1. Cương lĩnh - văn kiện có giá trị nền tảng chinh trị, tư tưởng, tổ chức và là kim chỉ nam hành động của các đảng cộng sản
Sự hình thành các giai cấp, tầng lớp xã hội tất yếu dẫn đến sự ra đời những đảng phái hoặc các tổ chức chính trị đại diện trong cuộc đấu tranh, cạnh tranh lợi ích, quyền lực. “ Mỗi chính đảng hoặc tổ chức chính trị để có chính danh, định hướng hoạt động cho các cho các thành viên của mình và tập hợp, tổ chức quần chúng thường cần phải có cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh ( như tuyên ngôn, tuyên bố, lời kêu gọi...), trong đó trình bày những quan điểm cơ bản về mục đích, đường lối, nhiệm vụ, cách thức hoạt động cho một giai đoạn lích sử nhất đinh”[1].
Cương lĩnh là văn bản kết tinh trí tuệ, phản ánh năng lực của một chính đảng. Xuất hiện trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử khác nhau, với những mục đích chính trị cụ thể khác nhau, cương lĩnh chính trị của các chính đảng có những giá trị cụ thể khác nhau. Song nhìn một cách tổng quát, giá trị của một cương lĩnh chính trị, ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tính khoa học, tính khả thi, thường thể hiện trên 3 bình diện cơ bản:
Thứ nhất, cương lĩnh tạo cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn đảng;
Thứ hai, cương lĩnh là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng, phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu, lý tưởng của đảng;
Thứ ba, cương lĩnh là văn bản quan trọng, cao nhất của đảng có giá trị định hướng, chỉ đạo chiến lược to lớn, toàn diện đối với sự nghiệp phát triển của một đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị của giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động. Trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, Đảng Cộng sản đặc biệt coi trọng việc xây dựng, thực hiện cương lĩnh chính trị.
Vào giữa thế kỷ XIX, khi phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước phương Tây có những chuyển biến mới, C. Mác và người bạn thân thiết của ông - F. Ăngghen, nhận thức sâu sắc rằng: “ Hiện nay đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, ý đồ của mình và phải có một Tuyên ngôn của Đảng của mình để đáp lại một câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”[2]. Hai ông đã dành tâm huyết, trí tuệ viết bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848. Đây là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Liên đoàn những người cộng sản do C. Mác sáng lập và cũng là cương lĩnh chính trị đầu tiên của những người cộng sản trên toàn thế giới. Bản Cương lĩnh này đã trình bày sáng tỏ mục tiêu, chương trình hành động của những người cộng sản; kêu gọi giai cấp vô sản toàn thế giới liên hiệp lại, đấu tranh lật đổ trật tự xã hội tư bản để xây dựng một trật tự xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội không còn áp bức, bóc lột, mọi người lao động được giải phóng, được tự do, bình đẳng. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trở thành ngọn cờ tư tưởng, chính trị của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế; trở thành tác phẩm bất hủ mà giá trị to lớn của nó còn mãi với thời gian.
Là người kế thừa, phát triển xuất sắc học thuyết của C. Mác trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn đề quốc chủ nghĩa, V.I. Lê nin đặc biệt chú trọng công tác hoạch định đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản, nhât là xây dựng cương lĩnh. Người nhiều lần nhấn mạnh, không thể có một đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng lý luận đó vào những phương pháp đấu tranh và những phương sách hành động của họ. Người nhấn mạnh, Đảng Cộng sản lãnh đạo trước hết phải bằng cương lĩnh, đường lối; “ Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh”[3]. Trong quá trình lãnh đạo Đảng Bôn - xê - vích Nga tiến hành cuộc đấu tranh giành và xây dựng chính quyền cách mạng, V.I. Lê nin đã dành công sức xây dựng nhiều văn bản có tính chất cương lĩnh, nổi bật là Luận cương tháng Tư ( ngày 16 tháng 4 năm 2017 ) và Cương lĩnh về dân tộc. Những văn kiện tầm cương lĩnh của V.I. Lê nin có giá trị và tầm ảnh hưởng to lớn không chỉ đối với cách mạng Nga mà đối với phong trào cách mạng toàn thế giới.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà lý luận - hành động thiên tài, từ rất sớm và nhất quán luôn đặc biệt coi trọng công tác lý luận nói chung, công tác xây dựng và thực hiện cương lĩnh chính trị ( mà Người gọi là Đảng Cương ) nói riêng. Người xác định:
“ Đảng cương là văn kiện nó qui định tính chất của Đảng, mục đích đấu tranh và đường lối cách mạng của Đảng, phương pháp lãnh đạo của Đảng”[4]. Người nhấn mạnh, Đảng Cương là lý luận nền tảng, Đảng dùng để lãnh đạo cách mạng. Nó đảm bảo cho chính trị thống nhất, tư tưởng thống nhất của Đảng. Vì vậy mỗi đảng viên nhất định phải thừa nhận và theo đúng Đảng Cương. Nếu không vậy thì tư tưởng rối loạn, ý kiến sẽ lung tung. Đảng sẽ yếu đuối, rời rạc, không làm gì được.
Dưới ngọn cờ tư tưởng và sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi mới thành lập đến nay luôn chú trọng xây dựng và lãnh đạo thực hiện các cương lĩnh chính trị phù hợp với điều kiện, yêu cầu của từng thời kỳ, gia đoạn cách mạng. Trong 89 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành 5 bản cương lĩnh:
- Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt ( tháng 2 năm 1930 );
- Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương ( tháng 10 năm 1930 );
- Chính cương Đảng Lao động Việt Nam ( tháng 2 năm 1951 );
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( tháng 6 năm 1991 )
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung, phát triển năm 2011 ).
Mỗi cương lĩnh của Đảng được ban hành, thực hiện trong một hoàn cảnh lích sử cụ thể và đều trở thành nền tảng tư tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, của cách mạng Việt Nam; trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân đấu tranh, lao động, sáng tạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành những thắng lợi vĩ đại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,phát triển năm 2011 ) được xây dựng trên cơ sở tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, trực tiếp là tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 25 năm công cuộc đổi mới, dự báo xu thế phát triển của thế giới, của đất nước, đề ra mục tiêu, phương hướng và những định hướng lớn phát triển đất nước trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX với tầm nhìn đến giữa thế kỷ. Thực tiễn 10 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn và giá trị to lớn, toàn diện về tư tưởng, lý luận, thực tiễn của Cương lĩnh 2011.
2. Giá trị tư tưởng, lý luận của Cương lĩnh năm 2011
(1) Ngọn cờ tập hợp, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
Cuối những năm 80 đầu năm 90 của thế kỷ trước, vào lúc mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những người cộng sản trên toàn thế giới đứng trước cuộc chấn động chính trị quốc tế chưa từng có, một bộ phận không nhỏ hoang mang, giao động, mất phương hướng. Đúng vào thời điểm đó, năm 1991, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh là lời tuyên bố đanh thép về lập trường kiên định của Đảng - kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; kiên định đường lối đổi mới. Bản lĩnh và sự kiên định của Đảng là nền tảng tạo nên sự thống nhất trong toàn đảng, sự vững vàng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Sự đồng thuận xã hội, trở thành sức mạnh tư tưởng, động viên toàn đảng, toàn dân đoàn kết, phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh ( bổ sung, phát triển năm 2011 ) được công bố tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Cương lĩnh được ban hành trong bối cảnh phần lớn các quốc gia vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu và trong 10 năm qua vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn do tác động nhiều mặt về kinh tế, xã hội sau khủng hoảng. Những nhận định của Cương lĩnh 2011 về tính chất của thế giới đương đại phản ánh xu thế vận động khách quan: “ Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bất công (…). Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ qyết định vận mện của chủ nghĩa tư bản”[5]; “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo qui luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[6].
Những nhận định của Cương lĩnh 2011 thể hiện niềm tin vững chắc của Đảng trên cơ sở khoa học, thực tiễn về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Niềm tin của Đảng tạo thành niềm tin của đại đa số cán bộ, đảng viên, nhân dân; khắc phục cơ bản sự mơ hồ về sự thay đổi bản chất và tiền đồ của chủ nghĩa tư bản, sự giao động, hoài nghi về tương lai của chủ nghĩa xã hội. Đây là cơ sở quan trọng góp phần củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.
Cương lĩnh 2011 được bổ sung, phát triển trên cơ sở nghiên cứu lý luận với tư duy đổi mới và sự tổng kết thực tiễn đất nước qua hơn 20 năm đổi mới, thực tiễn thế giới với nhiều động thái, xu thế vận động mới đã làm sáng tỏ hơn những đặc trưng cơ bản của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta phấn đấu xây dựng, những mục tiêu, phương hướng, những định hướng lớn trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống đất nước với tầm nhìn trung hạn, dài hạn. Cương lĩnh 2011 và những nghị quyết của Đảng từ Đại hội XI, XII đến nay khẳng định sự vững vàng của Đảng, sự đúng đắn của đường lối đổi mới, thật sự trở thành ngọn cờ tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Một mặt, Cương lĩnh củng cố, tăng cường sức mạnh đoàn kết, quyết tâm chính trị, tinh thần lao động, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, mặt khác làm tăng thêm sức mạnh đề kháng của cán bộ, đảng viên, nhân dân trước những âm mưu, hành động xuyên tạc, kích động, chống phá chủ nghĩa xã hội, chống phá Đảng của các thế lực thù địch, phản động. Trận địa tư tưởng được giữ vững; sức mạnh tinh thần được tăng cường. Đó chính là cội nguồn và động lực tạo nên những thành tựu to lớn, toàn diện của đất nước trong gần 10 năm qua.
(2) Nền tảng tiếp tục phát triển, hoàn thiện lý luận
Cương lĩnh 2011 trình bày những vấn đề căn cốt nhất, những nguyên tắc và định hướng căn bản nhất trong đường lối xây dựng, bảo vệ đất nước trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI. Cương lĩnh chính là nền tảng lý luận chính trị để Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương xây dựng, bảo vệ đất nước phù hợp với tình hình, yêu cầu mới, qua đó, tiếp tục làm sáng rõ hơn tư tưởng, tinh thần của Cương lĩnh. Từ năm 2011 đến nay, Đại hội XI, XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trên cơ sở quán triệt, vận dụng sáng tạo Cương lĩnh 2011, đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, qui định, quyết định, kết luận nhằm cụ thể hóa, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng. Những nhận thức, quan điểm, định hướng cụ thể trong các văn kiện Đảng thời gian qua tuy rất toàn diện, phong phú, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhưng không trái, không xa rời tư tưởng chỉ đạo, định hướng lớn của Cương lĩnh mà luôn quán triệt, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời không ngừng cụ thể hóa, làm phong phú, sáng rõ, sâu sắc hơn nội dung của Cương lĩnh.
Trước hết, Cương lĩnh là nền tảng lý luận để Đảng ta tiếp tục phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhận thức về bối cảnh quốc tế trong thế giới đương đại, từ những dự báo, nhận định tổng quát, chính xác được bày trong Cương lĩnh, Đảng đã tiếp tục cập nhật những động thái, xu hướng, diễn biến mới ở khu vực, quốc tế, nhất là sự điều chỉnh chiến lược và sự cạnh tranh, đấu tranh quyết liệt giữa các nước lớn; sự xuất hiện, gia tăng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cường quyền áp đặt, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ…; sự gia tăng các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống; sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, phân tích những tác động thuận, không thuận đến nước ta để chủ động ứng phó.
Trong những năm qua, 8 đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh 2011 đã đặt cơ sở phương pháp luận để Đảng nhận thức sâu sắc hơn nội hàm của từng đặc trưng và mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa các đặc trưng. Nổi bật là nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, về vai trò làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân; về về vị trí trung tâm của kinh tế, về tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, chú trọng chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế; về vai trò nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh của văn hóa, vai trò chủ thể, động lực phát triển của con người; về vai trò, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; về sự gắn bó dân tộc và nhân loại, quốc gia và quốc tế. Đảng cũng nhận thức sâu sắc hơn thời cơ, thách thức đối với đất nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời có cơ sở để tính toán các bước đi, thiết kế các hình thức tổ chức kinh tế, xã hội quá độ phù hợp với yêu cầu, điều kiện của từng thời đoạn.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh là định hướng quan trọng để Đảng, qua Đại hội XI,XII và các hội nghị Trung ương ( đặc biệt là các hội nghị Trung ương 5,7,8 khóa XII ) tập trung nghiên cứu, cụ thể hóa mục tiêu, tiêu chí, chỉ tiêu phấn đấu qua các chiến lược phát triển 10 năm, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI , phấn đấu đến 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa.
Gần 10 năm qua, bám sát 8 phương hướng cơ bản nêu trong Cương lĩnh, Đảng đã cụ thể hóa, bổ sung, làm sáng tỏ hơn phương hướng phát triển đất nước qua từng chặng đường phát triển. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được tiếp cận theo tư duy mới gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nhấn mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chú trọng chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững. Nhận thức về kinh tế thị trường ngày càng được hoàn thiện theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập, không ngừng hoàn thiện thể chế, bảo đảm độc lập, tự chủ đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Phương hướng xây dựng văn hóa, con người; phát triển xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực hiện đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Đảng... được cụ thể hóa, bổ sung về nhận thức, ngày càng hoàn thiện, phong phú hơn. Đặc biệt, quan hệ gắn bó giữa 8 phương hướng cơ bản đã được Đảng nhận thức một cách khoa học theo tư duy tổng thể: “Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[7].
Cương lĩnh 2011 nhấn mạnh, trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn giữa: đổi mới, ổn định và phát triển; đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghia; độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ[8]. Đây là sự khái quát ở tầm lý luận những vấn đề cốt lõi phản ánh qui luật vận động của cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới. Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh, trên cơ sở bám sát thực tiễn đổi mới, Đảng nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn ý nghĩa đặc biệt quan trọng của việc nhận thức, giải quyết các mối quan hệ lớn, đồng thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng điều chỉnh quan hệ “ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các qui luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” và bổ sung mối quan hệ “ giữa nhà nước và thị trường”[9] ( Hội nghị Trung ương 5 khóa XII bổ sung quan hệ này thành “ giữa nhà nước và thị trường, xã hội”).
Cương lĩnh là cơ sở lý luận để Đảng cụ thể hóa, từng bước hoàn thiện định hướng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng hệ thống chính trị, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trên cơ sở những định hướng lớn nêu trong Cương lĩnh, gần 10 năm thực hiện, Đảng đã bổ sung, cụ thể hóa định hướng phát triển các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước gắn với định hướng xây dựng Đảng, hệ thống chính trị.
Về kinh tế, xác định rõ hơn nội hàm, đặc trưng, cơ cấu, quan hệ bên trong và định hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định đó là một loại hình kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện Việt Nam, vừa tuân thủ đầy đủ qui luật thị trường vừa coi trọng, tăng cường các thành tố định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ quá trình phát triển, phù hợp với điều kiện đất nước trong từng giai đoạn. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thống nhất, bao gồm nhiều chế độ sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng. Nhận thức đúng và giải quyết hiệu quả quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội; hình thành và vận hành đồng bộ các loại thị trường, các yếu tố thị trường, hướng tới phát triển kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành, phát triển gắn liền với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư duy đổi mới, nổi bật là đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ phát triển theo chiều rộng dựa trên xuất khẩu tài nguyên thô và nguồn nhân lực giá rẻ sang kết hợp phát triển hợp lý chiều rộng và chiều sâu, chủ đạo là phát triển theo chiều sâu, chú trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng khoa học, công nghệ, sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng và nền quản trị tiên tiến. Cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế, cơ cấu ngành và cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là cơ cấu lại đầu tư, doanh nghiệp nhà nước, thị trường tài chính, tín dụng; huy động, phát huy mọi nguồn lực trong nước, ngoài nước; thực hiện 3 đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực, hệ thống kết cấu hạ tầng; phát triển nhanh, bền vững; xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Về văn hóa, xã hội, con người: những định hướng nêu trong Cương lĩnh là cơ sở quan trọng để Đại hội XI, XII và các hội nghị chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, XII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, phát triển.
Vai trò, đặc trưng, phương hướng phát triển của văn hóa, con người Việt Nam được xác định đầy đủ, rõ nét hơn. Văn hóa là mục tiêu, nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực phát triển. Xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với những đặc trung: dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; chú trọng xây dựng môi trường văn hóa; phát triển các lĩnh vực văn hóa; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo; đột phá cơ chế, chính sách phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; làm cho văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của dời sống xã hội, nhất là chính trị, kinh tế - xây dựng văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế. Con người là chủ thể, là trung tâm của chiến lược phát triển; phát triển toàn diện con người Việt Nam về tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, thể chất, về đạo đức, nhân cách, lối sống với các đặc tính cơ bản yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người; mọi hoạt động văn hóa đều phải hướng tới tới xây dựng, phát triển con người.
Những định hướng chính sách xã hội được xác định trong Cương lĩnh 2011 là cơ sở để Đảng tiếp tục hoàn thiện các định hướng phát triển an sinh xã hội, bảo đảm phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải cách tiền lương, giải quyết việc làm, thu nhập của người lao động; hoàn thiện chính sách dân tộc, tôn giáo,chính sách dân số... từng bước bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ công dân. Phát triển định hướng của Cương lĩnh về xây dựng cộng đồng xã hội văn minh, Đại hội XII của Đảng đã đưa ra định hướng quản lý phát triển xã hội gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhằm từng bước kiến tạo một xã hội hài hòa, bền vững về cơ cấu xã hội, về lợi ích, về trình độ phát triển giữa các vùng miền, các lĩnh vực, các giai tầng, cộng đồng xã hội; khắc phục sự mất cân đối, sự phân hóa, phân tầng, bất bình đẳng xã hội, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, các tệ nạn, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Vấn đề quản lý, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ bền vững môi trường, chủ động ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu, từ những định hướng của Cương lĩnh đã được Đảng phát triển thành một nội dung quan trọng với những định hướng toàn diện trong chiến lược phát triển bền vững.
Về quốc phòng, an ninh: định hướng của Cương lĩnh là cơ sở quan trọng để Đảng lãnh đạo xây dựng, không ngừng hoàn thiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, Chiến lược an ninh mạng, Dự báo chiến lược...: làm sâu sắc, đầy đủ hơn nội hàm “ bảo vệ Tổ quốc”, quan hệ khăng khít giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa tăng cường quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Định hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trên nền tảng “ thế trận lòng dân”, định hướng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và phương lược bảo vệ Tổ quốc không ngừng được hoàn thiện, hình thành lý luận và khoa học quân sự, an ninh Việt Nam trong thời kỳ mới.
Về đối ngoại, quán triệt định hướng của Cương lĩnh: thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế...(9), Đảng chú trọng bám sát thực tiễn khu vực, thế giới, tăng cường nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, phát triển lý luận ngoại giao làm cơ sở hoàn thiện đường lối đối ngoại đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới. Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, gắn lợi ích đất nước với lợi ích của cộng đồng khu vực, quốc tế trên, nêu cao ngọn cờ hòa bình, chính nghĩa, tôn trọng luật pháp quốc tế, xử lý đúng đắn vấn đề đối tượng, đối tác, mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác song phương, đa phương, chủ động tham gia xây dựng các định chế khu vực, quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đó là những bước phát triển về lý luận ngoại giao trên nền tảng những định hướng có tính nguyên tắc của Cương lĩnh.
Về hệ thống chính trị và sự lãnh đạo của Đảng: trong gần 10 năm qua, tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Cương lĩnh là những định hướng có tính nguyên tắc, là cơ sở để Đảng làm sâu sắc, đầy đủ hơn nhận thức lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa, về đổi mới hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân đân, do nhân dân, vì nhân dân; về bản chất, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Gắn xây dựng Đảng với xây dựng hệ thống chính trị; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức đi đôi với đấu tranh phòng ngừa, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “ tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Đảng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng, đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục những biểu hiện hành chính hóa. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ đi đôi với đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu... Tư tưởng Cương lĩnh về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng được cụ thể hóa và phát triển rõ nét trong Hiến pháp 2003.
Cương lĩnh 2011 đánh dấu bước phát triển lý luận của Đảng, đồng thời Cương lĩnh đặt nền tảng để Đảng tiếp tục hoàn thiện, làm phong phú hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cương lĩnh tổng kếtt ở tầm lý luận những bài học kinh nghiệm lớn trong hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng, tạo cơ sở khoa học để Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối cách mạng, phương thức lãnh đạo của Đảng.
Từ thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam; kế thừa những bài học kinh nghiệm được tổng kết tại Đại hội VI và những bài học qua 10 năm, 15 năm, 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Cương lĩnh 2011 đã đúc kết 5 bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngọn - cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết oàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam (10).
Những bài học lớn nêu trên có giá trị lý luận, thực tiễn to lớn. Trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh, Đảng ta chú trọng kế thừa, phát triển những bài học quí báu này trong hoạch định, hoàn thiện đường lối đổi mới và lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
(còn tiếp)
GS,TS Phùng Hữu Phú
[1] Nguyễn Phú Trọng: Cương lĩnh chính trị - ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng ta, Tạp chí Cộng sản, tháng 2-2010.
[2] Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marxist internet Archive.
[3] V.I. Lê nin, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2005, t.7, tr. 203-204.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2011, t.8, tr. 282.
[5], 6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2011, tr. 68-69.
[7] Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, HN, 2011, tr.17-18.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sdd, tr. 72-73.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sdd, tr. 17-18.