Thứ Bảy, ngày 20 tháng 04 năm 2024

Công tác phân luồng trong giáo dục đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quốc gia, hội nhập khu vực và quốc tế

Ngày phát hành: 22/06/2022 Lượt xem 1615


 

1. Nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh, là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác, là yếu tố cơ bản để tạo nên chất lượng nguồn nhân lực. Kinh nghiệm các quốc gia cho thấy chất lượng con người phụ thuộc vào việc đầu tư phát triển nền giáo dục hiện đại, thể hiện trong chiến lược phát triển một xã hội học tập mà về bản chất đó là nền giáo dục mở, tạo ra sự bình đẳng về tiếp cận giáo dục cho mọi người, ai cũng có thể học hành cũng như tạo cơ hội để phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.

Sau hơn 35 đổi mới, thực hiện các đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm kỳ  2016-2020 được đánh giá[1]: Quy mô nguồn nhân lực tăng lên trong tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong các ngành, lĩnh vực đột phá; các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia bắt đầu hình thành. Quy mô nhân lực của nền kinh tế có sự gia tăng rõ nét trong tất cả các ngành, lĩnh vực, ước năm 2020 có khoảng 54,6 triệu người. Cơ cấu lao động chuyển dịch từ khu vực năng suất lao động thấp sang khu vực năng suất lao động cao. Công tác đào tạo nhân lực đã có những thay đổi theo hướng tập trung nâng cao chất lượng; đào tạo gắn kết với nhu cầu lao động của địa phương, doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động; bước đầu áp dụng các phương pháp đào tạo của các tổ chức đào tạo nhân lực quốc tế. Nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng, trong đó một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu vực và quốc tế như công nghệ thông tin, y tế, công nghiệp xây dựng, cơ khí...

Sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020, công tác giáo dục hướng nghiệp, phân luồng ở phổ thông được quan tâm hơn và đã có những chuyển biến nhất định. Việc lựa chọn nghề phổ thông của học sinh đã chuyển dần theo hướng phù hợp với nhu cầu phát triển kỹ năng, đáp ứng phần nào nhu cầu lao động của xã hội, nhiều nghề phổ thông gắn với phát triển kỹ năng sống được học sinh lựa chọn học nhiều như nghề: Tin học, làm vườn, điện dân dụng, nấu ăn, chăn nuôi, làm mắm…Hoạt động dạy nghề trong các nhà trường phổ thông được đổi mới theo hướng tăng cường các hoạt động thực hành, gắn với thực tiễn sản xuất, kinh doanh của địa phương. Một số địa phương đã mở rộng dạy các nghề mới gắn với nhu cầu của học sinh và yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Mạng lưới cơ sở giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dạy nghề được đầu tư, nâng cấp từng bước được chuẩn hóa. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên làm nhiệm vụ tư vấn, hướng nghiệp được bổ sung về số lượng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ.

 

2. Triển khai chủ trương phân luồng học sinh sau trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) vào học các trình độ giáo dục nghề nghiệp (GDNN), tạo chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh hợp lý cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội theo tinh thần Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị khóa XI, đến nay, sau 10 năm thực hiện với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến đến địa phương, triển khai nhiều giải pháp công tác phân luồng đạt được một số kết quả ghi nhận.

 

Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; học sinh tốt nghiệp THCS, học sinh tốt nghiệp THPT tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN trình độ cao đẳng. Tăng cường đẩy mạnh thực hiện cơ chế, chính sách tuyển sinh, khuyến khích, hỗ trợ khởi nghiệp cho học sinh tốt nghiệp THCS vào học trình độ đào tạo trung cấp, cao đẳng. Phát triển đội ngũ làm nhiệm vụ tư vấn hướng nghiệp, tuyển sinh, huy động lực lượng doanh nghiệp, doanh nhân, nghệ nhân... tham gia làm công tác tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, khuyến khích việc dạy nghề truyền thống ở địa phương, mở các lớp bồi dưỡng nghề thông qua trung tâm GDNN - giáo dục thường xuyên cấp huyện…Đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất trường, lớp, trang thiết bị dạy học tiến tới đạt chuẩn khu vực. Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, nâng cao nhận thức của phụ huynh, học sinh và xã hội đối với giáo dục nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS, THPT.

 

Tuy nhiên, bên cạnh một số kết quả đạt, mặc dù có nhiều cố gắng, song kết quả phân luồng học sinh sau THCS, THPT chưa đạt mục tiêu phấn đấu có ít nhất 30% học sinh sau khi tốt nghiệp đi học nghề theo Chỉ thị số 10-CT/TW đề ra. Tỷ lệ học sinh học sau THCS vào học THPT còn cao. Hầu hết học sinh tốt nghiệp THPT có nguyện vọng thi vào đại học, số ít học sinh có nguyện vọng đi học GDNN. Việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất trang thiết bị dạy và học nghề trong các cơ sở GDNN chưa đồng bộ; thiếu nguồn lực hỗ trợ các trung tâm giáo dục thường xuyên. Hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ sở GDNN và các trung tâm giáo dục thường xuyên dạy bổ túc văn hóa THPT gắn với dạy nghề chưa thật tốt.

Người học tốt nghiệp trình độ trung cấp học liên thông lên các trình độ cao hơn, nhất là trình độ đại học chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 0,8%). Học sinh tốt nghiệp THCS vào học trình độ trung cấp và chỉ học nghề để tham gia thị trường lao động chiếm khoảng 10%. Theo quy định học sinh học 02 năm, không phải học kiến thức văn hóa THPT, sau khi tốt nghiệp tham gia thị trường lao động và không liên thông lên trình độ cao hơn. Học sinh tốt nghiệp THCS vào học trình độ trung cấp và có tham gia học kiến thức văn hóa THPT để liên thông lên trình độ cao đẳng chiếm khoảng 20% (nhưng không tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia, không liên thông được lên trình độ đại học). Học sinh tốt nghiệp THCS vào học trình độ trung cấp, học kiến thức văn hóa chương trình giáo dục thường xuyên để tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia chiếm khoảng 70%.

 

Công tác giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông còn hạn chế; chương trình, hoạt động giáo dục hướng nghiệp chưa đổi mới, chưa gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở địa phương. Năng lực đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm làm nhiệm vụ hướng nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ. Nhận thức của người dân, nhà trường và xã hội đối với công tác phân luồng trong giáo dục chưa đầy đủ. Công tác phối hợp giữa ngành giáo dục với ngành lao động, các ban, ngành và đơn vị sử dụng lao động ở các địa phương trong việc tuyên truyền, tư vấn tuyển sinh, hướng dẫn lựa chọn ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp với khả năng, nguyện vọng của người học chưa thật hiệu quả, thiết thực. Chưa có cơ chế, chính sách ưu tiên cho doanh nghiệp tuyển dụng người học tốt nghiệp trình độ trung cấp có đầu vào THCS làm việc tại doanh nghiệp[2]. Các biện pháp, giải pháp huy động nguồn lực xã hội tham gia giáo dục hướng nghiệp, phân luồng trong giáo dục phổ thông còn hạn chế.

 

Để góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng trong giáo dục, và triển khai thực hiện tốt hơn Chỉ thị số 10-CT/TW, giúp các địa phương tháo gỡ khó khăn trong công tác phân luồng, hướng nghiệp tại địa phương, ngày 14/05/2018 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 522/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025”. Sau 03 năm thực hiện Đề án, các địa phương đã tích cực triển khai với nhiều biện pháp sáng tạo, đã có những chính sách hiệu quả, thiết thực trong việc hỗ trợ cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh phù hợp với đặc điểm và tình hình của địa phương, công tác giáo dục hướng nghiệp, phân luồng trong giáo dục được một số kết quả bước đầu:

 

Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS cả nước vào học GDNN trung bình cả nước giai đoạn 2011 - 2015 đạt khoảng 9 - 10%; giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 16,3%.  Đối với mục tiêu phấn đấu ít nhất 30% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp, cả nước mới chỉ có 02 tỉnh là tỉnh Thừa Thiên Huế và Đắk Nông đạt được chỉ tiêu này. Các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cũng mới chỉ có 05 tỉnh (Đắk Nông, Lai Châu, Phú Thọ, Đắk Lắk, Bắc Giang đạt được chỉ tiêu 25% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp. Đối với mục tiêu phấn đấu ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp THPT tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ cao đẳng, cả nước cũng mới chỉ có 07 tỉnh (Cần Thơ, Thừa Thiên Huế, Đắk Nông, Yên Bái, Đắk Lắk, Sơn La, Nam Định) đạt được chỉ tiêu này. Các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cũng mới chỉ có 03 tỉnh (Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Bình) đạt được chỉ tiêu 30% học sinh tốt nghiệp THPT tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ cao đẳng. Nhưng nhiều địa phương rất khó đạt được cả hai mục tiêu nêu trên, có tỉnh tỷ lệ này đạt rất thấp (dưới 2%) hoặc chỉ mới gần đạt một nửa so với mục tiêu đạt ra.

 

Những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế về công tác phân luồng trong giáo dục được đề cập ở trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ yếu là: Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục hướng nghiệp, phân luồng trong giáo dục của cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa đầy đủ, có mặt còn hạn chế. Tâm lý trọng bằng cấp cũng như mong muốn của phần lớn học sinh, phụ huynh luôn mong muốn con em mình học tiếp lên trình độ đại học. Công tác phối hợp giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội; giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong triển khai nhiệm vụ, giải pháp về hướng nghiệp, phân luồng cho học sinh sau THCS, THPT vào học GDNN chưa chặt chẽ, thường xuyên và hiệu quả. Cơ sở dữ liệu về nghề nghiệp, thị trường lao động phục vụ cho công tác hướng nghiệp, phân luồng ở nhiều địa phương còn bất cập. Nguồn lực cho công tác phân luồng trong giáo dục; chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng yêu cầu cầu và nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tư vấn hướng nghiệp, giáo dục nghề nghiệp còn hạn chế về năng lực thực hiện. Nội dung, chương trình, tài liệu phục vụ cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp, giáo dục nghề nghiệp còn chậm đổi mới, chưa gắn với đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp.

 

3. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của toàn thế giới và đến từng khu vực, quốc gia. Sự phát triển mạnh của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Cơ cấu, trình độ sản xuất thay đổi, một số ngành nghề lao động truyền thống sẽ có biến động mạnh, được thay thế bởi máy móc, dây chuyền tự động; một số ngành nghề mới xuất hiện đòi hỏi người lao động phải có năng lực, kỹ năng nhất định…Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, thị trường lao động trong nước cũng có những biến đổi tương tự, quan niệm về ngành nghề, về chọn nghề nghiệp sẽ có những thay đổi khác với truyền thống. Đặc biệt, tác động của đại dịch Covid-19 tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo đã đưa đến những thách thức, tác động không nhỏ đến hoạt động giáo dục và đào tạo, trong đó có hướng nghiệp, phân luồng trong giáo dục.

 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh rõ hơn mục tiêu của “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” trong giai đoạn mới là: Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”; “Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho các lĩnh vực then chốt”; “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; “Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng, liên thông trong giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu xã hội”; “ Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời”; “Đổi mới sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”.

 

Nhằm tạo bước đột phá giáo dục hướng nghiệp, chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng trong giáo dục đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quốc gia, hội nhập khu vực và quốc tế; thực hiện tốt chủ trương của Đảng về  phân luồng trong giáo dục để thực hiện giáo dục tiểu học bắt buộc, tiến tới phổ cập trung học phổ thông gắn với phân luồng trong giáo dục, tạo bước chuyển đột phá về chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, liên thông với các trình độ GDNN góp phần chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Công tác giáo dục hướng nghiệp, phân luồng trong giáo dục vừa phải tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp được nêu ra trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước; đồng thời phải có những đổi mới cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Cụ thể:

 

Triển khai các giải pháp hữu hiệu tạo bước chuyển mạnh mẽ công tác phân luồng trong giáo dục. Huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, sự phối hợp liên ngành giữa các bộ, ban ngành liên quan và các địa phương đối với công tác phân luồng trong giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường phổ thông với cơ sở GDNN, doanh nghiệp và phụ huynh, học sinh tổ chức thực hiện tốt công tác giáo dục hướng nghề nghiệp trong trường phổ thông.

 

Đổi mới chương trình, phương thức đào tạo trong các cơ sở GDNN theo hướng mở, linh hoạt, phát triển năng lực, phẩm chất của người học thúc đẩy phân luồng, liên thông trong giáo dục. Thực hiện tốt các hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, giáo dục STEM, tích hợp giáo dục hướng nghiệp vào chương trình các môn học mới trong chương trình giáo dục phổ thông 2018. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại gắn với đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và GDNN. Phát triển đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tư vấn, hướng nghiệp trong các nhà trường phổ thông. Huy động lực lượng các nhà khoa học, các nhà quản lý, giáo viên các cơ sở GDNN, các doanh nhân tham gia công tác tư vấn, hướng nghiệp.

 

Hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT được học liên thông giữa các trình độ đào tạo, lên các cấp học cao hơn và tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN. Có chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số, học sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách. có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục chủ động kết nối, hợp tác với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, các viện, các trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, các trường đại học,…để được hỗ trợ về thông tin, khai thác cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động giáo dục hướng nghiệp, phân luồng.

 

Tiếp tục nâng cao nhận thức trong toàn ngành và xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh phổ thông. Xây dựng trang thông tin cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin về tuyển sinh về nhu cầu thị trường lao động, cơ sở dữ liệu về nghề nghiệp, tiến tới xây dựng Cổng thông tin “Hướng nghiệp - Tuyển sinh - Việc làm” quốc gia. Nhân rộng, biểu dương các mô hình giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh ở các nhà trường, các địa phương, từ đó nhân rộng ra các nhà trường, các địa phương trên phạm vi cả nước.

              

TS. Lê Thị Mai Hoa

Phó Vụ trưởng, Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề, Ban Tuyên giáo Trung ương



[1] Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tập II, Hà Nội 2021.

[2] Theo Bộ Luật Lao động số 45/2019/QH14, ngày 20/11/2019 của Quốc hội; Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH, ngày 12/11/2020 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về lao động chưa thành niên.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết