Chương trình Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị (gọi tắt là Chương trình) của Hội đồng Lý luận Trung ương có nhiệm vụ:
1. Góp phần cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng.
2. Góp phần tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận nhằm cung cấp cơ sở cho việc định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.
3. Bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm góp phần phục vụ trực tiếp, kịp thời cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và phục vụ cho việc hoạch định đường lối, xây dựng các văn kiện trình Đại hội của Đảng khóa tiếp theo.
Do ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng đặc biệt ấy, việc đổi mới các khâu công việc, nâng cao chất lượng kết quả nghiên cứu của Chương trình là một trong số các vấn đề sống còn, cần được ưu tiên hàng đầu trong các công việc của Hội đồng Lý luận Trung ương trong thời gian tới.
1. Đổi mới, nâng cao chất lượng về định hướng nội dung nghiên cứu
Muốn bảo đảm chất lượng, hiệu quả của Chương trình nghiên cứu, yêu cầu đầu tiên là phải xác định đúng định hướng nội dung nghiên cứu và hệ thống các đề tài cụ thể trong định hướng chung ấy. Nghĩa là, định hướng nội dung và hệ thống các đề tài nghiên cứu của Chương trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, định hướng nội dung và các đề tài phải phục vụ trực tiếp cho các nhiệm vụ đặt ra cho Chương trình là góp phần triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng, phục vụ cho việc xây dụng văn kiện, hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương Đảng;
Thứ hai, định hướng nội dung và hệ thống các đề tài trong Chương trình phải là các vấn đề lý luận, gắn với nền tảng tư tưởng của Đảng, của chủ nghĩa xã hội cần được tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn, làm sáng tỏ hơn về vai trò, ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hiện nay hoặc cần phải có cách tiếp cận mới, phát triển sang tạo phù hợp hơn với bối cảnh tình hình thời đại và điều kiện hiện tại của đất nước;
Thứ ba, định hướng nội dung và hệ thống các đề tài trong Chương trình phải là các vấn đề mới do thực tiễn cách mạng đặt ra và đòi hỏi giải đáp về lý luận, hoặc những vấn đề đã tồn tại trong thực tiễn nhưng chưa được giải đáp đầy đủ, có sức thuyết phục về lý luận, hoặc vấn đề cũ trong thực tế nhưng do bối cảnh thực tế đã thay đổi, đòi hỏi phải có cách tiếp cận, lý giải mới hợp lý.
Nội dung hệ thống các đề tài của Chương trình bao gồm 2 phần: Các đề tài do Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương đặt hàng trực tiếp và các đề tài do Hội đồng Lý luận Trung ương nghiên cứu đề xuất. Thông thường, các đề tài do Hội đồng Lý luận Trung ương đề xuất bao giờ cũng chiếm tỷ lệ lớn. Toàn bộ hệ thống các đề tài trong Chương trình được Bộ Chính trị xem xét, cho ý kiến trước khi báo cáo với Bộ Khoa học và Công nghệ để triển khai thực hiện. Trong quá trình thực hiện Chương trình, có thể bổ sung một số đề tài do yêu cầu mới đặt ra.
Cho dù mục đích và yêu cầu đặt ra cho việc định hướng nội dung của Chương trình đã rất rõ ràng, xong việc xác định hệ thống các đề tài và yêu cầu nội dung nghiên cứu cụ thể cho từng đề tài vẫn là một công việc khó khăn, đòi hỏi tính khoa học, tính thực tiễn và ở tầm lý luận, đường lối. Mặt khác, đây cũng là yếu tố đầu tiên quyết định chất lượng, hiệu quả của cả Chương trình, vì thế càng cần phải đầu tư để bảo đảm tốt nhất các yêu cầu. Theo kinh nghiệm xây dựng hệ thống đề tài của các giai đoạn trước và phù hợp với phương pháp khoa học nói chung, việc xác định đề tài hệ thống đề tài cần dựa trên các cơ sở: Đường lối của Đảng, thực tiễn cách mạng, bối cảnh trong nước và thế giới, ý kiến của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý. Tương tự với các cơ sở ấy, cần đổi mới phương pháp tiếp cận, cách thực thực hiện để làm tốt các khâu công việc quan trọng nhằm xác định đúng các đề tài nghiên cứu cho Chương trình.
Thứ nhất, nghiên cứu đường lối, chủ trương của Đảng về các lĩnh vực, từ xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, đến phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, quan hệ quốc tế. Qua nghiên cứu để nắm bắt được những mục tiêu, yêu cầu đặt ra và những vấn đề lý luận cần phải nghiên cứu nhằm phục vụ việc thực hiện các mục tiêu, yêu cầu đó. Đây là khâu công việc rất quan trọng, đòi hỏi sự công phu, hệ thống, có cách nhìn hệ thống, khái quát hệ thống đường lối của Đảng trong cả tiến trình cách mạng, đồng thời nghiên cứu sâu để nhận thức rõ quan điểm, nội dung, yêu cầu các vấn đề đường lối đặt ra trong giai đoạn mới. Trên cơ sở ấy mới có thể đề xuất được những nội dung nghiên cứu đúng đắn, cần thiết cho Chương trình.
Thứ hai, việc nghiên cứu thực tế ở các địa phương cần chú ý đến các địa bàn đại diện cho các vùng, các khu vực của đất nước. Nghiên cứu các mô hình, điển hình tiên tiến về tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, đồng thời nghiên cứu những địa phương, đơn vị, cơ sở có nhiều khó khăn, tình hình phức tạp, tìm ra những nguyên nhân, điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển của địa phương, đơn vị đó. Từ nghiên cứu, khảo sát thực tế ở các địa phương, các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, không chỉ nhằm nắm bắt đặc điểm, tình hình thực trạng, các yếu tố tác động và nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế, mà quan trọng hơn, cần làm rõ đặc điểm chung mang tính khái quát của các mô hình tiên tiến, các nguyên nhân phổ biến và đặc thù dẫn đến những hạn chế, những vấn đề đặt ra về đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với các loại mô hình đó. Đó chính là cơ sở thực tế gợi ý cho việc xác định một số đề tài nghiên cứu cần thiết.
Thứ ba, nghiên cứu bối cảnh trong nước và thế giới có ý nghĩa kép, là cơ sở cho việc xác định một số đề tài về các vấn đề quan hệ quốc tế, cũng là cơ sở để xây dựng các đề tài và xác định yêu cầu, nội dung, mục tiêu cho các đề tài về các các lĩnh vực khác. Đối với bối cảnh trong nước, cần nghiên cứu kỹ các nội dung về đánh giá tình hình trong nước trong văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nước, các tại liệu kết quả nghiên cứu của các tổ chức khoa học. Đồng thời, tìm hiểu toàn diện các nhận định, đánh giá của các chuyên gia, các tổ chức quốc tế về tình hình và các vấn đề của Việt Nam. Đối với bối cảnh thế giới, chủ yếu là nghiên cứu các tài liệu, trong trường hợp điều kiện cho phép, có thể đi nghiên cứu, khảo sát ở một số quốc gia điển hình cho khu vực hoặc cho các mô hình phát triển của thế giới.
Thứ tư, lấy ý kiến các nhà khoa học, chuyên gia, cán bộ lãnh đạo quản lý lâu năm, có nhiều kinh nghiệm nhằm thu thập, chọn lọc các ý tưởng và xác định các đề tài nghiên cứu. Mặt khác, thông qua ý kiến các nhà khoa học, các chuyên gia nhằm cân nhắc, đánh giá lại hệ thống các đề tài, bảo đảm sự đúng đắn, chính xác, hợp lý. Đồng thời, các nhà khoa học, các chuyên gia cũng chính là những lực lượng không thể thiếu để đề xuất và xác định nội dung yêu cầu, mục tiêu cần đạt được đối với từng đề tài nghiên cứu cụ thể. Việc tập hợp, lựa chọn được đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia mạnh để tham gia giải quyết các khâu công việc trong quá trình xác định định hướng nội dung và hệ thống các đề tài là yếu tố đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng, hiệu quả toàn bộ Chương trình nghiên cứu.
2. Đổi mới, nâng cao chất lượng lựa chọn, tổ chức lực lượng nghiên cứu
Sau khi đã xác định được định hướng nội dung và hệ thống đề tài, yếu tố thứ hai quyết định sự thành bại và chất lượng của Chương trình chính là việc lựa chọn các cơ quan chủ trì, đội ngũ các nhà khoa học làm chủ nhiệm và lực lượng nhân sự tham gia tổ chức nghiên cứu các đề tài. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện và kết quả nghiên cứu của các nhiệm kỳ trước cho thấy, nếu lựa chọn không tốt các cơ quan chủ trì, các chủ nhiệm đề tài và đội ngũ cán bộ tham gia đề tài sẽ dẫn đến những hạn chế không nhỏ, ảnh hưởng nhiều mặt đến toàn bộ hoạt động của Chương trình. Các hạn chế của khâu công việc này thường thể hiện ở các trường hợp cụ thể như:
(1) Cơ quan chủ quản thiếu trách nhiệm trong việc tham gia quản lý, thiếu sự hợp tác chặt chẽ với chủ nhiệm đề tài trong các khâu công việc, nhất là các thủ tục hành chính, thủ tục giải ngân;
(2) Chủ nhiệm đề tài thiếu năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức thực hiện, quản lý điều hành các hoạt động nghiên cứu, hoặc quá bận trong công tác chuyên môn của cơ quan, đơn vị, không giành đủ thời gian thích đáng cho các công việc của đề tài;
(3) Một số thành viên chủ chốt trong ban chủ nhiệm đề tài hạn chế năng lực chuyên môn khoa học hoặc thiếu kỹ năng giải quyết các công việc cụ thể trong qua trình tổ chức thực hiện đề tài. Thường thấy nhất là trường hợp thư ký hành chính không có chuyên môn kế toán, tài vụ, không nắm vững các chính sách, chế độ tài chính, thiếu kinh nghiệm kinh nghiệm về giải ngân trong hoạt động khoa học.
Những hạn chế trên đây dẫn đến hậu quả là:
(1) Các đề tài khó khăn, lúng túng trong triển khai thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu: Sự lúng túng thể hiện ngay từ các khâu xây dựng đề cương nghiên cứu; cụ thể hóa các yêu cầu, mục tiêu thành các nhiệm vụ nghiên cứu; xây dựng kế hoạch tổng thể và kế hoạch hằng năm thực hiện đề tài; phân công, phân nhiệm cho các thành viên trong Ban Chủ nhiệm; đến việc quản lý, điều hành các hoạt động hành chính của đề tài; xử lý các công việc liên quan đến việc giải ngân… Chủ nhiệm đề tài khó khăn trong việc tìm kiếm và lựa chọn các nhà khoa học có năng lực chuyên môn.
(2) Không bảo đảm tiến độ thực hiện các đề tài: Do hạn chế của các khâu công việc về tổ chức, nhân sự mà các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như: Các chuyên đề nội dung, các cuộc hội thảo, tọa đàm, các cuộc điều tra xã hội học, các cuộc nghiên cứu thực tế trong và ngoài nước, các báo cáo chắt lọc kết quả nghiên cứu (báo cáo trung gian 6 tháng/lần)… không bảo đảm thời gian theo kế hoạch. Sự chậm trễ trong các khâu công việc cụ thể này kéo theo sự chậm trễ của toàn bộ kế hoạch thực hiện đề tài. Kết quả là một số đề tài phải kéo dài thời gian thực hiện. (Các nhiệm kỳ trước năm 2015, có đề tài kéo dài nhiều năm). Việc không bảo đảm về tiến độ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, nhất là sự đóng góp của đề tài vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của cả Chương trình.
(3) Chất lượng của đề tài không bảo đảm: Trước hết là chất lượng các báo cáo chắt lọc mỗi 6 tháng không phản ánh được kết quả thực chất của nghiên cứu hoặc chỉ là những ý tưởng, suy nghĩ không mới, chưa được được kiểm chứng, không có ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn. Đặc biệt, kết quả tổng hợp sau khi kết thúc nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài có ít điểm mới, lặp lại những ý tưởng, luận điểm cũ hay kết quả nghiên cứu của các đề tài trước, các công trình nghiên cứu đã có, các giải pháp thường chung chúng, có tính chất nguyên tắc, không dựa vào kết quả nghiên cứu và không thể thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
Từ thực tế trên đây, có thể thấy việc đổi mới, nâng cao chất lượng trong việc lựa chọn cơ quan chủ trì, các nhà khoa học làm chủ nhiệm và các thành viên chủ chốt của Ban chủ nhiệm các đề tài là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Vậy những nội dung cần đổi mới và nâng cao chất lượng trong các khâu công việc này là gì?
Thứ nhất, chọn các cơ quan chủ trì phải bảo đảm các yêu cầu: phù hợp về chuyên môn khoa học; có đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia đủ về số lượng, tốt về năng lực khoa học và kinh nghiệm nghiên cứu; có kinh nghiệm và phương thức quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; có kinh nghiệm và khả năng liên kết với các địa phương, tổ chức khoa học trong nước và ngoài nước. Đó là một trong số những điều kiện rất quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện các đề tài nghiên cứu của Chương trình.
Thứ hai, lựa chọn nhà khoa học làm Chủ nhiệm đề tài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để có thể lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt công việc nghiên cứu của đề tài, Chủ nhiệm phải là người có chuyên môn và am hiểu sâu sắc, phong phú về lĩnh vực liên quan đến đề tài; có khả năng tập hợp, sử dụng hợp lý, phát huy được năng lực khoa học, chuyên môn của đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia, nhân viên tham gia các khâu công việc của đề tài; có phương pháp và kinh nghiệm trong việc tổ chức, triển khai và quản lý quá trình thực hiện các công việc, công đoạn nghiên cứu; có năng lực làm việc theo nhóm, năng lực thiết lập và duy trì quan hệ làm việc với các đối tác khoa học, v.v..
Thứ ba, lựa chọn, tập hợp đội ngũ cán bộ tham gia đề tài và tổ chức, quản lý họ trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, công việc của đề tài. Có 2 loại cán bộ tham gia công việc của mỗi đề tài: các nhà khoa học, chuyên gia thực hiện các nội dung nghiên cứu; cán bộ làm thư ký hành chính chịu trách nhiệm về chi tiêu, thủ tục giải ngân và kế hoạch chung của đề tài. Các nhà khoa học, chuyên gia phải am hiểu sâu sắc về lĩnh vực chuyên môn, có kinh nghiệm nghiên cứu các đề tài khoa học từ cấp bộ trở lên. Hơn nữa, đó phải là những người nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc, có phương pháp công tác tốt, có khả năng làm việc nhóm và có điều kiện về thời gian để thực hiện các công việc nghiên cứu được giao cho. Cán bộ làm thư ký hành chính phải là người hiểu biết hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội, nắm được các chính sách, chế độ Nhà nước về thu, chi tài chính, có khả năng làm việc với các cơ quan có lien quan về quản lý tài chính.
Đây là chức năng, nhiệm vụ của các Chủ nhiệm đề tài. Ban Chủ nhiệm Chương trình không cần và không thể trực tiếp làm thay các Chủ nhiệm đề tài. Tuy nhiên, Ban Chủ nhiệm Chương trình có thể hỗ trợ cho Chủ nhiệm đề tài bằng cách: Tư vấn về phương pháp, các tiêu chí, các điều kiện để lựa chọn, giới thiệu những nhà khoa học, chuyên gia có năng lực, có điều kiện tham gia để Chủ nhiệm đề tài lựa chọn; tư vấn cho Chủ nhiệm đề tài về phương pháp phân công thực hiện, quản lý công việc, tiến độ, đánh gia chất lượng các kết quả nghiên cứu.
3. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tổ chức, quản lý Chương trình
Cùng với việc xác định định hướng nội dung, xây dựng hệ thống các đề tài, lựa chọn cơ quan chủ trì, lựa chọn chủ nhiệm và lực lượng tham gia thực hiện đề tài thì công tác tổ chức, quản lý cũng là một yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm chất lượng, hiệu quả của Chương trình. Việc tổ chức, quản lý Chương trình gồm nhiều khâu công việc với nội dung, yêu cầu khác nhau, song cơ bản gồm các công việc sau: (1) Xây dựng quy chế, kế hoạch hoạt động của Chương trình; (2) Xây dựng, duy trì và bảo đảm tốt mối quan hệ giữa Ban Chủ nhiệm Chương trình với Thường trực Hội đồng, Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan, tổ chức có liên quan; (3) Tổ chức đấu thầu, xét tuyển, lựa chọn các chủ nhiệm đề tài; (4) Tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tế trong và ngoài nước; (5) Tổ chức kiểm tra định kỳ; (6) Báo cáo chắt lọc kết quả nghiên cứu; (7) Quản lý tài chính; (8) Tổ chức nghiệm thu, đánh giá kết quả các đề tài; (9) Tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chương trình. Trên cơ sở các yêu cầu đặt ra với Chương trình trong điều kiện mới hiện nay, cần rút kinh nghiệm công tác tổ chức quản lý Chương trình các nhiệm kỳ trước, đổi mới , nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn để quản lý Chương trình đạt chất lượng, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu đặt ra.
(1) Xây dựng quy chế, quy định, chế độ làm việc, kế hoạch hoạt động của Chương trình.
Ban Chủ nhiệm Chương trình phải phối hợp với Bộ khoa hoc và Công nghệ cụ thể hóa định hướng chung của Bộ Chính trị về Chương trình, xây dựng Quy chế tổ chức, quản lý Chương trình một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với yêu cầu, điều kiện đặc thù của Chương trình, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện Chương trình. Trong giai đoạn sắp tới, Quy chế cần tiếp tục xác định vai trò, trách nhiệm Hội đồng Lý luận Trung ương là Bộ chủ quản của Chương trình, xác định rõ hơn mối quan hệ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình thực hiện Chương trình. Hội đồng Lý luận Trung ương phải tiếp tục cụ thể hóa Quy chế trên thành các quy định về hoạt động của Ban chủ nhiệm Chương trình và các tổ chức trực thuộc, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các thành viên Ban Chủ nhiệm. Cần thành lập và xác định rõ trách nhiệm của Văn phòng Chương trình là cơ quan trực thuộc Ban Chủ nhiệm Chương trình, phục vụ trực tiếp cho Ban Chủ nhiệm Chương trình trong các hoạt động tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình, đồng thời xây dựng Quy chế hoạt động của Văn phòng Chương trình thể hiện rõ những vấn đề và nguyên tắc đó.
Ban Chủ nhiệm Chương trình có trách nhiệm tổ chức xây dựng Quy chế tài chính của Chương trình và các đề tài phù hợp với các quy định hiện hành của Nhà nước, tổ chức tập huấn hướng dẫn và kiểm tra thực hiện một cách chặt chẽ. Đặc biệt, cần kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các thủ tục giải ngân gắn liền với việc thực hiện từng nhiệm vụ nghiên cứu của các đề tài, không để chậm chễ về thủ tục ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân chung của các đề tài.
Văn phòng Chương trình có trách nhiệm giúp ban Chủ nhiệm Chương trình xây dựng kế hoạch tổng thể hoạt động của Chương trình trong cả nhiệm kỳ 5 năm và kế hoạch công tác hằng năm. Trên cơ sở đó, Văn phòngChương trình cụ thể hóa kế hoạch hằng quý, giúp cho Ban Chủ nhiệm Chương trình chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.
(2) Xây dựng, duy trì và bảo đảm tốt mối quan hệ giữa ban Chủ nhiệm Chương trình với Thường trực Hội đồng, Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Chương trình không thể tổ chức thực hiện thuận lợi và có hiệu quả nếu không xác định rõ cơ chế làm việc và duy trì mới quan hệ công tác chặt chẽ, thường xuyên với Thường trực Hội đồng, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan, tổ chức đảng, nhà nước lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực liên quan về khoa học - công nghệ, tài chính và hành chính. Ban Chủ nhiệm Chương trình chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Thường trực Hội đồng, được Hội đồng lập ra để thực hiện một nhiệm vụ chính trị của Hội đồng Lý luận Trung ương - Chương trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị. Ban Chủ nhiệm Chương trình làm việc trực tiếp với các đơn vị chứ năng của Bộ Khoa học và Công nghệ, Văn phòng Trung ương và các cơ quan khác theo trách nhiệm do Thường trực Hội đồng xác định. Các chế độ, chức năng và trách nhiệm đó cần được xác định rõ trong quy chế, quy định của Hội đồng và Ban Chủ nhiệm Chương trình, trở thành cơ sở cho việc thực hiện.
(3) Tổ chức xác định mục tiêu, yêu cầu, nội dung đề tài và tuyển chọn các chủ nhiệm đề tài
Trước khi tiến hành truyển chọn các chủ nhiệm đề tài cần phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu và nội dung của mỗi đề tài. Đây là khâu công việc quan trọng, có ý nghĩa chi phối đối với việc tổ chức thực hiện và hiệu quả của mỗi đề tài. Để xác định được đúng, trúng mục tiêu, yêu cầu, nội dung nghiên cứu của mỗi đề tài, cần mời được các nhà khoa học, chuyên gia có chuyên môn sâu, có nhiều kinh nghiệm thực tế để đề xuất. Các ý kiến đề xuất phải được trao đổi kỹ trước khi chính thức xác định mục tiêu, yêu cầu, nội dung nghiên cứu cho mỗi đề tài cụ thể.
Việc tuyển chọn các chủ nhiệm đề tài thông qua một quy trình chặt chẽ gồm các khâu: xây dựng và công bố điều kiện mời thầu; chọn lựa, xác định các nhà khoa học, chuyên gia đủ điều kiện, khả năng tham gia đấu thầu; xém xét hồ sơ thầu (mở thầu); thành lập các hội đồng tư vấn chấm thầu, hội đồng tư vấn giao trực tiếp đối với các đề tài quốc phòng, an ninh hay có yêu cầu đặc biệt… Trên cơ sở điều kiện mời thầu trong chương trình giai đoạn 2016-2020, cần nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện, bảo đảm chặt chẽ về điều kiện theo yêu cầu, tránh để những đơn vị, các nhân không đủ điều kiện có thể tham gia đấu thầu và trúng thầu. Việc chọn các chuyên gia tham gia hội đồng xét thầu phải là những chuyên gia, nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, những người công bằng, khách quan. Kiên quyết chống việc các ứng viên gặp gỡ ủy viên hội đồng xét thầu để tìm kiếm sự ủng hộ. Bảo đảm nguyên tắc, tất cả các bước tuyển chọn, thẩm định. Đấu thầu phải được tổ chức quản lý chặt chẽ, đúng quy chế, công khai, minh bạch.
(4) Tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tế
Nghiên cứu khảo sát thực tế trong và ngoài nước là một hoạt động không thể thiếu của Ban Chủ nhiệm Chương trình nhằm các mục tiêu: Gắn liền nghiên cứu lý luận với thực tiễn đất nước, nắm bắt tình hình thực tiễn để chỉ đạo hoạt động nghiên cứu của các đề tài, phát hiện các vấn đề cần thiết phải tổ chức nghiên cứu làm rõ về lý luận. Ban Chủ nhiệm Chương trình phải xây dựng chương trình nghiên cứu khảo sát thực tế trong nước và ngoài nước cho cả 5 năm, căn cứ vào đó để thực hiện hoặc có những bổ sung, thay đổi tùy theo tình hình cụ thể. Việc nghiên cứu, khảo sát trong nước cần nhằm vào các địa phương điển hình về xây dựng, phát triển, các mô hình tốt về thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các cuộc nghiên cứu, khảo sát nước ngoài cần lựa chọn các quốc gia tiêu biểu về điều kiện, xu thế phát triển, có những thành tựu nổi bật về một lĩnh vực, có tầm ảnh hưởng lớn đối với khu vực hay thế giới. Các cuộc nghiên cứu, khảo sát thực tế trong hay ngoài nước cũng phải chuẩn bị cẩn thận các nội dung công việc như: Các vấn đề về yêu cầu, điều kiện và nội dung sẽ nghiên cứu, khảo sát; kế hoạch chi tiết cho toàn chuyến đi; các đối tác làm việc; nội dung làm việc với các đối tác; các điều kiện cần và đủ bảo đảm cho chuyến đi đạt được mục tiêu đề ra.
Chọn lựa trưởng đoàn, cán bộ tham gia mỗi chuyến đi phải bảo đảm về chuyên môn, sự hiểu biết, sức khỏe, phương pháp làm việc, các điều kiện khác tùy theo đặc điểm tình hình của nơi đến. Cần có sự phân công, phân nhiệm cụ thể cho mỗi thành viên trong đoàn để mỗi người chủ động thực thi công việc được giao. Trong quá tình và sau mỗi chuyến đi phải chuẩn bị để xây dựng báo cáo thu hoạch kết quả chuyến đi bảo đảm chất lượng.
(5) Kiểm tra định kỳ
Theo kinh nghiệm của Chương trình KX 04/16-20, Ban Chủ nhiệm Chương trình tổ chức kiểm tra 6 tháng/lần đối với từng đề tài, Hoạt động kiểm tra định kỳ 6 tháng có ý nội dung: Giám sát thúc đẩy việc thực hiện các đề tài theo tiến độ kế hoạch; kịp thời giúp các đề tài giải quyết các khó khăn vướng mắc về triển khai nghiên cứu và các thủ tục quản lý; hỗ trợ kết nối các đề tài trong Chương trình với nhau và với các cơ quan nghiên cứu khác trong hoạt động nghiên cứu; hỗ trợ các ban chủ nhiệm đề tài giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Ngoài các đợt kiểm tra theo định kỳ, Ban Chủ nhiệm Chương trình có thể tổ chức những cuộc kiểm tra đột xuất đối với những đề tài có vấn đề phức tạp.
Các hoạt động kiểm tra, giám sát trên đây rất cần thiết và có ý nghĩa tích cực đối với việc thực hiện Chương trình, cần phải được thực hiện có kế hoạch, bài bản hơn, một cách nghiêm túc và chặt chẽ hơn.
(6) Báo cáo chắt lọc kết quả nghiên cứu
Cũng theo kinh nghiệm của Chương trình KX 04/16-20, định kỳ 6 tháng/lần, các đề tài phải có báo cáo chắt lọc về kết quả nghiên cứu trong kỳ. Báo cáo chắt lọc định kỳ 6 tháng/lần có mục tiêu kép: Thứ nhất, thu thập các kết quả nghiên cứu để xây dựng báo cáo chung của Chương trình phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Trung ương Đảng; thứ hai, thong qua báo cáo, Ban Chủ nhiệm Chương trình có thể đánh giá được chất lượng nghiên cứu, tiến độ thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, đồng thời có cơ sở để nhắc nhở, đôn đốc, cảnh báo ban chủ nhiệm các đề tài về tiến độ và yêu cầu về chất lượng nội dung nghiên cứu. Đây cũng là một kinh nghiệm hiệu quả trong tổ chức quản lý các đề tài của Chương trình cần được phát huy và làm tốt hơn trong giai đoạn tới.
(7) Quản lý tài chính
Nói chung, quản lý tài chính vẫn là một khâu công việc rất khó khăn, phức tạp đối với Chương trình và các đề tài. Có đến quá nửa số đề tài trong thời đoạn 2016-2020 gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi thực hiện các công việc về quy trình, thủ tục, chứng từ tài chính. Một số đề tài đã nghiệm thu nhà nước cả năm rồi nhưng chưa thể hoàn tất thủ tục giải ngân. Tình hình đó càng đòi hỏi phải quan tâm, tạo mọi điều kiện để làm tốt công tác quản lý tài chính trong giai đoạn tới.
Để có sự thống nhất chung ngay từ đầu về quản lý tài chính của Chương trình và các đề tài, Ban Chủ nhiệm Chương trình cần phải xây dựng Quy chế quản lý tài chính của Chương trình, bám sát các quy định, chế độ của Nhà nước được xác định trong các văn bản pháp quy của Bộ tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ (Thông tư 27 và Thông tư 55 của liên bộ Tài chính - Khoa học và Công nghệ) và các văn bản, hướng dẫn của Văn phòng Trung ương liên quan đến việc quản lý Chương trình. Trên cơ sở Quy chế quản lý tài chính của Chương trình, Văn phòng Chương trình có trách nhiệm hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ, cụ thể việc xây dựng quy chế chi tiêu của từng đề tài. Đồng thời, Văn phòng Chương trình chịu trách nhiệm trước ban Chủ nhiệm Chương trình trong việc hướng dẫn chu đáo, kịp thời việc thực hiện quản lý tài chính ở các đề tài; giúp các đề tài tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong tạm ứng, thanh toán, quyết toán; kiểm tra, giám sát chặt chẽ, bảo đảm tiến độ giải ngân của các đề tài theo sát tiến độ thực hiện các nội dung nghiên cứu; phát hiện kịp thời những khó khăn, trục tặc về phương thức quản lý, về tiến độ giải ngân quá chậm, về những sai sót, hạn chế của các đề tài về quản lý tài chính, báo cáo để ban Chủ nhiệm Chương trình kịp thời giải quyết. Đây là khâu công việc quan trọng, cần phải được quan tâm chặt chẽ, đổi mới cách thức lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chủ nhiệm đề tài để thực hiện theo đúng yêu cầu.
(8) Tổ chức nghiệm thu các đề tài
Nghiệm thu kết quả nghiên cứu phải được quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức có bài bản, khoa học ở các mức độ: Nghiệm thu đánh giá kết quả nghiên cứu từng nội dung thành phần; nghiệm thu cấp cơ sở (tự đánh giá) kết quả tổng hợp của đề tài; nghiệm thu đánh giá cấp nhà nước đối với toàn bộ kết quả và các sản phẩm của đề tài.
Nghiệm thu đánh giá kết quả nghiên cứu từng nội dung thành phần của đề tài là trách nhiệm của các ban Chủ nhiệm đề tài. Tùy theo cách thức quản lý, đặc điểm của mỗi đề tài mà các ban Chủ nhiệm đề tài có cách thức nghiệm thu, đánh gia khác nhau về kết quả các nội dung thành phần, tức là các sản phẩm trung gian của đề tài. Tuy nhiên, chỉ só quản lý chặt chẽ chất lượng các nghiêm cứu thành phần mới bảo đảm chất lượng, hiệu quả chung của đề tài. Vì thế, Chủ nhiệm các đề tài không nên bỏ qua hoặc coi thường khâu công việc này.
Nghiệm thu cấp cơ sở (tự đánh giá) cũng là trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi Ban Chủ nhiệm đề tài. Ban Chủ nhiệm Chương trình giao cho cơ quản chủ trì và Chủ nhiệm đề tài chủ động tổ chức hội đồng tự đánh giá kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng nghiên cứu, Ban Chủ nhiệm Chương trình cần phải giám sát, cho ý kiến tư vấn về việc lựa chọn các thành viên tham gia tham gia hội đồng tự đánh giá trước khi cơ quan chủ trì ra quyết định. Trước khi các đề tài tổ chức tự đánh giá, Ban Chủ nhiệm Chương trình phải kiểm tra, bảo đảm việc thực hiện xong các nhiệm vụ nghiên cứu, các sản phẩm của đề tài phải đầy đủ theo yêu cầu đặt hàng, tiến độ giải ngân phải đạt yêu cầu theo quy định của Chương trình. Các cuộc tự đánh giá phải thực sự trở thành buổi sinh hoạt khoa học góp ý cho Ban Chủ nhiệm đề tài một cách toàn diện, nhất là những nội dung nghiên cứu cần phải được tiếp tục sửa chữa, hoàn thiện. Ban Chủ nhiệm Chương trình phải kiểm tra kết quả tự đánh giá của mỗi đề tài để tiếp tục kiểm tra việc tiếp thu các ý kiến, chính sửa, hoàn thiện các báo cáo kết quả nghiên cứu.
Nghiệm thu cấp quốc gia không đơn thuần là thủ tục hành chính mà phải là sự đánh giá khoa học, đầy đủ, toàn diện kết quả nghiên cứu, giúp Ban Chủ nhiệm đề tài chính sửa, nâng cấp hoàn thiện báo cáo và các sản phẩm nghiên cứu, bảo đảm chất lượng, đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Ban Chủ nhiệm Chương trình cần có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu nội dung công việc, các sản phẩm cụ thể, thể thức làm việc, tiêu chí đánh giá và các điều kiện cần thiết. Ban Chủ nhiệm Chương trình kiểm tra kỹ các sản phẩm của đề tài, các văn bản, thủ tục hành chính... các điều kiện cần thiết trước khi dự kiến lập hội đồng nghiệm thu trình Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương quyết định. Nghiệm thu cấp quốc gia phải kết hợp đánh gia về nội dung với đánh giá về tiến độ giải ngân. Việc lựa chọn các thành viên hội đồng nghiệm thu cần phải thận trọng, khách quan, chọn đúng các nhà khoa học, chuyên gia phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu của từng đề tài. Các thành viên ban chủ nhiệm Chương trình phải trực tiếp theo dõi, kiểm tra, giám sát các cuộc nghiệm thu để bảo đảm sự đầy đủ, đúng yêu cầu đối với các sản phẩm, nghiêm túc, công bằng trong đánh giá và việc chuyển giao kết quả nghiên cứu đúng địa chỉ, mang lại hiệu quả cao nhất.
(9) Tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chương trình
Đối với từng đề tài, Ban Chủ nhiệm Chương trình cần phải hướng dẫn các Ban Chủ nhiệm tổng kết, đánh giá kết quả nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các sản phẩm của đề tài, nhất là báo cáo tổng quan để nộp cho Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ xác nhận, cấp giấy chứng nhận bản quyền; chuyển giao cho các cơ quan thụ hưởng kết quả nghiên cứu; chuyển giao các sản phẩm về Ban Chủ nhiệm đề tài theo đúng quy định và cam kết. Ban Chủ nhiệm Chương trình phải tiến hành các thủ tục thanh toán, quyết toán hợp đồng và ra quyết định thanh lý hợp đồng nghiên cứu khoa học theo quy định của Nhà nước.
Đối với Chương trình, công tác tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chương trình có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong những yếu tố chi phối chất lượng, bảo đảm hiệu quả thực tế của Chương trình. Yêu cầu đặt ra cho việc tổng kết là: Tổng hợp kết quả nghiên cứu; xem xét chặt chẽ việc chuyển giao kết quả nghiên cứu cho các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tiếp nhận, được quyền thụ hưởng; đánh giá hiệu quả của Chương trình về đóng góp cho xây dựng văn kiện, hoạch định đường lối của Đảng, cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng; đánh giá toàn diện về phương pháp, cách thực tổ chức thực hiện Chương trình. Có thể nói, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Chương trình là kết thúc giai đoạn nghiên cứu để chuyển sang một giai đoạn mới, trạng thái mới của Chương trình - giai đoạn, trạng thái kết quả nghiên cứu của Chương trình đi vào thực tiễn cuộc sống, tham góp nguồn lực vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Tóm lại, việc đổi mới, nâng cao chất lượng của Chương trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị là yêu cầu khách quan, cần thiết và cấp bách, xuất phát từ nhiệm vụ quan trọng mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương đặt ra cho Chương trình và trách nhiệm của Hội đồng Lý luận Trung ương. Để nâng cao chất lượng Chương trình cần phải đổi mới đồng bộ, mạnh mẽ nhiều mặt công việc, trong đó có ý nghĩa quan trọng nhất là 3 khâu công việc: Định hướng nội dung nghiên cứu; lựa chọn, tổ chức lực lượng nghiên cứu; và công tác tổ chức, quản lý Chương trình.
GS.TS Tạ Ngọc Tấn
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương