vấn đề chung của toàn xã hội và các mối quan hệ qua lại với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá và an ninh quốc phòng. Thứ hai, cần chú trọng đến quá trình phát triển như là một chu trình từ sự phát sinh, hình thành, phát triển và tiêu vong của sự vật, hiện tượng. Thứ ba, cần chú ý làm rõ vai trò của các chủ thể quản lý trong quá trình quản lý phát triển xã hội, các công cụ và phương pháp thực hiện các mục tiêu xã hội. Thứ tư, khi vận dụng các lý thuyết chung vào một quốc gia cụ thể, cần chú ý giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù, những điều kiện lịch sử-cụ thể của quốc gia đó”[5].

          Trong quản lý phát triển xã hội luôn tồn tại mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và đối tượng quản lý, được kết nối với nhau bởi các phương thức và công cụ quản lý. Ở tầm vĩ mô, đó là quan hệ của Nhà nước với người dân và được điều phối bởi các chính sách quản lý phát triển xã hội do Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng trong quản lý phát triển xã hội hiện đại, vị thế giữa chủ thể, khách thể quản lý nhiều khi chỉ mang tính tương đối. Ở Việt Nam, Đảng ta luôn xác định xây dựng một xã hội của dân, do dân và vì dân. Các chính sách về quản lý phát triển xã hội của Đảng luôn nhằm mang lại sự hài hòa, sự phát triển ấm no, hạnh phúc cho người dân. Chủ thể quản lý là nhà nước, nhân dân làm chủ xã hội thông qua nhà nước do mình bầu ra, đó là mối quan hệ phức tạp, cần được thể chế hóa một cách rõ ràng, minh bạch. Sự tham gia của các tổ chức ngoài nhà nước trong quản lý phát triển xã hội cũng đòi hỏi được khẳng định rõ ràng, minh bạch trong Hiến pháp và pháp luật, trong các văn bản hướng dẫn triển khai cụ thể. Chính các mối quan hệ này khi được thể chế hóa, sẽ quy định rõ ràng về hoạt động của các tổ chức và cộng đồng.

Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề quản trị xã hội. Trước hết, cần phân biệt rõ khái niệm “quản lý” và “quản trị”. “Quản lý là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người, trong đó các chủ thể tác động lên các đối tượng bằng các công cụ và phương pháp khác nhau, thông qua qui trình quản lý nhất định, nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất các mục tiêu của tổ chức trong điều kiện biến động của môi trường”[6]. Trong nhiều giáo trình Quản trị học, khái niệm quản trị đã được trình bày khá rõ ràng. Nguyễn Thanh Hội và Phan Thăng cho rằng: “Quản trị là hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung” và  giải thích thêm “Từ quản trị - Management được dịch từ tiếng Anh, do đó có nơi, có lúc có người gọi là quản lý, có người gọi là quản trị”[7]. Giáo trình Quản trị học của khoa Khoa học quản lý thuộc Trường Đại học kinh tế quốc dân cho rằng: “Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản trị nhưng nhìn chung có thể hiểu: quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường”[8]. Điều dễ nhận ra là các tác giả này đều nói tới khái niệm quản trị với tiếp cận của các chuyên ngành kinh tế, từ tiếp cận quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Trong khi đó, khái niệm quản lý, như đã trình bày ở trên, được khái quát và phổ biến cho tất cả các loại hình tổ chức khác nhau, tất cả các lĩnh vực khác nhau. Quản lý là khái niệm rộng hơn quản trị rất nhiều. Ngay cả hiện nay, khái niệm quản trị được phổ biến sang khu vực quản lý nhà nước, phạm vi của nó cũng hạn hẹp hơn rất nhiều so với khái niệm quản lý nhà nước. Trong các thuật ngữ khoa học, nhiều cụm từ cũng chỉ dùng khái niệm quản lý được, mà không dùng khái niệm quản trị được. Hai khái niệm này cũng có nhiều điểm tương đồng và trên thực tế, có nhiều người vẫn dùng thay thế nhau khi cần. Nhưng trong khoa học và thực tiễn quản lý, cần phân biệt hai khái niệm này. Như P.F.Drucker đã nhấn mạnh, nếu so sánh quản trị kinh doanh với quản lý, cũng giống như so sánh bộ môn sản khoa với y học nói chung[9].

Trong quản lý nhà nước, nhiều người đã phân biệt giữa cai trị (government) và quản trị (governance). Trong lĩnh vực này, khái niệm quản trị (governance) cũng được tiếp cận theo nhiều phương diện khác nhau. Từ tiếp cận này, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn đã đề cập đến những nguyên tắc căn bản của “quản trị tốt”. Về cơ bản, quản trị (governance) được hiểu là phương thức thực hiện quyền lực nhà nước để quản lý các nguồn lực kinh tế, xã hội phục vụ cho sự phát triển của quốc gia, với những đặc trưng mới phù hợp với sự phát triển của giai đoạn hiện nay. Như thế, quản trị (governance) là một thuật ngữ chủ yếu gắn với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mặc dù trong thực tế, khái niệm này đôi khi cũng được sử dụng trong một số bối cảnh khác, chẳng hạn như quản trị doanh nghiệp. Khái niệm quản trị nhà nước (governance) trong quản lý xã hội mới chỉ được quan tâm đặc biệt và thảo luận nhiều trên thế giới trong hơn một thập kỷ gần đây. Việc chuyển từ việc sử dụng thuật ngữ ‘government’ (cai trị) sang ‘governance’ (quản trị) trong quản lý nhà nước được khá nhiều học giả phân tích, trong đó hầu hết cho rằng đây là xu hướng của thế kỷ 21 và phản ánh sự thay đổi lớn trong nhận thức và cách thức thực thi quyền lực chính trị ở các quốc gia. Các quốc gia cần có những hình thức quản trị nhà nước mới, mà trong đó, có sự tham gia chủ động của các chủ thể rộng lớn hơn rất nhiều.

Cần giải thích rõ hơn quan niệm về “quản trị tốt” (good governance). Theo các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, quản trị tốt liên quan đến các tiến trình mà các cơ quan công quyền giải quyết các vấn đề công cộng, quản lý các nguồn lực công, phục vụ tốt nhất cho quá trình phát triển đất nước, với những đặc trưng mới, tiến bộ, phù hợp với yêu cầu hiện nay trong thế kỷ XXI. Theo các cơ quan Liên hiệp quốc, quản trị tốt bao gồm 8 đặc trưng chính (major characteristics), đó là: sự tham gia (participatory), định hướng đồng thuận (consensusoriented), trách nhiệm giải trình (accountable), sự minh bạch (transparent), sự kịp thời (responsive), tính hiệu lực (effective), tính hiệu quả (efficient), tính bình đẳng và không loại trừ chủ thể nào (equitable and inclusive) và tuân thủ pháp quyền (follows the rule of law).

Quản trị tốt là một tập hợp những tiêu chí về quản lý xã hội nhằm hướng đến mục tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền vững của một quốc gia. Quản trị tốt không phải là một phương thức hay mô hình tổ chức, hoạt động của một nhà nước hay một hệ thống chính trị, mà là các nguyên tắc định hướng cho việc thiết kế và vận hành bộ máy nhà nước hoặc hệ thống chính trị đó.[10] Dù cho các nguyên tắc quản trị nhà nước tốt rất có giá trị trong quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội, nhưng tự nó không thể thay thế khái niệm quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội được. Những nguyên tắc đó giúp cho quá trình quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội hiệu quả hơn trong những điều kiện ngày nay. Quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội là khái niệm có nội hàm rộng lớn hơn rất nhiều so với khái niệm quản trị xã hội, quản trị nhà nước tốt. Nhất là trong điều kiện của Việt Nam, với những truyền thống văn hóa, lịch sử đã có, quản lý phát triển xã hội luôn được bổ sung thêm những nội dung mới, nhưng không thể chỉ thu gọn lại trong một số nguyên tắc của một mô hình nào đó. Nhà nước Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng bước vận dụng các nguyên tắc của quản trị tốt trong quá trình quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội, phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và bối cảnh quốc tế hiện nay.

2. Quản lý phát triển xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển kinh tế tổng quát đã được thể hiện xuyên suốt trong quan điểm của Đảng suốt hơn 30 năm qua kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Qua các kỳ đại hội, quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện dựa trên việc tổng kết lý luận và thực tiễn cũng như đặt trong bối cảnh phát triển, hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự bổ sung các nhận thức mới này của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với sự bổ sung về quan điểm, tư tưởng trong QLPTXH nói chung của Đảng.

Đại hội Đảng lần thứ VI đánh dấu quá trình Đổi mới toàn diện của đất nước, trong đó, quan trọng là đổi mới về tuy duy, trước hết là kinh tế. Tư duy về đổi mới kinh tế, xây dựng một nền kinh tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam tiếp tục được khẳng định, làm rõ và phát triển ở đại hội VII của Đảng và các kỳ đại hội sau đó. Theo đó, quan điểm về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành và không ngừng được hoàn thiện. Tại Đại hội VII của Đảng, khái niệm về định hướng xã hội chủ nghĩa đối với phát triển kinh tế lần đầu tiên đã được Đảng đưa ra[11]. Tại đại hội VIII của Đảng, các quan điểm về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được làm rõ trong đó nhấn mạnh việc Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng đánh dấu bước ngoặt lớn trong quan điểm của Đảng khi khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IX cũng khẳng định những tồn tại trong nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đánh dấu sự thống nhất nhận thức, thể hiện chủ trương nhất quán và lâu dài về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề QLPTXH đóng vai trò then chốt. Việc QLPTXH không chỉ dựa vào các quy định pháp luật phù hợp với quá trình thực tiễn phát triển đất nước và còn phải đảm bảo rằng quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với việc đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Đây cũng chính là điểm khác biệt, điểm đặc trưng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta.

Như vậy, QLPTXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không đơn thuần là vấn đề về phát triển mô hình kinh tế phù hợp, mà còn là vấn đề đảm bảo sự hài hòa trong thực hiện các chính sách tiến bộ, công bằng xã hội để cùng hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau 5 năm thực hiện, Đại hội X của Đảng đánh giá thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bước đầu được xây dựng. Đại hội X của Đảng cũng khẳng định muốn đi lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định tầm quan trọng của việc hoàn thiện thể chế phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên các điểm chính gồm: (i) Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta; (ii) Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; (iii) Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; (iv) Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Trong đó, việc QLPTXH phải dựa trên hệ thống pháp luật, giảm thiểu tối đa các tác động, can thiệp về hành chính vào sự phát triển của thị trường như tách chức năng về quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp…Những thay đổi này đã thể hiện sự đổi mới gắn với thực tiễn trong tư duy về QLPTXH của Đảng, phù hợp với những yêu cầu đặt ra về thực tiễn trong xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 6 khóa X của Đảng tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy trong tư duy QLPTXH của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn thể hiện hai đặc điểm rõ rệt. Thứ nhất, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế. Thứ hai, gắn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với việc giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra để hướng tới mục tiêu đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội. Tại đại hội lần thứ XI của Đảng, các quan điểm này tiếp tục được khẳng định và làm rõ. Trong đó, việc xây dựng thể chế kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm các nhiệm vụ trọng tâm: (i) Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường; (ii) Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; (iii) Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; (iv) Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn kiện Đại hội XI đã khẳng định Đảng và Nhà nước phải thực sự nâng cao được vai trò lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường. Nói cách khác, phải nâng cao được vai trò trong QLPTXH gắn với quá trình này. Trong đó, việc hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật rất quan trọng, không chỉ về quản lý kinh tế mà còn liên quan tới nhiều vấn đề xã hội và môi trường khác. Trong QLPTXH của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự chủ động, tích cực về hội nhập quốc tế cũng như sự tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường. Trên cơ sở đó, hoạt động QLPTXH vận dụng, phát huy các mặt tích cực và giảm thiểu, hạn chế các mặt tiêu cực từ cơ chế thị trường. Quá trình này, nói cách khác vừa là quá trình phát triển kinh tế cũng vừa là quá trình xây dựng và PTXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội XII của Đảng đã đánh dấu một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ về nhận thức, tư duy của Đảng trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, xác định mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Các mục tiêu này rõ ràng không chỉ thể hiện các khía cạnh về kinh tế mà còn bao gồm các mục tiêu về xã hội, môi trường, thể hiện tư tưởng phát triển xã hội theo hướng bền vững, hài hòa. Nói cách khác, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình đa mục tiêu, đảm bảo hài hòa về kinh tế, xã hội và môi trường.

Như vậy, cùng với quá trình phát triển, không ngừng bổ sung, hoàn thiện về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các vấn đề về QLPTXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã được khẳng định và làm rõ. Mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã không ngừng được bổ sung, làm rõ về tư duy và thực tiễn để hướng tới mục tiêu hoàn thiện đồng bộ theo các tiêu chuẩn cơ bản vào năm 2020. Điều này cũng có nghĩa, nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong QLPTXH cũng thể hiện sự thống nhất và không ngừng hoàn thiện, không chỉ đối với mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn trong các hoạt động về QLPTXH nói chung.

3. QLPTXH trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay

Nhà nước pháp quyền là một khái niệm đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân loại và thực sự phổ biến sau thời Phục hưng. Có rất nhiều các quan điểm khác nhau khi bàn về khái niệm nhà nước pháp quyền, tuy nhiên về cơ bản các khái niệm này đều thống nhất rằng: Nhà nước pháp quyền là mô hình nhà nước hoạt động dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Nói cách khác, mô hình nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải quản lý phát triển xã hội dựa trên luật pháp và các cơ quan thực hiện quyền lực pháp luật cũng bị giám sát chặt chẽ bởi luật pháp. Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển mà mô hình về nhà nước pháp quyền có những đặc trưng khác nhau.

          Đối với Việt Nam, thuật ngữ Nhà nước pháp quyền gắn liền với các đặc trưng về chủ nghĩa xã hội và thường được nhắc tới rất nhiều trong thời gian gần đây. Theo các nghiên cứu, thuật ngữ nhà nước pháp quyền được chính thức sử dụng trong Văn kiện của Đảng vào năm 1994. Sau đó, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trong các văn bản có liên quan tới nay, thể hiện rõ tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền để đảm bảo quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội theo các mục tiêu đã được Đảng ta đặt ra. Trên thực tế, các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được Đảng ta nhận thức rõ và phát triển từ lâu dựa trên cơ sở tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Mặc dù vậy, chỉ tới khi Đảng ta quyết định thực hiện đổi Mới, các quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền mới được thể hiện rõ trong các chủ trương, chính sách và không ngừng được hoàn thiện từ đó tới nay.

          Như đã phân tích ở trên quan điểm về Nhà nước pháp quyền của Đảng được chính thức nêu rõ tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”[12] Các quan điểm về Nhà nước pháp quyền của Đảng tiếp tục được làm rõ trong nhiều văn kiện, Nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng từ khóa 7 đến khóa 12. Đến đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định rõ quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, các quan điểm, chủ trương về xây dựng Nhà nước pháp quyền tiếp tục được hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng. Theo đó, Đảng ta xác định các nội dung quan trọng/các nguyên tắc hàng đầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền gồm: (i) Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật; (ii) hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (iii) hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; (iv) Đảng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

          Như vậy, có thể thấy rằng kể năm 1994 tới nay, Đảng ta đã kiên định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các quan điểm của Đảng ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau về Nhà nước pháp quyền cũng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn, trong đó đặc biệt là vần đề quản lý Nhà nước bằng pháp luật trên cơ sở thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời hướng tới việc xây dựng và quản lý phát triển xã hội dựa trên cơ sở luật pháp phù hợp với thực tiễn đất nước và các thông lệ quốc tế. Trong bối cảnh mới, Đảng ta đã xác định rõ các điều kiện quan trọng để quản lý phát triển xã hội bằng pháp luật. Đó là xây dựng các chính sách pháp luật phù hợp, nâng cao năng lực hoạt động, hiệu quả của bộ máy nhà nước và của đội ngũ cán bộ. Đây chính là các yếu tố then chốt để đảm bảo thực thi tốt mô hình nhà nước pháp quyền, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

4. QLPTXH trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Hội nhập quốc tế là khái niệm được sử dụng trong thời gian gần đây, ban đầu chủ yếu được nhắc tới trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế quốc tế... Quá trình hội nhập quốc tế có những mức độ khác nhau, từ đơn giản tới phức tạp, phụ thuộc vào các điều kiện, định chế liên quan tới việc hội nhập. Hội nhập quốc tế thường bắt nguồn hoặc liên quan nhiều tới hội nhập về kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và các mối liên hệ giữa các quốc gia ngày càng bền chặt hơn, rất ít các quốc gia có thể đứng ngoài quá trình hội nhập quốc tế. Quá trình này thực tế luôn mang lại cả thách thức lẫn cơ hội cho các quốc gia.

          Tại Việt Nam thuật ngữ hội nhập quốc tế xuất hiện khoảng sau 1990 và càng ngày càng được sử dụng phổ biến, rộng rãi. Ban đầu thuật ngữ này thường giới hạn ở khía cạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng sau đó, quá trình hội nhập quốc tế không chỉ là hội nhập về kinh tế, mà còn liên quan tới nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Thuật ngữ hội nhập quốc tế được sử dụng phổ biến hơn và phản ảnh đầy đủ các chiều cạnh của quá trình này.

          Nhận thức rõ tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế sau một thời gian Đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đối với hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong phát triển kinh tế xã hội đất nước. Sau đó, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội X của Đảng ghi nhận sự chuyển biến trong quan điểm của Đảng đối với vấn đề hội nhập quốc tế khi đã mở rộng ra các quan hệ hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác bên cạnh lĩnh vực kinh tế. Sau một thời gian hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO và tham gia hàng loạt các tổ chức song phương, đa phương khác, vấn đề hội nhập quốc tế ngày càng được Đảng chú trọng trong quản lý phát triển xã hội. Vì thế, năm 2013, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Trong đó, quan điểm về hội nhập quốc tế của Đảng ta là: "Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh". Đảng ta cũng xác định các nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập quốc tế: "Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.". Các quan điểm này thể hiện rõ nhận thức sâu sắc của Đảng đối với vấn đề hội nhập quốc tế trong việc lãnh đạo, chỉ đạo quá trình phát triển và quản lý phát triển xã hội của đất nước.

5. QLPTXH trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra từ những năm 2000 đến nay là cuộc cách mạng số, thông qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một cuộc cách mạng diễn ra với tốc độ cao hơn các cuộc cách mạng trước nó, ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ xã hội, các hệ thống xã hội và nền tảng của lãnh đạo, quản lý, quản trị. Cuộc cách mạng này mang lại nhiều cơ hội, nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức đối với các quốc gia trong quá trình quản lý phát triển xã hội. Thực ra điều này đã được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà lý luận về quản lý, lãnh đạo dự báo từ cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI [8, và 9,]. Tất cả những điều đó ảnh hưởng sâu sắc đến quản lý, lãnh đạo trong tất cả các tổ chức, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta có thể thấy những ảnh hưởng chủ yếu sau:

i) Cuộc cách mạng này đòi hỏi chúng ta phải thay đổi toàn bộ những giả định đã có trong thế kỷ XX, cả trong lý luận và cả trong hoạt động thực tiễn lãnh đạo, quản lý. Nhiều giả định đã từng thống trị trong thời kỳ đại công nghiệp, đến nay không còn giá trị nữa và cần phải thay bằng những giả định mới.

ii) Cuộc cách mạng này buộc chúng ta phải có một cách nhìn mới đối với vấn đề con người. Thời đại công nghiệp cho phép chúng ta kiểm soát con người trong dây chuyền sản xuất, thậm chí con người bị trói buộc vào dây chuyền đó như một bộ phận của hệ thống đó. Ngày nay, trong cuộc cách mạng mới, chúng ta chỉ có thể dẫn dắt con người, động viên khích lệ những người lao động tri thức, để họ tự nguyện tham gia vào quá trình làm việc.

iii) Trong thời đại cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư, xuất hiện nhiều tổ chức mới, các tổ chức ảo, đòi hỏi một cách lãnh đạo, quản lý mới. Thế giới thực trong thế giới ảo đang làm đau đầu nhiều nhà lãnh đạo, quản lý. Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo cũng đang thách thức trí tuệ con người trong quá trình lãnh đạo và quản lý.

iv) Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư buộc các nhà lãnh đạo, quản lý phải thay đổi chính ngay nhiều công cụ, phương tiện phục vụ cho quá trình lãnh đạo, quản lý. Hệ thống đảm bảo thông tin và an toàn thông tin trở thành một vấn đề lớn trong điều kiện hiện nay. Những vụ rò rỉ thông tin mật của các quốc gia trong thời gian qua đang cảnh báo về một nguy cơ lớn hơn có thể xảy ra.

Về cơ bản, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người, tạo ra nhiều cơ hội mới cho con người phát triển một cách đầy đủ những tiềm năng của mình, xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, cuộc cách đó cũng mang lại những thách thức mới và những rủi ro cho quá trình phát triển. Quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh đó đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Các nhà lãnh đạo cần xây dựng và phát triển một văn hoá lãnh đạo phù hợp với những điều kiện mới, dẫn dắt tổ chức, cộng đồng, quốc gia phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Dưới tác động của cuộc cách mạng lần thứ tư, trong quá trình quản lý, lãnh đạo, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề chủ yếu sau:

i) Thay đổi tư duy lãnh đạo, quản lý phù hợp với những điều kiện mới.

ii) Thay đổi phương thức lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức, nhất là với những loại tổ chức mới hình thành trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

iv) Đánh giá lại triết lý lãnh đạo, quản lý, hệ giá trị cốt lõi, xây dựng các biểu trưng mới.

v) Xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý mới phù hợp với triết lý mới và các chuẩn mực giá trị mới.

vi) Hình thành các chuẩn mực đạo đức lãnh đạo, quản lý mới và triển khai vào các tổ chức cụ thể.

Trong những điều kiện hiện nay của Việt Nam, cần tập trung giải quyết một cách đồng bộ các vấn đề theo các nguyên tắc quản lý xã hội mới. Một mặt, cần có chương trình tổng thể quốc gia, chiến lược quốc gia trong các lĩnh vực cụ thể thích ứng với những điều kiện mới. Mặt khác cũng cần làm rõ những khác biệt trong việc giải quyết các vấn đề ở các lĩnh vực khác nhau, với những phạm vi, qui mô khác nhau. Những thay đổi của Chính phủ Việt Nam trong quản lý nhà nước, quá trình cải cách hành chính, nhất thể hóa các chức danh chủ chốt, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, phát huy vai trò của người dân và cộng đồng trong quản lý xã hội, đang mở ra những khả năng phát triển mới trong quản lý xã hội. Mối quan hệ giữa Chính phủ với doanh nghiệp, với người dân đang ngày càng được cải thiện, thúc đẩy quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Đổi mới quản lý phát triển xã hội trong điều kiện ngày nay đang là một yêu cầu cấp bách của thời đại mới đối với tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng./.

PGS.TS Phạm Ngọc Thanh[13]

 

[1] Đỗ Hoàng Toàn, Quản lý xã hội, NXB KHKT, 2000

[2] Phạm Ngọc Thanh, Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên trong xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y tế, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr 24

[3] Hoàng Chí Bảo. Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, NXB CTQG, 2010. Tr.36

[4] Phạm Ngọc Thanh, Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên trong xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y tế, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr 24

[5] Phạm Ngọc Thanh. Vận dụng lý thuyết quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế: Mấy vấn đề phương pháp luận.  Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn. ISSN 2354-1172, tập 3, số 1b (9/2017), tr.45

[6] Phạm Ngọc Thanh. Đổi mới văn hóa lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay. NXB CTQG, H.,2013, tr.17

[7] Nguyễn Thanh Hội, Phan Thăng (1999). Quản trị học, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, tr.9-10

[8] Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (CB) (2002), Giáo trình Quản trị học, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, tr.8

[9] Peter F.Drucker (2003). Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI. Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, tr.11.

[11] Ban Kinh tế Trung ương (2014), Báo cáo tổng kết phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

[12] Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, ngày 20-25/1/1994

[13] Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết