III. Đổi mới Thể chế phát triển - xây dựng Thể chế phát triển mang tính đột phá
1. Đại hội XI của Đảng đã xác định “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” là một đột phá chiến lược; Đại hội XII cũng nhấn mạnh phải tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT ĐH XHCN. Thực tiễn cho thấy xác định đó là đúng đắn, song trước bối cảnh và yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới cho thấy rằng điều đó đúng nhưng chưa đủ. Thực tiễn cho thấy không thể hoàn thiện được thể chế kinh tế thị trường nếu không được triển khai đồng bộ với hoàn thiện thể chế phát triển đất nước về phương diện chính trị và phương diện xã hội (thể hiện ở yêu cầu được nêu trong văn kiện của Đảng là phải đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế và xã hội); giữa đổi mới hệ thống chính trị với xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội công dân, phát triển nền dân chủ với thể chế kinh tế thị trường. Điều này lại càng thấy rõ hơn khi đã nhận rõ và khảng định tính tất yếu khách quan và cấp thiết của việc chuyển đổi từ phát triển theo chiều rộng là chủ yếu sang mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều sâu, kết hợp hợp lý với phát triển theo chiều rộng. Yêu cầu phát triển theo chiều sâu có nghĩa là phải dựa chủ yếu vào nguồn lực khoa học - công nghệ trình độ cao, vào nguồn nhân lực chất lượng và trình độ cao, vào năng lực sáng tạo của mỗi con người, của tất cả các chủ thể và của toàn xã hội, vào chất lượng thể chế phát triển ở trình độ cao hơn. Nhưng đó phải là thể chế phát triển đất nước được hình thành đồng bộ giữa thể chế phát triển kinh tế với thể chế phát triển chính trị và thể chế phát triển xã hội, không đơn thuần chỉ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường mà tạo lập được.
Cả về lý luận và thực tiễn phát triển trên thế giới cho thấy rằng để một đất nước phát triển ở trình độ cao, hiện đại và bền vững cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái, phải dựa trên một thể chế phát triển hiện đại đồng bộ giữa nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội. Vì vậy đột phá chiến lược trong giai đoạn mới không chỉ là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, mà là xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển đất nước theo chiều sâu.
2. Thực tiễn phát triển của thế giới đã cho thấy : Một hệ thống thể chế phù hợp sẽ huy động - kết nối - sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực, tất cả các chủ thể tham gia, tạo được động lực mạnh cho sự phát triển lành mạnh và sáng tạo (chung và trong từng lĩnh vực cụ thể), nhân lên những giá trị phát triển tốt đẹp (đó cũng là động lực nội sinh quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế và xã hội). Ngược lại, một hệ thống thể chế không phù hợp sẽ không chỉ là “lực cản”, làm hao phí các nguồn lực, sự nỗ lực của các chủ thể, mà còn là “tác nhân” gây nên sự phát triển lệch lạc, kém hiệu quả, “kích hoạt và lan tỏa” những “gía trị tiêu cực” trong kinh tế, trong đạo đức xã hội và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (như mất dân chủ, tham nhũng, quan liêu, lợi ích nhóm…); “đẩy” những giá trị tốt đẹp vào thế yếu - không được bảo vệ, không được tôn vinh và dần bị băng hoại, trong đó băng hoại về lòng tin vào những giá trị tốt đẹp là một cảnh báo nghiêm trọng, nó làm giảm đi động lực phát triển trong mỗi con người, mỗi đơn vị xã hội, mỗi cộng đồng cũng như trong toàn xã hội. Chính vì vậy việc xây dựng và phát triển một hệ thống thể chế đồng bộ phù hợp và hiệu quả là một đòi hỏi bức thiết, tạo nên động lực phát triển trong giai đoạn mới. Nếu coi đột phá đổi mới tư duy với tầm quan trọng có tính mở đường - tạo tiền đề, thì đột phá về đổi mới thể chế có tầm quan trọng trực tiếp tạo nên động lực phát triển.
Thể chế phù hợp về chính trị - xã hội và về kinh tế tạo cơ sở pháp lý để “nuôi dưỡng”, dung hợp (hài hòa) và phát triển quyền tự do, dân chủ của con người, của công dân gắn với trách nhiệm xã hội, tạo cơ sở để mọi người dân thực hiện quyền sống - lao động - sáng tạo - sản xuất kinh doanh và hưởng thụ đúng với năng lực và cống hiến của mình. Thể chế đó tạo cơ sở để thúc đẩy phát triển tài năng, sáng tạo của mỗi con người và toàn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Trong đó Nhà nước là “Bà đỡ” mát tay cho quá trình phát triển này.
Thực tiễn lịch sử phát triển của các nước trên thế giới đã cho thấy rằng thể chế chính trị - xã hội có thể đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo động lực phát triển khi nó “đồng chiều và đồng cấp” với thể chế kinh tế (được xây dựng phù hợp với yêu cầu khách quan). Nhưng thể chế chính trị - xã hội cũng có thể là lực cản (thậm chí là sự “tàn phá”) đối với sự phát triển kinh tế - xã hội khi thể chế chính trị - xã hội rơi vào tình trạng “tự do, dân chủ” vô kỷ cương, không đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật, không phù hợp với trình độ phát triển và văn hóa của dân tộc. Có hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa thể chế chính trị - xã hội và thể chế kinh tế mới thấy rõ sự phát triển của các nước có trình độ phát triển và đặc điểm lịch sử khác nhau đòi hỏi phải xử lý mối quan hệ biện chứng này khác nhau. Sự phát triển của các nước Bắc Âu cho thấy sự “tương hợp” cao giữa thể chế chính trị - xã hội và thể chế kinh tế. Còn sự phát triển “thần kỳ” của Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore lại cho thấy những mô hình quan hệ biện chứng khác giữa thể chế chính trị - xã hội và thể chế kinh tế phù hợp với những đặc điểm của Châu Á. Ở những nước này, do những đặc điểm dân tộc và trình độ phát triển cụ thể, người ta không thể xây dựng thể chế chính trị - xã hội dân chủ theo mô hình “dập khuôn” như của các nước Bắc Âu, mà đã kết hợp rất có hiệu quả giữa những giá trị tích cực của phương Tây và phương Đông với những giá trị truyền thống của dân tộc để tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ của cả một dân tộc (trong đó có những giá trị mà phương Tây có thể nhìn nhận là “kém” dân chủ song vẫn được báo lưu; bản thân ông Lý Quang Diệu - Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Singapore – cũng từng nói rằng có những giá trị dân chủ của phương Tây mà Singapore không thể chấp nhận, ví dụ Singapore vẫn duy trì hình phạt đánh bằng roi đối với những người nhổ bã kẹo cao su bừa bãi, để tạo nên văn hóa và lối sống kỷ cương của người dân Singgapore, và đối với cả người nước ngoài đến Singapore…). Trên thế giới cũng đang cho thấy nhiều nước rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, song trong đó có nguyên nhân mặc dù kinh tế đi theo thể chế kinh tế thị trường (có thể ở trình độ không thấp lắm), nhưng thể chế chính trị - xã hội hoặc rơi vào trạng thái độc đoán chuyên chế, hoặc “tự do, dân chủ” theo kiểu “vô chính phủ”, “dân túy”, thiếu kỷ cương…Khi đó, thể chế chính trị - xã hội không hỗ trợ đồng bộ “cùng chiều” với thể chế kinh tế, và do đó động lực phát triển bị kìm hãm, suy giảm, thậm chí rơi vào khủng hoảng. Thực tế này đang diễn ra ở không ít nước tại khu vực Trung đông - Bắc phi, châu Á…
Thể chế phát triển của một đất nước trong mỗi giai đoạn là sự tác động tổng hợp của Thể chế phát triển chính trị - xã hội và Thể chế phát triển kinh tế. Hai thể chế này có tính độc lập tương đối với nhau nhưng luôn chế định lẫn nhau. Trong những giai đoạn và hoàn cảnh nhất định, do yêu cầu của lịch sử, có thể thể chế này có “ưu thế” vượt trội so với thể chế kia và cũng tạo được động lực phát triển trong những giới hạn nào đó. Song xét về quan hệ bản chất hai thể chế đó luôn có quan hệ biện chứng với nhau; sự “lệch pha” giữa hai thể chế đó thường dẫn tới kìm hãm sự phát triển và phát triển không bền vững. Vì vậy, điều rất quan trọng là cần hiểu rõ mối quan hệ rất biện chứng, hữu cơ, đồng bộ giữa thể chế chính trị - xã hội và thể chế kinh tế trong những điều kiện và trình độ phát triển cụ thể. Sự phát triển của một đất nước sẽ mạnh mẽ và bền vững khi hai thể chế đó “cộng hưởng” được với nhau, được thể hiện trong mối quan hệ hữu cơ : Dân chủ - công bằng, tự do - sáng tạo, sở hữu phù hợp - hiệu quả.
3. Đối với Việt nam, về vai trò của thể chế, có thể minh họa rõ hơn qua quá trình đổi mới thể chế phát triển kinh tế ở nước ta : Từ thể chế hành chính - kế hoạch hóa tập trung - bao cấp chuyển sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong thể chế kinh tế cũ, với sở hữu nhà nước và sở hữu HTX - tập thể hóa chiếm đa số tuyệt đối, sở hữu của các thành phần kinh tế khác và của tư nhân hầu như không đáng kể và không được khuyến khích phát triển. Trong thể chế đó, hầu như tất cả mọi người đều là người làm “công ăn lương, hay làm công lấy điểm”, không phải là những chủ thể sản xuất kinh doanh tự chủ. Thể chế kinh tế đó đã là “nền tảng” để xác định giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị văn hóa “làm chủ tập thể” mà thực chất là “chủ chung - vô chủ”. Những giá trị tốt đẹp như tính tự chủ - tự chịu trách nhiệm, năng động sáng tạo…về cơ bản đã không có đủ cơ sở để khuyến khích phát triển, không tạo được động lực mạnh cho sự phát triển kinh tế và xã hội (động lực về lợi ích kinh tế và động lực về tinh thần đã không tạo được hợp lực phát triển tích cực); ngược lại, thể chế kinh tế đó lại là cơ sở để tạo ra những tiêu cực trong việc hình thành giá trị con người, giá trị xã hội, làm suy yếu động lực phát triển. Đó cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội vào cuối những năm 1970 và những năm đầu 1980; đưa đến nghị quyết lịch sử Đại hội VI của Đảng về Đổi mới đất nước năm 1986.
Khi chuyển sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN với nội dung cốt lõi là : Phát triển nền kinh tế đa sở hữu - đa thành phần; trong nông nghiệp xóa bỏ HTX - tập thể hóa và xác lập hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, trao quyền làm chủ ruộng đất và tư liệu sản xuất cho hộ nông dân; Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tư liệu sản xuất và tài sản chính đáng của mọi người, mọi tổ chức; mọi người, mọi tổ chức được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh theo pháp luật; thực hiện sự phân phối theo lao động và theo các hình thức khác mà pháp luật quy định…Kinh tế thị trường với các quy luật khách quan của nó đặt lên hàng đầu “lợi nhuận, hiệu quả, năng lực cạnh tranh không ngừng nâng lên”; đồng thời kinh tế thị trường cũng luôn ẩn chứa những rủi ro có khi rất lớn. Chính những điều này đặt ra những yêu cầu - tiêu chí mới về giá trị con người, giá trị nhân lực, giá trị xã hội, giá trị văn hóa nói chung, trong đó nổi lên hàng đầu là các giá trị năng động, sáng tạo, luôn đổi mới, có tư duy chiến lược, quyết đoán, có năng lực dự báo, dám mạo hiểm… Thể chế kinh tế mới này đặt mỗi chủ thể, mỗi con người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh trở thành chủ thể của chính mình. Thành quả hoạt động kinh tế trở thành thước đo giá trị về năng lực, phẩm chất, con đường thăng tiến, địa vị xã hội của mỗi người và mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh; đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu - giá trị mới đối với mỗi người, mỗi cấp lãnh đạo - quản lý.
Tuy nhiên, cũng giống như bất kỳ một thể chế phát triển nào khác, thể chế kinh tế thị trường với những quy luật khách quan cũng có những hạn chế và tác động tiêu cực đến sự phát triển của xã hội (do đó cần phải có bàn tay điều tiết của Nhà nước), như: phân bổ và sử dụng nguồn lực của xã hội chỉ theo cơ chế thị trường (theo tiếng gọi của lợi nhuận) sẽ dẫn đến cơ cấu đầu tư của xã hội không cân đối hài hòa, hợp lý, hiệu quả được giữa các ngành, lĩnh vực, vùng trong quốc gia; chạy theo lợi ích kinh tế mà coi nhẹ các lĩnh vực xã hội; quan hệ xã hội và quan hệ con người có thể bị lợi ích kinh tế lấn át…Chính vì vậy mà Nhà nước và các thiết chế phát triển khác cần phải đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, nhất là về phương diện xã hội, nhưng không làm yếu đi các động lực tích cực của cơ chế thị trường. Đây là bài toán không dễ dàng, nó cần phải được xử lý có hiệu quả trong mỗi giai đoạn và trình độ phát triển cụ thể.
4. Bước sang giai đoạn phát triển mới hiện nay, vấn đề trung tâm đặt ra là xây dựng và hoàn thiện thể chế cho (chuyển sang) mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều sâu. Trong mấy thập kỷ qua, thể chế phát triển kinh tế thị trường với mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa chủ yếu trên cơ sở thâm dụng về vốn, đất đai, lao động trình độ thấp - giá rẻ, sản xuất sản phẩm thô - sơ chế - lắp ráp, chất lượng thấp, giá trị gia tăng thấp; quy hoạch và sử dụng các nguồn lực theo chiều rộng, chạy theo tăng quy mô là chủ yếu thay vì tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả. Nhìn nhận một cách khách quan thể chế phát triển theo chiều rộng đã đóng vai trò động lực quan trọng, tích cực, phù hợp, hiệu quả đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn đã qua. Nhưng nay, trước yêu cầu của giai đoạn mới đang bộc lộ những hạn chế và bất cập rất cơ bản, làm suy yếu đi động lực phát triển. Thể chế kinh tế phát triển theo chiều rộng này không chỉ tác động trong lĩnh vực kinh tế, mà nó còn “lan tỏa” và tác động sang thể chế chính trị - xã hội và các thể chế khác, như về tư duy lãnh đạo - quản lý ở các cấp, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách làm cơ sở cho phát triển theo chiều rộng, cấu trúc của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, tiêu chuẩn và tiêu chí đội ngũ cán bộ, công chức, giá trị xã hội và giá trị con người, khoa học - công nghệ không được chú trọng phát triển và ứng dụng đúng mức, giáo dục - đào tạo chậm được đổi mới và đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn…
Theo các nghiên cứu quốc tế về mối quan hệ giữa chuỗi sản xuất sản phẩm gắn với chuỗi giá trị gia tăng (lợi nhuận) được mô tả dưới dạng “Đường cong nụ cười” (5), phát kiến của Chủ tịch hãng Acer, ông Stan Shih, năm 1992, như dưới đây.
Đường cong nụ cười
Đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, vẫn nằm chủ yếu ở khâu gia công - lắp ráp (ngay cả đối với các doanh nghiệp FDI công nghệ cao như Intel, Samsung, Canon…), nằm ở vị trí giữa đồ thị - là vị trí có giá trị gia tăng (lợi nhuận) thấp nhất. Có thể nói hiện nay về cơ bản thể chế phát triển vẫn chủ yếu tập trung cho khâu này. Theo “đường cong nụ cười”, nền kinh tế (hay mỗi doanh nghiệp) muốn gia tăng lợi nhuận thì phải sớm giảm mức độ tập trung vào khâu gia công - lắp ráp, đẩy mạnh hoạt động về hai phía đồ thị. Để thực hiện điều này không chỉ đơn giản là tổ chức lại nền sản xuất, quy trình sản xuất, mà đòi hỏi phải đổi mới và xây dựng đồng bộ thể chế cho phát triển theo chiều sâu, hướng vào phát triển các khâu cho giá trị gia tăng cao.
Khi động lực phát triển theo chiều rộng đã “tới hạn”, phải chuyển sang phát triển theo chiều sâu với động lực dựa chủ yếu vào khoa học – công nghệ, thì bản thân nội dung của thể chế kinh tế thị trường phát triển theo chiều sâu cũng đòi hỏi phải được xây dựng mới căn bản so với thể chế kinh tế thị trường phát triển theo chiều rộng (về hệ thống pháp luật, về hệ thống chủ thể sản xuất kinh doanh, về vai trò của nhà nước, vai trò của thị trường, về thể chế phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, về giáo dục và đào tạo nhân lực…). Đồng thời, chính các thay đổi về thể chế phát triển kinh tế theo chiều sâu đòi hỏi phải đổi mới và phát triển thể chế chính trị - xã hội phù hợp (phải đổi mới và nâng cao năng lực, phương thức cầm quyền - lãnh đạo chính trị của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; xây dựng nhà nước pháp quyền gắn với đổi mới vai trò, chức năng và phương thức quản lý - quản trị xã hội của Nhà nước; đổi mới các quan hệ xã hội…theo yêu cầu phát triển theo chiều sâu).
Đối với Việt nam, hiện đang phải giải quyết đồng bộ nhiều mối quan hệ trong việc đổi mới và hoàn thiện Thể chế phát triển đất nước. Hiện nay đang thấy rõ đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ quan điểm phải “Đổi mới đồng bộ và phù hợp về kinh tế và chính trị”, đó cũng chính là yêu cầu đặt ra đối với “đột phá đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển đất nước” trong giai đoạn mới. Đây là vấn đề rất rộng lớn, phức tạp và hệ trọng, cần được nghiên cứu thấu đáo cả về lý luận và tổng kết thực tiễn. Ở đây xin nêu những vấn đề chủ yếu đặt ra sau:
i). Làm rõ mối quan hệ bản chất - hình thức thể hiện - cơ chế tác động giữa chính trị - kinh tế - xã hội trong môi trường thế giới hiện nay, và nhất là điều kiện cụ thể của Việt nam. Từ đó đặt ra những mục tiêu, yêu cầu và tiêu chí đồng bộ - cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện Thể chế phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
ii). Từ những mục tiêu, yêu cầu và tiêu chí nêu trên, cần triển khai đổi mới đồng bộ thể chế chính trị - xã hội (đổi mới đồng bộ hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng và phát huy nền dân chủ, xây dựng và phát triển xã hội công dân... hướng vào thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”). Trong đó có thể coi việc đổi mới xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung - phương thức - cơ chế lãnh đạo của Đảng là khâu tiên quyết, và xây dựng Nhà nước pháp quyền là nhiệm vụ trung tâm. Ở đây rất cần lưu ý rằng đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ cần được triển khai đồng bộ, thống nhất với nhau, đồng bộ - phù hợp với đổi mới thể chế kinh tế, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế (rất cần thấu hiểu sâu sắc lời nói của Mác: Phải coi xã hội hiện tồn là cơ sở của Nhà nước hiện tồn, chứ không phải ngược lại); tránh rơi vào bảo thủ, giáo điều, chủ quan - duy ý trí; một mặt phát huy cao những giá trị của dân tộc, mặt khác tiếp thu có chọn lọc và hiệu quả các giá trị của nhân loại, có như vậy mới tạo động lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
iii). Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ở đây cần thực hiện đồng thời ba quá trình liên quan mật thiết với nhau : (i) - Thực hiện quá trình chuyển đổi thể chế phát triển kinh tế từ mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều chiều sâu (tái cơ cấu nền kinh tế là một nội dung quan trọng của quá trình này); (ii) - Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (phát triển theo chiều sâu) theo hướng kinh tế thị trường hiện đại; (iii) - Đẩy mạnh hội nhập quốc tế với chiến lược, những bước đi phù hợp và hiệu quả nhằm tạo lập được khả năng phát triển tự chủ và bền vững ngày càng cao của nền kinh tế dân tộc. Đồng thời phải xây dựng đồng bộ giữa ba thể chế: Thể chế phát triển kinh tế, thể chế phát triển và ứng dụng KH - CN, thể chế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo được hợp lực mạnh thúc đấy phát triển theo chiều sâu, bền vững, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới đang tăng tốc, đặt ra cho nước ta những cơ hội và nhiều thách thức lớn .
iv). Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách chế định sự ràng buộc giữa quyền - trách nhiệm - lợi ích - nghĩa vụ trong tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, xã hội…) của đời sống đối với tất cả các chủ thể trong xã hội (từ mỗi con người, mỗi công dân, đến mọi tổ chức, đơn vị, cộng đồng, các tổ chức Đảng và Nhà nước). Đặc biệt là các cơ chế đảm bảo công khai, dân chủ, minh bạch và trách nhiệm giải trình của tất cả các cá nhân và tổ chức trong hệ thống và bộ máy lãnh đạo - quản lý đất nước. Điều cần nhận thức cho rõ là các cơ chế này không chỉ nhấn mạnh đến phương diện “tuân thủ” những chế định hiện hành, những giá trị phổ quát hiện hành, hạn chế và loại trừ những giá trị cũ - lạc hậu, tiêu cực, mà rất quan trọng là cần tạo lập không gian pháp lý làm “bà đỡ” cho sự phát triển của những nhân tố mới - tích cực, khuyến khích tự do - tự chủ - sáng tạo cho mọi chủ thể. Điều này liên quan trực tiếp đến yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đất nước thúc đẩy sáng tạo (hay gọi là thể chế phát triển sáng tạo) trong điều kiện và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và rất phức tạp hiện nay.
v). Xây dựng, hoàn thiện và đồng bộ hóa các luật pháp, cơ chế, chính sách, giải pháp theo hướng tạo điều kiện hiện thực hóa các giá trị con người, giá trị dân chủ, giá trị xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức chính trị, xã hội, của mọi tổ chức trong xã hội và mọi người, nhằm thực hiện nguyên tắc “Pháp luật tồn tại vì con người, chứ không phải con người tồn tại vì pháp luật” (như C.Mác nói), đồng thời đảm bảo thực thi nghiêm trong thực tế nguyên tắc “Thượng tôn pháp luật” đối với tất cả các chủ thể trong xã hội. Cần phân định và thực hiện sự kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa chế định các cơ chế khách quan của sự phát triển với phương diện “đạo lý - đạo đức” của sự phát triển, nhằm tránh rơi vào duy lý máy móc cũng như quá nặng duy tình - cảm tính; tiêu chí cơ bản là tạo động lực cho sự phát triển lành mạnh, hiệu quả và bền vững.
IV. Khắc phục những “ngộ nhận” về kinh tế thị trường và tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường
Hiện nay, trên thế giới (cũng như một số người ở Việt Nam) đang có những nhận thức cũng như định hướng xây dựng cơ chế chính sách phát triển kinh tế thị trường chứa đựng những yếu tố “ngộ nhận” mang tính chủ quan (8). Xin nêu lên dưới đây một số “ngộ nhận” chủ yếu sau:
1). Coi KTTT gắn liền với bản chất của CNTB, và do đó những khuyết tật, yếu kém,bất cập, khủng hoảng chu kỳ , những tệ nạn…nảy sinh trong kinh tế thị trường cũng gắn liền với bản chất của CNTB. Coi KTTT về cơ bản và lâu dài không dung hợp với CNXH, việc vận dụng KTTT chỉ là sách lược trong một giai đoạn nào đó ở các nước phát triển theo định hướng XHCN.
2). Coi KTTT chỉ đơn giản là hệ thống kinh tế về những hoạt động sản xuất kinh doanh và trao đổi hàng hóa, dịch vụ; mà không thấy rõ đó còn là hệ thống các giá trị văn hóa, tinh thần và đạo đức phát triển, là hệ thống sáng tạo đổi mới liên tục, thúc đẩy phát triển KH - CN, GD - ĐT, tạo ra của cải xã hội ngày càng tăng, mang lại sự thịnh vượng xã hội. Là hệ thống pháp luật về tất cả các lĩnh vực liên quan chứa đựng trong lòng nó quyền bình đẳng, khuyến khích sự sáng tạo đổi mới và những quá trình thử sai - đào thải được gọi là “phá hủy sáng tạo” (Mác gọi là phủ định biện chứng) để thúc đẩy phát triển. Đó là nền văn hóa KTTT tôn vinh những người dám nghĩ, dám làm, dám mạo hiểm, tôn vinh những nhà khoa học dấn thân có những sáng kiến và sáng tạo mang đầy tính văn hóa, phục vụ cho sự phát triển của xã hội, vì con người.
3). Coi KTTT, cơ chế thị trường “lạnh tanh tiền bạc”, là vô đạo đức không quan tâm tới luân thường đạo lý (chỉ nghĩ và hành động vì lợi ích, lợi nhuận, bất chấp những giá trị tốt đẹp về con người, về văn hóa và xã hội. KTTT khuyến khích thói tham lam và ích kỷ…). Không thấy rõ văn hóa và đạo đức KTTT lành mạnh không chấp nhận nguyên tắc cướp bóc và chiếm đoạt phi pháp, tức là những biện pháp mà những kẻ giầu có hoặc dùng quyền lực chính trị để tước đoạt (chiếm đoạt) của người khác. Coi các mô hình (kiểu) KTTT có bản chất cơ bản như nhau, không phân biệt KTTT hoạt động trên cơ sở chế độ pháp quyền, tự do và bình đẳng sản xuất kinh doanh theo pháp luật, và KTTT “ô dù” (gắn với CNTB thân hữu, là nền KTTT bị biến dạng bởi những kẻ đầu tư bất chính và những kẻ cầm quyền tha hóa vì những lợi ích trái pháp luật và đạo đức).
4). Cho rằng KTTT, cơ chế thị trường tạo ra nhiều bất bình đẳng hơn là những quá trình kinh tế phi thị trường (bao cấp). Thị trường không có khả năng cung ứng hiệu quả được hàng hóa công cộng (tập thể), không thể đáp ứng tốt được một số nhu cầu cơ bản của con người, như chăm sóc sức khỏe, nhà ở, giáo dục và lương thực; chỉ có Nhà nước với cơ chế bao cấp mới thực hiện tốt nhiệm vụ này.
5). Thị trường chỉ có lợi cho người giàu và người có tài, làm cho chênh lệch giàu nghèo càng ngày càng tăng lên.
6). Quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường (phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tư nhân hóa và thiết lập quan hệ thị trường) ở các nước hậu XHCN (cũ) tất yếu song hành với nạn tham nhũng, nghĩa là thị trường là tham nhũng.
7). Coi KTTT, cơ chế hị trường là vạn năng, có thể giải quyết được mọi vấn đề; chỉ cần hoàn thiện khung pháp lý về thể chế kinh tế thị trường, xây dựng đồng bộ các loại thị trường là có được một nền KTTT hiện đại. Không thấy được nền kinh tế thị trường ở một nước cụ thể là thể hiện trình độ phát triển của nước đó trong một giai đoạn cụ thể; thể chế kinh tế thị trường phải được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa nền sản xuất xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể, gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế.
8). Xem xét vai trò của Thị trường và vai trò của Nhà nước theo nguyên tắc “bập bênh”, nghĩa là bên này tăng lên thì bên kia giảm xuống và ngược lại. Không xem xét kỹ vai trò của Nhà nước và vai trò của Thị trường theo nguyên tắc kết hợp mặt mạnh của Nhà nước và mặt mạnh của thị trường, hạn chế “thất bại” của Nhà nước và “thất bại” của Thị trường trong những điều kiện và trình độ phát triển cụ thể nói chung và đối với từng lĩnh vực nói riêng (ví dụ công nghiệp khác với nông nghiệp, khác với các lĩnh vực xã hội…).
9). Tính định hướng XHCN chỉ (hay chủ yếu) nằm ở chính sách xã hội và chính sách phân phối, vì vậy đối với quá trình sản xuất kinh doanh Nhà nước cần giảm tối đa sự can thiệp, để tự do điều tiết theo cơ chế thị trường; Nhà nước chỉ cần (hay chủ yếu) tập trung vào hoàn thiện các chính sách xã hội và chính sách phân phối. Đây cũng là một “ngộ nhận” rất đáng lưu ý.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi phải có sự đột phá về nhận thức - tư duy lý luận (đi trước), gắn liền với thể chế hóa thành nền tảng pháp lý và tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Có thể gọi đó là Thể chế phát triển theo chiều sâu, có sự khác biệt về bản chất, trình độ và cơ chế vận hành so với Thể chế phát triển theo chiều rộng; đòi hỏi sự đồng bộ cao giữa các thể chế phát triển thành phần (chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ…), liên quan trực tiếp đến phát triển nhân tố con người. Sự đồng bộ giữa các thể chế phát triển thành phần có vai trò quyết định đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
PGS.TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp,
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương