Chủ Nhật, ngày 23 tháng 11 năm 2025

Giá trị phương Đông trong văn minh nhân loại thời đại mới

Ngày phát hành: 23/11/2025 Lượt xem 29

 

I. Về giá trị Phương Đông, vai trò và những đặc trưng cơ bản

 

1. Về giá trị Phương Đông

 

Trong lịch sử phát triển văn minh nhân loại đã từng hình thành nhiều nền văn minh trong quá khứ, theo UNESCO, có các nền văn minh cổ đại nổi bật, đó là: Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp và La mã cổ đại, từ đó được chia thành hai khu vực lớn là văn minh Phương Đông cổ đại gồm Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa và văn minh Phương Tây cổ đại là Hy Lạp, La Mã.. ở đó, đã tạo nên một hệ thống giá trị bắt nguồn từ các nền văn hóa và triết học lâu đời, đóng vai trò quan trọng và mang lại những đóng góp độc đáo cho văn minh nhân loại. Các nền văn minh mang tính đặc thù, gắn với các giá trị truyền thống, văn hóa, lịch sử, tôn giáo.. trong quá trình hình thành và phát triển ở hai khu vực Phương Đông và Phương Tây. Từ đó, có thể hiểu giá trị đặc trưng ở mỗi khu vực, đó là: Những nguyên tắc, chuẩn mực tinh thần, niềm tin, văn hóa, xã hội.. được hình thành trong lịch sử và phát, gắn liền với điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, tinh thần.. thể hiện tính đặc thù triển của mỗi khu vực, trong đó có những giá trị mang tính phổ quát do quá trình tiếp biến, giao thoa các nền văn minh, trở thành giá trị chung của nhân loại.

 

 

Các giá trị tinh thần phổ quát Phương Tây gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển với các quốc gia ở châu Âu, Bắc Mỹ, Úc và New Zealand.. từ thời cổ đại, ảnh hưởng sâu đậm bởi tính chất văn hóa, lịch sử, điều kiện tự nhiên và xoay quanh truyền thống triết học – tôn giáo ( Hy Lạp- La mã cổ đại, Do Thái- Ky tô giáo) và các phong trào văn hóa- chính trị (Phục Hưng, Khai sáng, cách mạng công nghiệp) với một số đặc điểm nổi bật: Tôn trọng cá nhân và tự do (Quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do lựa chọn, khẳng định giá trị độc lập và phẩm giá con người);  tinh thần dân chủ và pháp quyền (niềm tin vào công bằng, bình đẳng trước pháp luật, đề cao thể chế dân chủ, minh bạch và trách nhiệm xã hội); lý tính và khoa học, (tư duy logic, bằng chứng khoa học, khát vọng tiến bộ, sáng tạo và trinh phục tự nhiên); tư tưởng nhân quyền và phổ quát (quyền sống và mưu cầu hạnh phúc, bình đẳng giới, chống phân biệt chủng tộc, công bằng xã hội); Chủ nghĩa nhân văn (đề cao nhân tính, sự phát triển toàn diện của con người, tôn trọng nghệ thuật, văn hóa và sự đa dạng của cá nhân); tinh thần cạnh tranh và cá nhân tự lập (khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo, trách nhiệm cá nhân).

 

Các giá trị tinh thần phổ quát Phương Đông được hình thành, phát triển trong lịch sử từ thời cổ đại với các nôi văn hóa Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa.... Một số đặc trưng cốt lõi thường được nhắc đến, đó là: Đề cao cộng đồng, gia đình và quan hệ xã hội (Coi trọng nghĩa tình, hiếu thảo, tôn ti trật tự); tinh thần hòa hợp với thiên nhiên (Con người sống thuận theo tự nhiên, tôn trọng sự cân bằng); Ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo- triết học, như Nho giáo (đạo lý, lễ nghĩa), Phật giáo ( từ bi, giác ngộ); Đạo giáo (vô vi, hòa hợp); đức tính kiên nhẫn, tiết chế, chịu đựng và hướng nội, coi trọng sự tu dưỡng bản thân, tu dưỡng tâm tính; tìm kiếm sự hài lòng hơn là cạnh tranh gay gắt, coi trọng đạo lý, nhân nghĩa hơn là lợi ích thuần túy. Giá trị Phương Đông, có thể khái quát, đó là: Sự tổng hòa của nhiều hệ tư tưởng như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và các triết lý bản địa khác. Hay, giá trị tinh thần Phương Đông là hệ thống những chuẩn mực, niềm tin, lối sống và triết lý sống được hình thành, lưu truyền và phát triển đến ngày nay trong các nền văn hóa Phương Đông, như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc..

 

Các giá trị này mang đến những góc nhìn bổ sung quan trọng cho văn hóa Phương Tây, góp phần định hình một thế giới cân bằng, nhân văn và bền vững hơn. Có thể nêu ra một số giá trị sau:

 

i) Sự hài hòa và cân bằng: Triết lý về sự cân bằng Âm-Dương, sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên (Thiên-Nhân hợp nhất) là trung tâm của tư tưởng phương Đông. Giá trị này ngày càng trở nên cấp thiết khi thế giới đối mặt với khủng hoảng sinh thái do khai thác tài nguyên quá mức; khuyến khích một lối sống bền vững, tôn trọng tự nhiên và tìm kiếm sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

 

ii) Đề cao giáo dục, sự kiên trì và tự hoàn thiện: Nền tảng Nho giáo nhấn mạnh “ tôn sư học đạo”, cơ sở để xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, rèn luyện đạo đức và không ngừng nỗ lực để trở nên tốt hơn, hướng thiện. Giá trị này là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế và khoa học-công nghệ vượt bậc ở nhiều quốc gia Đông Á, tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỷ luật và khả năng thích ứng.

 

iii) Coi trọng đức trị và trách nhiệm xã hội: Tư tưởng phương Đông thường gắn liền quyền lực với trách nhiệm đạo đức. Người lãnh đạo được kỳ vọng sẽ phục vụ nhân dân, chăm lo cho lợi ích chung và nêu gương về phẩm hạnh. Dù có những thách thức trong thực tế, lý tưởng này vẫn là một chuẩn mực quan trọng, thúc đẩy trách nhiệm xã hội của các nhà lãnh đạo chính trị và doanh nghiệp.

 

iv) Tinh thần cộng đồng và gia đình: Đề cao sự gắn kết, hòa hợp trong gia đình và cộng đồng, nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân đối với tập thể. Đây là một trong những giá trị nền tảng đã góp phần tạo nên sự ổn định xã hội và là động lực cho sự phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia châu Á (như mô hình "doanh nghiệp gia đình" ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc).

v) Khả năng thích nghi và tiếp biến văn hóa: Lịch sử cho thấy các nền văn hóa phương Đông có khả năng dung hợp và tiếp nhận những yếu tố mới từ bên ngoài, biến đổi để phù hợp với hoàn cảnh mà không đánh mất bản sắc (như, Phật giáo du nhập và hòa quyện với tín ngưỡng bản địa ở nhiều nước Đông Nam Á).

 

Từ những đặc điểm trên, có thể khái quát những giá trị tích cực, có thể bổ trợ cho nhau giữa hai nền văn hóa: Nếu phương Tây nhấn mạnh khái niệm quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm của cá nhân – được khẳng định rõ rệt trong Tuyên ngôn Độc lập Mỹ (1776) hay Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1789) – thì phương Đông lại tập trung nhiều hơn vào mối quan hệ xã hội, kết cấu gia đình và trật tự cộng đồng. Điều này dẫn đến sự khác biệt căn bản, ở đó phương Tây, đề cao vai trò cá nhân làm trung tâm, coi cá nhân là chủ thể tối cao, thuận lợi cho môi trường sáng tạo, luật pháp và nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ quyền tự do, tuy nhiên trong nhiều trường hợp dễ dẫn tới sự bất ổn, bất bình đẳng xã hội.

 

 

 Phương Đông, lấy cộng đồng và trật tự xã hội, gia đình làm nền tảng, coi trọng sự ổn định và hòa hợp tự nhiên, xã hội, trong đó phải gắn quyền lợi cá nhân với lợi ích chung... Bởi vậy, trong không ít trường hợp dễ dẫn tới bảo thủ, trì trệ, an phận, khó thay đổi, vai trò cá nhân hoặc là độc đoán chuyên quyền, gia trưởng, hoặc là không được quan tâm đúng mức… Cần phải khẳng định rằng, những dấu hiệu trên là mang tính xu hướng,  do đó “ Tự do- bình đẳng- bác ái”, đề cao tính pháp quyền không chỉ của phương Tây và tính cộng đồng, trật tự xã hội, niềm tin tôn giáo chỉ có ở phương Đông, trên thực tế, sự giao thoa giữa giá trị phương Đông và phương Tây ngày nay đang bổ sung cho nhau đó là, phương Đông tiếp thu mạnh mẽ tư tưởng quyền cá nhân, kết hợp đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội, còn phương Tây ngày càng chú trọng đến tính cộng đồng, môi trường và trách nhiệm xã hội.

 

Từ những đặc điểm nêu trên có thể thấy, nhiều giá trị của văn hóa phương Đông cũng đang vượt qua ranh giới địa lý và văn hóa để được công nhận, tiếp thu như những giá trị chung của nhân loại. Sự trỗi dậy của châu Á trong thế kỷ 21 không chỉ là một hiện tượng kinh tế mà còn kéo theo sự quan tâm trở lại đối với các giá trị văn hóa và triết học phương Đông. Trong một thế giới ngày càng phức tạp, với những cuộc khủng hoảng về môi trường, đạo đức và bản sắc, nhiều học giả và nhà hoạch định chính sách đang tìm kiếm những tri thức và triết lý từ phương Đông như một nguồn tham khảo để đối phó với các vấn đề đương đại.

 

2 .Vai trò, đóng góp và những vấn đề đặt ra đối với các giá trị phương Đông trong thời đại mới

 

Giá trị văn minh nhân loại có nội hàm rộng với nhiều giá trị khác nhau, xét về bản chất, đó là những chuẩn mực, lý tưởng, thành tựu chung mà nhân loại tạo ra trong quá trình phát triển, phản ánh khát vọng về Chân- Thiện- Mỹ, về sự phát triển bền vững, nhân văn và tiến bộ xã hội mà loài người hướng tới trong quá trình phát triển. Trong thời đại mới, thời đại của toàn cầu hóa, kỷ nguyên số, cách mạng khoa học- công nghệ.. Những giá trị này được hiểu: Là hệ thống giá trị phổ quát mang tính toàn cầu, được cộng đồng quốc tế thừa nhận và theo đuổi, nhằm định hướng cho sự phát triển hài hòa, bền vững, nhân văn cho nhân loại trong kỷ nguyên hiện đại.

 

Trong số đó, nổi lên một số giá trị phổ quát chung, đó là: Hòa bình, nhân quyền, bình đẳng, phát triển bền vững, tiến bộ khoa học, công nghệ, giao lưu văn hóa, trách nhiệm toàn cầu và tinh thần nhân văn. Ở đó, i). Hòa bình và an ninh toàn cầu là điều kiện tiên quyết cho phát triển, giải quyết xung đột, sự khác biệt bằng đối thoại, hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế; ii). Nhân quyền, dân chủ và bình đẳng là sự tôn trọng sự sống, phẩm giá, quyền tự do cơ bản của con người, nhân văn, đề cao công bằng xã hội cho các thế hệ hôm nay và mai sau, xóa bỏ phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, không ai bị bỏ lại phía sau. iii). Phát triển bền vững chính là tăng trưởng kinh tế đi đôi với  bảo vệ môi trường, ứng xử hài hòa với thiên nhiên, chống biến đổi khí hậu. iv). Khoa học công nghệ và tri thức, coi tri thức, sáng tạo và đổi mới là động lực chính của văn minh, kết hợp công nghệ số, AI, sinh học, năng lượng tái tạo.. với sự phát triển của nhân loại. v). Giao lưu và đa dạng văn hóa, bảo tồn di sản văn hóa, đồng thời thúc đẩy giao lưu, học hỏi lẫn nhau, xem đa dạng văn hóa là nguồn lực cho sáng tạo và hòa bình. vi). Tinh thần cộng đồng và trách nhiệm toàn cầu, nhân loại ý thức mình là cộng đồng chung vận mệnh, cùng nhau giải quyết các vấn đề xuyên biện giới, như dịch bệnh, nghèo đói, thiên tai, xung đột.

 

Trong thời đại mới, những giá trị phương Đông đã và sẽ có những đóng góp cụ thể và thiết thực vào sự phát triển chung của văn minh nhân loại, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, con người, có thể khái quát một số những tác động tích cực, đó là: Về kinh tế, đề cao đạo đức, chữ tín trong kinh doanh, tinh thần hợp tác, trách nhiệm, thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua thiết lập các mô hình quản trị doanh nghiệp, kết hợp giữa cạnh tranh và hợp tác, chú trọng xây dựng lòng trung thành của nhân viên và quan hệ đối tác lâu dài. Tinh thần khởi nghiệp dựa trên sự kiên nhẫn, bền bỉ và tầm nhìn dài hạn cũng là một thế mạnh. Trong chính trị và quan hệ quốc tế, khuyến khích đề cao sự hòa hợp, đối thoại và tìm kiếm đồng thuận thay vì đối đầu trực tiếp, mang đến một phương thức tiếp cận khác cho ngoại giao toàn cầu. Các nguyên tắc như cùng tồn tại hòa bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đối với quản trị và phát triển xã hội, đó là xây dựng môi trường đạo đức xã hội nhân văn, giảm xung đột, hạn chế chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Các phương pháp thực hành chánh niệm, thiền định và yoga, vốn bắt nguồn từ Phật giáo và các triết lý Ấn Độ, ngày càng được thế giới phương Tây đón nhận, như những công cụ hữu hiệu để giảm căng thẳng, cải thiện sức khỏe tinh thần trong một thế giới đầy biến động. Trong công nghệ và đổi mới, sáng tạo, sự kết hợp giữa tư duy kỷ luật, tập trung vào chi tiết và tinh thần hợp tác tập thể đang thúc đẩy những đột phá trong lĩnh vực công nghệ cao ở châu Á. Đối với văn minh, văn hóa toàn cầu, thúc đẩy sự đa dạng, bổ sung và cân bằng với giá trị phương Tây…

 

Do đó, các giá trị phương Đông và phương Tây phản ánh đặc trưng, bản sắc của mỗi khu vực, đều có những đóng góp quan trọng vào nền văn minh nhân loại, không thay thế nhau mà bổ trợ cho nhau, tiếp tục hoàn thiện, thích ứng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển của cách mạng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là AI, trí tuệ nhân tạo, Big data.. trong thời đại mới.

 

Hiện nay, các giá trị phương Đông cũng đang đối mặt với nhiều thách thức và đặt ra các vấn đề quan trọng cần được giải quyết, đó là:

 

Một là: Xung đột giữa truyền thống và hiện đại, sự giao thoa, tiếp biến của các nền văn hóa, sự khác biệt của truyền thống và hiện tại, văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, khoa học công nghệ.. chủ nghĩa cá nhân và văn hóa tiêu dùng đang tạo ra những xung đột với các giá trị truyền thống, như tinh thần cộng đồng, sự tiết kiệm, lòng hiếu thảo. Đặc biệt là ở thế hệ trẻ, sự cân bằng giữa việc giữ gìn bản sắc và hội nhập là một bài toán khó. Nguy cơ mai một, đồng hóa bởi toàn cầu hóa và chủ nghĩa tiêu dung, một số giá trị truyền thống không còn phù hợp, cần thay đổi trong xã hội hiện đại.

 

Biến đổi cấu trúc gia đình và xã hội, mô hình gia đình truyền thống đa thế hệ đang dần nhường chỗ cho gia đình hạt nhân. Sự thay đổi này ảnh hưởng đến vai trò của người già, hệ thống giá trị về trách nhiệm nuôi dưỡng và kính trọng. Mặt trái của chủ nghĩa cá nhân, trong khi chủ nghĩa cá nhân phương Tây thúc đẩy sự sáng tạo và tự do, thì sự thiếu kiểm soát có thể dẫn đến sự suy yếu của ý thức cộng đồng, gây ra các vấn đề xã hội như sự thờ ơ, vô cảm.

 

Hai là: Rủi ro "thương mại hóa" giá trị, một số giá trị truyền thống bị đơn giản hóa, thương mại hóa để phục vụ mục đích kinh doanh hoặc du lịch, làm mất đi chiều sâu triết lý và ý nghĩa văn hóa vốn có, như việc biến các nghi lễ tôn giáo, di sản truyền thống bị lạm dụng, biến tướng, khai thác quá mức khi kinh doanh các sản phẩm văn hóa, du lịch.

 

Khai thác và lợi dụng cho mục đích chính trị, đôi khi các giá trị truyền thống có thể bị lợi dụng để biện minh cho các chế độ độc đoán, hạn chế quyền tự do cá nhân hoặc các chính sách không dân chủ dưới danh nghĩa "ổn định xã hội" hay "đặc thù văn hóa". Điều này đặt ra vấn đề, ở một số quốc gia, làm thế nào để phân biệt giữa việc phát huy giá trị bản sắc và việc sử dụng chúng như công cụ chính trị.

 

Ba là: Thách thức trong đối thoại giữa các nền văn hóa, làm thế nào để các giá trị phương Đông, phương Tây có thể đóng góp vào một hệ thống giá trị toàn cầu, không tạo ra xung đột, bị coi là đối lập hay loại trừ nhau? Cần có sự đối thoại tích cực, khoa học và cởi mở giữa các nền văn hóa, tìm ra những điểm chung và bổ trợ cho nhau.

 

Bởi vậy, yêu cầu thiết lập một khung định hướng giá trị mới, thể hiện sự phát triển của văn minh nhân loại, các giá trị phương Đông cần được nghiên cứu, phát huy mặt tích cực và diễn giải trong một khung lý luận khoa học, tránh sự thần bí hóa hoặc lý tưởng hóa quá mức, coi trọng giá trị phương Tây, coi nhẹ phương Đông hoặc ngược lại. Cần có sự tổng hợp giữa triết học phương Đông và các ngành khoa học xã hội đương đại như nhân chủng học, xã hội học, kinh tế học,.. đưa ra những phân tích sâu sắc hơn.

 

Bốn là: Vấn đề về nhân quyền và dân chủ, các giá trị phương Đông, với sự nhấn mạnh vào cộng đồng và nghĩa vụ, đôi khi bị hiểu lầm là mâu thuẫn với các khái niệm về nhân quyền và dân chủ phổ quát. Tuy nhiên, nhiều học giả đã chỉ ra rằng, các triết lý phương Đông cũng chứa đựng những yếu tố nhân văn sâu sắc về phẩm giá con người và quyền được mưu cầu hạnh phúc, chỉ là cách thể hiện và ưu tiên có khác biệt, điều quan trọng là làm thế nào để tìm ra điểm giao thoa và sự tương thích.

 

Năm là, vấn đề đức trị và pháp trị trong quản trị xã hội, đây là đặc điểm rõ nét của giá trị phương Đông được hầu hết các quốc gia ở khu vực này vận dụng trong quản trị xã hội, đảm bảo tính bền vững, phát huy được tính tích cực của các giá trị tốt đẹp của truyền thống lịch sử, văn hóa đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, đề cao tính pháp quyền, coi trọng pháp luật trong quản trị xã hội.

 

Tuy nhiên, cả đức trị và pháp trị trong quản trị xã hội thời đại mới đều chịu thách thức, xung đột lớn trong việc đảm bảo sự phù hợp, bổ trợ lẫn nhau giữa hai thành tố này như thế nào cho phù hợp, vừa tránh buông lỏng, cảm tính, chủ quan trong quản trị xã hội, vừa tránh sơ cứng, máy móc trong đảm bảo tính pháp quyền. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của AI, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, robot học sâu.. cũng tạo ra nhiều thách thức mới cho mối quan hệ này.

 

Các giá trị phương Đông đang trải qua những biến đổi mạnh mẽ trong thế giới đương đại, không chỉ là di sản của quá khứ mà còn là nguồn lực quan trọng để định hình tương lai. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tiềm năng, cần có sự nhận thức sâu sắc về giá trị, thẳng thắn đối mặt với các thách thức và tìm kiếm những cách thức sáng tạo để thích nghi và tích hợp các giá trị này vào dòng chảy văn minh nhân loại. Điều này đòi hỏi một quá trình đối thoại, tiếp biến không ngừng, một tư duy phê phán và một cam kết vững chắc trong việc bảo tồn và phát triển bản sắc, giá trị Phương Đông trong thời đại mới.

 

 

II. Nhận thức và phát huy các giá trị phương Đông ở Việt Nam

 

 Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, các giá trị tiến bộ phương Đông, tinh hoa của nhân loại trong quá trình dựng nước và giữ nước. Điều đó được thể hiện trong các văn bản quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, các quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật của Nhà nước ngay từ những ngày đầu đất nước độc lập. Trong Tuyên ngôn Độc lập (1945), Hồ Chí Minh đã dẫn lại Tuyên ngôn Độc lập Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1789), nhưng đồng thời khẳng định: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng; tạo hóa cho họ có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giá trị dân tộc, tinh thần phương Đông và tinh hoa nhân loại.

 

Tư tưởng đề cao vai trò của Nhân dân, lấy dân làm gốc, xây dựng Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do Nhân dân và vì Nhân dân luôn là nội dung xuyên suốt, nhất quán trong các chủ trương, quan điểm phát triển và Nhân dân chính là người được thụ hưởng từ những thành quả đó qua 80 năm giành độc lập, 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, rằng: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, hay “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.

 

Những giá trị cốt lõi trong truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được kết hợp, hòa quyện có chọn lọc với giá trị phương Đông, tinh hoa của nhân loại thể hiện trong Đề cương Văn hóa năm 1943 “ Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013; Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam 1991, 2011; văn kiện Đại hội qua các nhiệm kỳ đều thể hiện rõ tinh thần đó, nhấn mạnh vai trò của Nhân dân; quyền con người, tất cả vì con người, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau; đoàn kết là sức mạnh, nhân nghĩa, giữ gìn đạo đức cách mạng; phát huy dân chủ đi đôi với đảm bảo kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm..Cội nguồn các giá trị truyền thống của Việt Nam đều có ảnh hưởng của truyền thống tốt đẹp về lòng yêu nước qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc; ảnh hưởng của Khổng giáo, như tư tưởng về “nhân” (lòng nhân ái), “lễ” (trật tự, chuẩn mực ứng xử) và “nghĩa” (lẽ phải) đã khắc họa hình mẫu con người đạo đức, sống vì cộng đồng và đặt lợi ích chung lên trên cá nhân. Ở đó, con người gắn liền với đạo làm người, với sự tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ xã hội, chứ không chỉ là quyền tự nhiên của cá nhân. Ở Phật giáo, nhấn mạnh đến lòng từ bi, bình đẳng và giải thoát khổ đau. Tinh thần “từ, bi, hỷ, xả” trở thành nền tảng đạo đức, khẳng định giá trị phổ quát của con người, không phân biệt giai cấp hay địa vị xã hội. Ở Đạo giáo coi trọng sự hòa hợp giữa con người và tự nhiên, khuyến khích lối sống giản dị, thuận theo lẽ tự nhiên, đề cao tự do tinh thần và tính bình đẳng tự thân.

 

Đảng Cộng sản Việt Nam coi độc lập dân tộc là quyền cơ bản nhất của một dân tộc. Do đó, giành độc lập là điều kiện cơ bản hiện thực hóa quyền con người, mở đường cho các quyền cá nhân, người dân làm chủ đất nước. Theo đó, quyền công dân được bảo đảm rộng rãi, bao gồm cả quyền chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, và quyền kinh tế – xã hội. Đây chính là sự kết hợp giá trị phương Đông (đề cao cộng đồng, đạo lý) với tinh thần pháp quyền hiện đại, bảo đảm đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, thực sự coi “dân vi bản” và quyền phát triển của con người, đặt quyền con người trong mối quan hệ mật thiết với dân tộc, cộng đồng, và nghĩa vụ công dân đã tạo nên mô hình phát triển nhân quyền đặc thù của Việt Nam: Kết hợp giữa giá trị phương Đông (cộng đồng, đạo đức, hòa hợp) và giá trị phổ quát của nhân loại (quyền cá nhân, tự do, bình đẳng).

 

Phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc, giá trị phương Đông và tinh hoa của dân tộc, nhờ đó Việt Nam không chỉ xây dựng xã hội hài hòa, đoàn kết, ổn định mà còn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đề cao khát vọng phát triển, trong đó có các giá trị: i). Tính cộng đồng và hài hòa xã hội, gắn kết con người và xã hội, coi con người luôn là một thành viên của cộng đồng, của gia đình, làng xã, quốc gia. Do đó, quyền cá nhân con người luôn gắn liền với nghĩa vụ đối với cộng đồng. Việc thực hiện quyền con người được đặt trong khuôn khổ bảo đảm ổn định xã hội và sự hài hòa giữa các quan hệ. ii). Sự gắn bó giữa quyền và bổn phận, coi trọng sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ. Giáo dục ý thức tự thân cho mỗi công dân, mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội, “ mình vì mọi người, mọi người vì mình”, mỗi người không chỉ biết đòi hỏi quyền lợi, mà còn phải sống có trách nhiệm, giữ “lễ”, thực hiện bổn phận đối với xã hội.iii). Đề cao đạo đức, nhân nghĩa, đề cao giá trị đạo đức, yêu nước, thương dân, “lá lanh đùm lá rách”, xây dựng con người mới trên cơ sở đạo đức. Một xã hội công bằng không chỉ dựa trên luật pháp mà trước hết phải dựa trên đạo lý, các giá trị nhân ái, từ bi, khoan dung, khiêm nhường được coi là nền tảng để bảo đảm quyền con người. iv). Sự hòa hợp với tự nhiên, coi trọng mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Tư tưởng “thiên – nhân hợp nhất”, hay quan niệm “vạn vật bình đẳng” phản ánh ý thức sâu sắc về sự cân bằng sinh thái, coi trọng môi trường sống, vốn ngày càng trở thành một phần quan trọng của nhân quyền hiện đại…v) Khát vọng phát triển “ Mở cửa đón gió bốn phương”, hay “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”,đưa Việt Nam “ Sánh vai với các cường quốc năm châu”.. không chấp nhận nghèo nàn, lạc hậu, khuyến khích học hỏi, cầu thị, sáng tạo, tiếp thu văn minh của nhân loại.

 

Bảo tồn, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, Việt Nam chủ trương định hình các giá trị trong quá trình phát triển, đó là hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam. Ở đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn, có chọn lọc giữa giá trị phương Đông và phương Tây, giữa giá trị dân tộc với giá trị nhân loại, phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước, đó cũng là quá trình “ Dân tộc hóa các giá trị văn minh của nhân loại, quốc tế hóa các giá trị dân tộc Việt Nam”.

 

Kết hợp các giá trị phương Đông với phát huy các giá trị tinh thần quý báu của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, coi văn hóa là nền tảng phát triển, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên.

 

Chính vì vậy, cùng với việc tìm kiếm con đường, mô hình phát triển, chủ trương đổi mới, ổn định và phát triển và phát triển để ổn định. Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân.

 

Trong quá trình đó, Việt Nam chủ trương mở rộng và phát huy dân chủ, coi trọng quyền con người, phát huy sức sáng tạo của người dân, nhân dân tham gia quyết định những vấn đề lớn của đất nước. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, tham gia sâu rộng vào các định chế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, kết hợp các giá trị truyền thống với chuẩn mực quốc tế trong quản trị xã hội và hội nhập quốc tế. Nhờ đó, sau 40 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử như ngày nay, đó là: Thực hiện thành công nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ, trong đó giảm nghèo từ hơn 50% (thập niên 1990) xuống dưới 1,93 (2024), theo chuẩn nghèo đa chiều; chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục tăng; phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; bình đẳng giới được cải thiện rõ rệt.

 

Từ một nước nghèo và kém phát triển, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế đứng thứ 32 trên thế giới, có môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, là điểm đến của nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới. Đất nước đang vững vàng hướng tới là nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập vào năm 2045. Giáo dục, đào tạo luôn được quan tâm, khoa học, công nghệ có bước phát triển mạnh mẽ; an sinh xã hội luôn được coi trọng, đã cơ bản xóa nhà dột nát, thực hiện miễn học phí cho giáo dục phổ thông công lập.

 

Trong lĩnh vực chính trị, Việt Nam luôn được coi là đất nước có sự ổn định chính trị, an toàn về xã hội trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, quyền làm chủ của người dân được đảm bảo, dân chủ ở cơ sở được quan tâm, phát huy vai trò người dân tham gia quản lý xã hội. Trong đối ngoại, Việt Nam có quan hệ đối ngoại với 94 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia sâu vào nhiều định chế quốc tế quan trọng, trong đó nhiều lần được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, như: Là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc các nhiệm kỳ (2006–2008, 2014–2016, 2023–2025), tham gia hầu hết các công ước quốc tế trên nhiều lĩnh vực,  đây là minh chứng cho sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế, dựa trên sự hài hòa Đông – Tây, qua đó không chỉ bảo tồn và phát huy giá trị phương Đông mà còn chủ động kết hợp với các giá trị phương Tây, điều đó càng khẳng định cách tiếp cận phát triển của Việt Nam là phù hợp.

 

Sự kết hợp giá trị phương Đông, phương Tây trong bảo vệ quyền con người ở Việt Nam được bảo đảm, phù hợp với thực tiễn đất nước. Hiến pháp 2013 đã khẳng định đầy đủ quyền con người, được cụ thể hóa trong luật pháp, cải cách tư pháp, cải cách hành chính để các quyền được thực thi hiệu quả, minh bạch, công bằng. Quyền con người được thể hiện trên thực tế, trong thực thi các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo hướng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tích cực cử lực lượng gìn giữ hòa bình, tham gia giúp đỡ các quốc gia, những nơi gặp nhiều khó khăn, khắc phục thảm họa tự nhiên về thiên tai, sóng thần, động đất..

 

 

III. Định hướng phát huy các giá trị phương Đông trong thời đại mới

 

Một là: Bảo tồn, phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc, chọn lọc, kế thừa tinh hoa giá trị phương Đông trong phát triển đất nước. Trong thời đại mới, Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hướng tới thịnh vượng, có vị thế, uy tín ngày càng cao trên trường quốc tế, việc đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp tục nhận diện, làm sâu sắc hơn giá trị tốt đẹp của dân tộc trong dòng chảy giá trị phương Đông, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực của phương Tây, tinh hoa của nhân loại để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới. Đó là quá trình chọn lọc, đánh giá những giá trị tích cực, tiến bộ trong di sản phong phú của truyền thống dân tộc, của văn hóa phương Đông, đồng thời loại bỏ những yếu tố lạc hậu, không còn phù hợp với thời đại mới, nhất là quá trình toàn cầu hóa sâu rộng và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Những giá trị như tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, trọng danh dự, trật tự xã hội, trật tự gia đình, hiếu thảo, đề cao học vấn, hòa hợp với thiện nhiên, cần được bảo tồn. Đồng thời, những quan niệm bảo thủ, trọng lễ hơn lý, định kiến giới cần loại bỏ. Mặt khác, cần nhận thức đúng việc kế thừa, tiếp nối các giá trị truyền thống, phù hợp với điều kiện mới, đây là quá trình hoàn toàn không phải là sao chép máy móc, mà là quá trình vận dụng linh hoạt, phát huy các yếu tố tích cực trong truyền thống, phù hợp với xã hội hiện đại, như tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo được kế thừa thành đề cao tri thức, sáng tạo và học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập. Việc sáng tạo trên nền tảng giá trị truyền thống là bước phát triển cao hơn của kế thừa, thể hiện khả năng làm mới và nâng tầm các giá trị truyền thống bằng tư duy hiện đại, như kết hợp mỹ học truyền thống, tinh thần hòa hợp hay triết lý nhân sinh phương Đông trong nghệ thuật, thiết kế và công nghiệp văn hóa đương đại cho thấy tính đặc sắc, sức sống mãnh liệt của các giá trị truyền thống..

 

Hai là: Tích hợp giá trị phương Đông vào giáo dục, công nghệ, quản trị xã hội. Đây là yêu cầu có ý nghĩa quan trọng, lâu dài trong bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống dân tộc, tinh hoa nhân loại để phát triển đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh mới. Mục tiêu, khát vọng phát triển của Việt Nam không chỉ nhanh, bền vững mà còn thấm đẫm giá trị tốt đẹp, tinh thần dân tộc, bản sắc Việt Nam, dấu ấn phương Đông, vừa khai thác được tính sáng tạo, hiệu quả của giá trị phương Tây, vừa tạo nền tảng của sự ổn định, bền vững, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam thời đại mới thông qua giáo dục, khoa học và quản trị xã hội. Trong giáo dục, việc tích hợp giá trị phương Đông thể hiện ở chỗ đề cao đạo học, đạo làm người, nhân cách và tinh thần “ học để làm người” trước khi “ học để làm việc”. Chuyển từ coi trọng “bằng cấp” sang “thực học, thực việc”, chuyển từ coi trọng “ danh” sang “ coi trọng kỹ năng, phẩm chất” người học. Thực sự coi người học là trung tâm, giáo viên là động lực, đổi mới, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. Trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, giúp cho con người sử dụng công nghệ một cách nhân bản, có đạo lý thay vì chạy theo tốc độ, lợi nhuận.  Khoa học phục vụ con người, vì con người, vì hạnh phúc của Nhân dân, bảo đảm hài hòa, tôn trọng quyền con người. Các triết lý phương Đông như “ Vô vi nhi trị” hay “ Thiên nhân hợp nhất” có thể gợi mở tốt  cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ.. Trong quản trị xã hội, các giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, giá trị phương Đông đề cao tinh thần cộng đồng, sự đồng thuận “ cầu đồng, tồn dị”, “ tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”…là cơ sở để phát huy tính bền vững, đồng thuận, kết hợp đức trị với pháp trị trong quản trị xã hội, kết hợp truyền thống và hiện đại trong điều kiện mới.

 

Ba là: Kết hợp hài hòa với tinh hoa phương Tây để hình thành giá trị chung nhân loại. Sự phát triển của văn minh nhân loại gắn liền với sự bổ sung, gia tăng các giá trị chung của nhân loại trên cơ sở kết hợp các giá trị truyền thống tốt đẹp, bổ trợ lẫn nhau giữa các nền văn minh, trong đó có các giá trị phương Đông và phương Tây. Mỗi khu vực các giá trị có những đặc điểm, thế mạnh khác nhau, phương Đông đề cao tính hài hòa, cộng đồng, đạo đức, tinh thần, các giá trị hướng nội, coi trọng sự cân bằng giữa con người và thiên nhiên. Trong khi đó, phương Tây nhấn mạnh lý tính, tự do cá nhân, khoa học và tinh thần sáng tạo, những giá trị hướng ngoại, thúc đẩy sự tiến bộ về vật chất và xã hội. Trong thời đại mới, sự giao thoa, tiếp biến giữa hai hệ thống giá trị này tạo điều kiện hình thành hệ giá trị chung của nhân loại, kết hợp giữa tinh thần duy lý phương Tây với triết lý nhân văn phương Đông, con người và xã hội không chỉ hướng tới văn minh vật chất, mà còn hướng tới văn minh tinh thần, đạo đức. Các giá trị như: Tự do- trách nhiệm, cá nhân- cộng đồng, sáng tạo- hài hòa trở thành những mối quan hệ, giá trị chung, tạo điều kiện cho sự bền vững, toàn diện cho một xã hội hiện đại. Giá trị chung của nhân loại không phải là sự hòa tan giữa các giá trị, các nền văn hóa, mà là sự hội tụ tinh hoa của các quốc gia, dân tộc, trong đó mọi giá trị, văn minh đều được tôn trọng, mọi khác biệt đều được thấu hiểu, hướng tới một thế giới hài hòa, đề cao trí tuệ, lòng nhân ái, sự tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ giữa con người, cộng đồng, quốc gia, dân tộc.

 

 

Bốn là: Vai trò thế hệ trẻ, học giả, chính sách trong bảo tồn, lan tỏa giá trị phương Đông. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng của dân tộc, việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị tốt đẹp của phương Đông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ở đó từng thành tố có một vị trí quan trọng khác nhau, trong đó, thế hệ trẻ đóng vai trò trung tâm trong quá trình kế thừa và đổi mới, vừa là chủ thể tiếp nhận các giá trị tinh hoa truyền thống, đồng thời có khả năng hấp thụ, chuyển hóa và thể hiện lại các giá trị dân tộc, giá trị phương Đông bằng ngôn ngữ hiện đại, phù hợp với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, AI, dữ liệu lớn. Đồng thời, chính thế hệ trẻ lại trực tiếp sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, truyền thông và công nghệ măng dấu ấn bản sắc quốc gia, giá trị phương Đông ở tầm vóc quốc tế. Đối với trí thức, học giả, nhà nghiên cứu, nghệ nhân giữ vai trò là cầu nối, hạt nhân kết nối giữa truyền thống và hiện đại, đây là những chủ thể hết sức quan trọng thông qua những hoạt động chuyên sâu, nghề nghiệp hệ thống, giải mã và tái định vị các giá trị phương Đông trong điều kiện mới, tạo cơ sở lý luận, khoa học cho giáo dục, trao truyền các giá trị văn hóa, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, lan tỏa và quốc tế hóa giá trị phương Đông và dân tộc hóa giá trị chung của nhân loại. Ngoài ra, chính sách của Nhà nước giữ vai trò định hướng và bảo đảm nguồn lực, giúp cho những chủ trương, giá trị được thể hiện trên thực tế. Các chương trình bảo tồn di sản, khuyến khích sáng tạo, công nghiệp văn hóa.. chính là nền tảng để bản sắc dân tộc, giá trị phương Đông được duy trì và lan tỏa.

 

Năm là, tiếp tục  hoàn thiện, cụ thể hóa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Việc hoàn thiện, cụ thể hóa hệ thống các giá trị nêu trên trong kỷ nguyên mới, không chỉ là yêu cầu cấp bách, đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, mà còn là giải pháp hiệu quả để bảo tồn, lan tỏa các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, thể hiện sâu sắc phương Đông trong điều kiện mới. trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều giá trị truyền thống, dân tộc dễ bị phai nhạt, thay thế bởi lối sống thực dụng, thương mại hóa, thậm chí xâm lăng văn hóa từ bên ngoài, vì vậy, việc hoàn thiện các hệ giá trị nêu trên càng trở nên cấp bách. Trong đó, hệ giá trị quốc gia cần thể hiện rõ khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, độc lập, tự chủ chiến lược, đi đôi với tự lực, tự cường, tôn trọng các giá trị chung của nhân loại. Hệ giá trị văn hóa phải khơi dậy tinh thần sáng tạo, lòng nhân ái, tính cộng đồng và bản sắc dân tộc. Hệ giá trị gia đình phải kế thừa, coi trọng việc gìn giữ giá trị, chuẩn mực đạo đức, nơi hình thành nhân cách con người, thông qua tình yêu thương, hiếu nghĩa, trách nhiệm và sự tôn trọng lẫn nhau. Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam cần được phát triển hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, vừa đề cao nhân, nghĩa, lễ, trí, tín vừa khuyến khích tinh thần sáng tạo, trung thực, kỷ luật và hội nhập. Khi các hệ giá trị này được hoàn thiện, cụ thể hóa và thực hiện trong cuộc sống, sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, giúp đất nước phát triển nhanh và bền vững, mang đậm bản sắc Việt Nam, góp phần lan tỏa tinh hoa phương Đông ra thế giới.

 

Rõ ràng rằng, giá trị phương Đông không chỉ là di sản văn hóa, mà còn là nguồn lực tinh thần giúp Việt Nam vượt qua khó khăn, khẳng định bản lĩnh và bản sắc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh và sự phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong công cuộc Đổi mới, đã cho thấy, chủ trương của Việt Nam là kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa phương Đông và phương Tây, giữa dân tộc và nhân loại. Đây chính là đóng góp quan trọng của Việt Nam vào kho tàng lý luận và thực tiễn trong sự phát triển của văn minh nhân loại./.

 

PGS.TS Phạm Văn Linh*

TS Nguyễn Tiến Dũng**

 

 

Tài liệu tham khảo

  1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011).
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
  3. Nghị quyết 71- NQ/TW (2025) của Bộ Chính trị khóa XIII, đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
  4. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2022.

* Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW

** Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận TW

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết