1. Dân vận là bài báo được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết dưới bút danh X.Y.Z đăng trên Báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949. Đây là một bài viết rất ngắn gọn, từ đầu đề, đến dung lượng, được thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với quần chúng, có tính khái quát cao, nhưng rất dễ nhớ, dễ thuộc và dễ làm theo.
Trong bốn mục lớn của bài báo, theo thứ tự từ I đến IV, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về: (1) Nước ta là nước dân chủ; (2) Dân vận là gì? (3) Ai phụ trách dân vận? (4). Dân vận phải thế nào? Đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định bản chất dân chủ của chế độ xã hội mới, của dân, do dân và vì dân. Từ sự khẳng định bản chất đó, Người chỉ rõ các nội dung về công tác dân vận như sau: Dân vận là: "… vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho". Phụ trách dân vận là: “tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,v.v.) . Dân vận thì phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Cuối cùng, Người cho rằng, xem khinh việc dân vận là "khuyết điểm to"; là "sai lầm rất to, rất tai hại", và: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Tác phẩm "Dân vận" của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể coi là “Cương lĩnh dân vận” của Đảng Cộng sản Việt Nam, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đó là cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước ta đề ra các chủ trương, chính sách về công tác dân vận trong các giai đoạn cách mạng. Từ sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân"; "sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"; "lực lượng của dân rất to"; "dân vận kém việc gì cũng kém"; "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công", thử bàn về việc xây dựng niềm tin và khát vọng phát triển của toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay và vai trò, nhiệm vụ của công tác dân vận.
2. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng niềm tin và khát vọng phát triển của toàn dân tộc có vai trò rất quan trọng, thậm chí có tính quyết định đối với sự phát triển. Bởi vậy, xây dựng niềm tin và khát vọng phát triển của toàn dân tộc cần được thể hiện rõ trong quan điểm, đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đất nước, với sự tham gia của công tác dân vận.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam chứng minh về một chân lý: Khi có niềm tin, khát vọng của nhân dân là có tất cả. Niềm tin vào thắng lợi, chính nghĩa của quân dân Nhà Trần, quyết tâm "sát thát" đã mang lại chiến thắng trong 3 lần chống quân xâm lược Nguyên Mông, đội quân mạnh nhất trong lịch sử thế giới thời đó. Niềm tin vào chính nghĩa của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nhân dân trong chống giặc Minh đã vượt qua 10 năm gian khổ "nếm mật, nằm gai", giành lại nền độc lập cho dân tộc. Niềm tin, khát vọng giành lại nền độc lập của dân tộc đã giúp cho Đảng với 5.000 đảng viên huy động được sức mạnh của "25 triệu đồng bào Tổ quốc" làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành lại nền độc lập sau 81 năm bị thực dân Pháp đô hộ. Niềm tin, khát vọng bảo vệ nền độc lập dân tộc, dù phải hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ đã làm nên Điện Biên phủ, Đại thắng Mùa Xuân 1975… Niềm tin, khát vọng phát triển đất nước "dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc" đã thể hiện rõ trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới, tháng 9-1945: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang sánh vai với cường quốc năm châu hay không, điều đó phần lớn phụ thuộc vào công học tập của các em".
3. Xây dựng, củng cố niềm tin, khát vọng phát triển của toàn dân tộc là tạo một nguồn động lực to lớn cho phát triển đất nước hiện nay. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên niềm tin vào sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Nhìn lại 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, với những thành tựu to lớn rất quan trọng, tạo chuyển biến rõ rệt trên nhiều lĩnh vực, đã làm cho thế và lực của ta đã khác trước, “đất nước đang rất khởi sắc, vận nước đang lên”, như nhiều đại biểu Quốc hội đã phát biểu, đánh giá. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần bày tỏ tại các diễn đàn, rằng Việt Nam có tầm nhìn và khát vọng về một quốc gia thịnh vượng vào năm 2045 - mốc lịch sử 100 năm giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là mục tiêu Việt Nam sẽ là một nước phát triển, với thu nhập người dân hơn 18.000 USD/năm. Đó là niềm tin, là khát vọng cháy bỏng về một Việt Nam thịnh vượng, gia nhập nhóm các quốc gia có thu nhập cao trên thế giới, là thành viên có trách nhiệm, chia sẻ trở lại với cộng đồng quốc tế…
Khát vọng hùng cường, thịnh vượng không chỉ là khát khao cháy bỏng của mỗi người Việt Nam mà còn là tiềm năng, năng lượng cho sự phát triển của đất nước. Tinh thần ấy được thể hiện trong chỉ số của "tinh thần khởi nghiệp", với 92% người được hỏi sẽ cân nhắc khởi nghiệp, 88% sẵn sàng chấp nhận rủi ro, thất bại khi khởi nghiệp so với trung bình thế giới ở mức 47%.
"Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Ngân hàng Thế giới công bố ngày 23/02/2016 tại Hà Nội xác định "khát vọng chung của Việt Nam", sau 90 năm giành lại nền độc lập dân tộc, gồm:
(1) Một xã hội thịnh vượng, có thu nhập ở mức trung bình cao của thế giới. Tiềm lực và vị thế của quốc gia được nâng cao. Nền kinh tế thị trường được dẫn dắt bởi khu vực tư nhân, có năng lực cạnh tranh cao và hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu. Các ngành kinh tế hiện đại và kinh tế tri thức được phát triển trong mạng lưới các đô thị hiện đại kết nối tốt và hiệu quả sẽ thúc đẩy tăng trưởng.
(2) Một xã hội hiện đại, sáng tạo và dân chủ với vai trò làm động lực thúc đẩy phát triển trong tương lai. Trọng tâm là hình thành một môi trường mở và tự do để khuyến khích mọi công dân học hỏi và sáng tạo. Mọi người dân được đảm bảo bình đẳng về cơ hội phát triển và được tự do theo đuổi nghề nghiệp, đồng thời phải hoàn thành trách nhiệm của mình mà không coi nhẹ lợi ích của dân tộc và cộng đồng.
(3) Một nhà nước pháp quyền hiệu quả và đảm bảo trách nhiệm giải trình. Mối quan hệ giữa nhà nước với người dân và giữa nhà nước với thị trường được làm rõ. Nhà nước sẽ thực hiện các chức năng cơ bản của mình một cách hiệu quả, trong đó bao gồm xây dựng và thực thi pháp luật, xử lý quan hệ quốc tế, đảm bảo trật tự công cộng và an ninh quốc gia, đảm bảo thị trường vận hành tự do đồng thời giải quyết được các thất bại thị trường. Nhà nước thiết lập các thể chế xã hội vững mạnh nhằm đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, tăng cường trách nhiệm giải trình.
(4) Một Quốc hội bao gồm các đại biểu với trình độ chuyên môn cao và có khả năng tự chủ về thể chế để đại diện cho nhân dân, thực hiện giám sát về hành pháp; phê chuẩn và ban hành các bộ luật có chất lượng. Tương tự như vậy, tư pháp sẽ có một vị trí phù hợp, với quyền tự chủ và năng lực mạnh mẽ để giải quyết các tranh chấp trong một xã hội và một nền kinh tế đa dạng hơn. Bộ máy hành pháp sẽ được tổ chức tốt theo chiều dọc và chiều ngang với các chức năng rõ ràng từ Trung ương đến địa phương.
(5) Một xã hội văn minh, trong đó mỗi người dân và mỗi tổ chức chính trị xã hội (toàn bộ hệ thống chính trị) được bình đẳng trước pháp luật. Nền tảng của xã hội đó là một xã hội có tổ chức xã hội của người dân vững mạnh và đa dạng có thể thực hiện các quyền cơ bản, trong đó có quyền dân chủ trực tiếp của người dân, quyền tiếp cận thông tin và lập hội.
(6) Một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng các quốc gia trên toàn cầu, tham gia xây dựng các liên minh toàn cầu và hoàn thành các trách nhiệm toàn cầu, hướng tới hòa bình, an ninh và chủ động tìm kiếm các cơ hội hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.
(7) Một môi trường bền vững. Việt Nam sẽ đảm bảo chất lượng không khí, đất và nước. Việt Nam sẽ lồng ghép vấn đề hình thành khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu vào quy hoạch kinh tế, chính sách xã hội và đầu tư hạ tầng để giảm thiểu rủi ro về biến đổi khí hậu. Việt Nam cũng sẽ phát triển các nguồn năng lượng đa dạng, sạch và an toàn.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2035 là: GDP bình quân đầu người đạt tối thiểu 10.000 USD (tính theo sức mua tương đương bằng đô-la Mỹ năm 2011), gần tương đương với mức của Ma-lai-xi-a năm 2010); Đa số người dân sống tại khu vực đô thị (trên 50%); Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 90% GDP và trên 70% lao động nền kinh tế làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ; Tỷ trọng đóng góp của kinh tế tư nhân trong GDP chiếm tối thiểu 80%; Chỉ số phát triển con người đạt trên 0,7…
Để hiện thực hóa khát vọng đó, Báo cáo Việt Nam 2035 nêu lên sáu đột phá lớn cần phải thực hiện là: (i) Xây dựng thể chế hiện đại; (ii) Hiện đại hóa nền kinh tế và phát triển khu vực tư nhân trong nước có năng lực cạnh tranh cao; (iii) Phát triển năng lực đổi mới sáng tạo; (iv) Thúc đẩy hòa nhập xã hội; (v) Tăng trưởng có khả năng chống chịu với khí hậu; (vi) Chuyển dịch không gian phát triển. Sáu đột phá trên là cơ sở cho hiện thực hóa khát vọng, đồng thời cũng chính là những mục tiêu cần đạt tới vào năm 2035, bao gồm trong ba trụ cột: (i) thịnh vượng về kinh tế đi đôi với bền vững về môi trường; (ii) công bằng và hòa nhập xã hội; (iii) năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước.
Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã thông qua Kết luận số 37-KL/TW về tình hình kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2018 và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2019. Trong 9 nhóm giải pháp phải thực hiện, Kết luận đã đề cập đến giải pháp "Làm tốt hơn nữa công tác thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội, xây dựng niềm tin và khát vọng dân tộc". Thảo luận và thông qua đề cương các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Hội nghị Trung ương 10 khóa XII đã thống nhất phương án chung về chủ đề của Đại hội XIII, gồm 5 thành tố, trong đó thành tố thứ hai là "Củng cố niềm tin của nhân dân, phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc và sức mạnh thời đại". Đó chính là những định hướng chiến lược phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
4. Công tác dân vận hiện nay có vai trò rất quan trọng trong việc khơi dậy niềm tin, khát vọng phát triển của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận đã khẳng định: "dân vận khéo, việc gì cũng làm được. Dân vận kém không làm nổi việc gì" đã chỉ cho chúng ta vai trò hàng đầu của công tác dân vận, ngay cả trong việc khơi dậy niềm tin, khát vọng phát triển của toàn dân tộc hiện nay. Động lực niềm tin, khát vọng dân tộc chỉ có thể hình thành, củng cố và phát triển khi vận động được nhân dân tham gia.
Trước hết là thực hiện tốt những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "Ai làm công tác dân vận". Đó là “tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,v.v.) đều phải phụ trách dân vận”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ lực lượng làm công tác dân vận là những ai. Đó không chỉ là những người chuyên trách công tác này, mà rất đông đảo, với nhiều tổ chức, cá nhân cùng tham gia. Đó chính là sức mạnh nói chung, trong các phong trào cách mạng nói chung, trên các mặt trận và lĩnh vực cụ thể nói riêng, trong đó có lĩnh vực dân vận.
Lực lượng làm công tác dân vận là lực lượng của cả hệ thống chính trị - trước hết là của chính quyền. Điều ấy có nghĩa là, tất cả cán bộ chính quyền đều phải làm dân vận. Đây là đặc điểm nổi bật của công tác dân vận khi Đảng ta có chính quyền. Chính quyền của ta là công cụ chủ yếu của nhân dân. Chính quyền không những chỉ phải làm dân vận mà còn có nhiều điều kiện thuận lợi để làm công tác dân vận tốt hơn. Hơn nữa, với quyền lực nhà nước, quyền quản lý xã hội của các cơ quan chính quyền, rất dễ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, thiên về các biện pháp quản lý, coi thường công tác dân vận hay "khoán trắng" nhiệm vụ làm công tác vận động nhân dân cho các đoàn thể và cơ quan dân vận các cấp, nên càng cần phải quan tâm đến "dân vận chính quyền"…
Hai là, trong công tác dân vận cần thực hiện chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài báo Dân vận, khi nói dân vận phải làm gì với 6 việc, 12 từ là: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Óc nghĩ: Điều này được Hồ Chí Minh đặt ở vị trí hàng đầu, cho thấy người đặc biệt đề cao trí tuệ và yêu cầu về sự “động não” của người làm công tác dân vận.
Bác Hồ muốn khẳng định, công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những công thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học - khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người, phải dày công tìm tòi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả.
Mắt trông: Là quan sát mọi sự việc, hiện tượng từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng, để “trăm nghe không bằng một thấy”. Với sự nhạy cảm, tinh tế trong quan sát, kết hợp với “óc nghĩ” xác định được đúng, sai, nhận rõ bản chất và hiện tựợng của từng sự việc, từng vấn đề để làm đúng, tham mưu kịp thời cho Đảng và Nhà nước để có cách giải pháp đúng đắn kịp thời đưa phong trào của quần chúng đi đúng hướng. Ở điểm này, Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải thường xuyên sâu sát cơ sở. Vì chỉ có sát cơ sở mới có thể “thấy” mọi sự việc, vấn đề. Theo đó, muốn vận động quần chúng một cách thiết thực, muốn làm tốt vai trò tham mưu phải “mục sở thị” được các sự việc và vấn đề liên quan đến công tác dân vận.
Tai nghe: Là một phương pháp khoa học của công tác dân vận, theo Hồ Chí Minh cũng với “óc nghĩ”, “mắt trông”, người làm công tác dân vận còn phải đồng thời nắm bắt kịp thời các thông tin từ quần chúng. Đòi hỏi phải biết nghe dân nói, từ đó mà hiểu được những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của dân; loại trừ những thông tin thiếu chân thực, thiếu chính xác. Nghe dân nói, cũng là để biết dân đã hiểu gì, hiểu đến mức như thế nào, đã làm như thế nào và làm được đến đâu. Về bản thân, mình cũng thấy được những gì cần phải bổ sung, điều chỉnh khi thực hiện công tác dân vận.
Chân đi: Là yêu cầu gắn với cơ sở, một đòi hỏi bức thiết, luôn đặt ra đối với cán bộ dân vận, đây cũng là một yếu tố chống căn bệnh quan liêu, hành chính, làm việc theo kiểu giấy tờ của các cơ quan. Phải dành thời gian đi cơ sở để khảo sát tình hình thực tế, lắng nghe ý kiến của dân và trực tiếp tháo gỡ những khó khăn nẩy sinh trong dân. Xuống với dân phải thực chất, chống bệnh hình thức, “cờ rong, trống mở” xe đưa xe đón.. Phải nghiêm túc chống bệnh tô vẽ, thổi phồng mắc bệnh thành tích...
Miệng nói: Là thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, nhất là tuyên tuyền miệng, một hình thức tuyên truyền không thể thiếu của người làm công tác dân vận. Phải thường xuyên quan tâm và thực hiện tốt trách nhiệm tuyên truyền, cổ động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng... Tuyên truyền miệng phải đúng và phải khéo, nói với với dân phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực và cụ thể, tránh mệnh lệnh, phù hợp với từng lứa tuổi và hoàn cảnh. Đối với người già, các bậc lão thành phải cung kính, lễ độ, với đồng chí, đồng bào phải đúng mực, nghiêm trang, với nhi đồng phải thương yêu, quý mến…
Tay làm: Là thể hiện quan niệm học đi đôi với hành, là gương mẫu, làm gương trước cho quần chúng. Nếu nói là để dân nghe, thì làm là để dân thấy, dân tin, dân học, dân làm theo. Lời nói đi đôi với việc làm là một yêu cầu, một phương pháp hết sức quan trọng đối với cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác dân vận nói riêng. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến hai mặt của một vấn đề này. Người từng có hàng loạt bài viết, bài nói phê phán những cán bộ, đảng viên “nói không đi đôi với làm”, “nói hay mà làm dở” hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ rõ “cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói, tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì nói vô ích”.
Như vậy: “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách; “Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay để “thật thà nhúng tay vào việc”, khắc phục “bệnh nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”... "Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" là có sự thống nhất, hòa quyện chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Đó là "cẩm nang" về phương pháp dân vận cho tất cả cán bộ, đảng viên trong công tác dân vận, được thực hiện trong tất cả các cấp các ngành, phù hợp với điều kiện và công việc cụ thể của mình.
Ba là, cần phát huy tốt nhất vai trò và nâng cao trách nhiệm của cấp ủy và Ban Dân vận cấp ủy các cấp. Công tác dân vận là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng. Cấp ủy, ban thường vụ và trực tiếp là bí thư cấp ủy có nhận thức đúng về vai trò của công tác dân vận, quan tâm đúng mức lãnh đạo phụ trách, không khoán trắng cho Ban Dân vận và đồng chí cấp ủy phụ trách dân vận…, mới đảm bảo để tạo chuyển biến tích cực trong toàn bộ hệ thống chính trị tham gia công tác dân vận. Về phía Ban Dân vận, trước hết cần nhận thức rõ và làm tốt trách nhiệm tham mưu, giúp cấp ủy trong công tác dận vận, tăng cường công tác kiểm tra, giúp đỡ về chuyên môn, nghiệp vụ cho các cơ quan trong hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền, là vai trò và nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan dân vận./.
PGS, TS Ngô Văn Thạo
Hội đồng Lý luận Trung ương