Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta thật sự xứng đáng với sự tin cậy của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc vì đã lãnh đạo toàn dân làm nên những chiến công hiển hách: hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn đó làm cho mối quan hệ giữa Đảng với dân ngày càng thêm gắn bó, trở thành mối quan hệ máu thịt.
"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân"
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: "nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" (1). Vì vậy, Đảng phải luôn lấy lợi ích của nhân dân, ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu để phấn đấu.
Trong tác phẩm "Dân vận", Bác đã khái quát bản chất mối quan hệ giữa dân và Đảng trong bảy câu:
"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". (2)
Vì thế, ở tất cả các giai đoạn cách mạng, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, Đảng đều hết sức quan tâm, chăm lo xây dựng, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, tạo nên nét độc đáo trong quan niệm của Đảng về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Lịch sử và thực tế đã chứng minh, trong suốt quá trình cầm quyền của mình, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mưu cầu lợi ích cho nhân dân, Tổ quốc và dân tộc.
Sau 15 năm có Đảng, chỉ với 5 nghìn đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vùng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ ách thống trị gần 100 năm của chế độ phong kiến, thực dân, lập nên nhà nước công nông đầu tiền ở Đông Nam Á. Vượt qua những thử thách khắc nghiệt để bảo vệ nền độc lập dân tộc, Đảng ta tiếp tục nuôi dưỡng và nhân lên sức mạnh quật cường của dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền và lãnh thổ quốc gia.
Đáp lại sự trung thành của Đảng, các tầng lớp nhân dân rất mực tin yêu, một lòng theo Đảng, đoàn kết dưới lá cờ Đảng làm nên sức mạnh to lớn đánh đuổi mọi kẻ thù xâm lược, xây dựng, phát triển đất nước ngày càng phát triển.
Khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng và tầm nhìn
Đại thắng Mùa Xuân 1975 đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, song cũng đặt ra thách thức chưa từng có. Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn, cơ sở hạ tầng kiệt quệ, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại bị bao vây cấm vận... Trong bối cảnh đó, Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đồng thời lãnh đạo nhân dân tiến hành khôi phục kinh tế, ổn định đời sống. Đặc biệt, tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta đã khởi xướng công cuộc Đổi mới.
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua mọi khó khăn, vươn tới những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo, lạc hậu bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm.
Trong nhiều năm liên tiếp, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ổn định ở mức trung bình 6-7%/năm, bất chấp những biến động lớn của kinh tế toàn cầu. Ngay cả trong những giai đoạn thử thách như cuộc khủng hoảng tài chính 2008 hay đại dịch COVID-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn chứng tỏ khả năng phục hồi nhanh chóng.
Quy mô nền kinh tế tăng từ 346 tỷ USD năm 2020 lên khoảng 510 tỷ USD năm 2025, xếp hạng 32 thế giới. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, gấp 1,4 lần năm 2020, đưa Việt Nam vào nhóm thu nhập trung bình cao.
Từ chỗ thiếu đói, phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam vươn lên trở thành cường quốc xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, cùng nhiều nông sản chủ lực, như: cà phê, hồ tiêu, hạt điều và trái cây nhiệt đới. Nông nghiệp không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành một trong những trụ cột đưa Việt Nam hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2024, giá trị xuất khẩu nông-lâm-thủy sản đạt 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với 2023, mức cao nhất từ trước đến nay.
Nếu như nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế thì công nghiệp-xây dựng giữ vai trò đầu tàu trong quá trình hiện đại hóa đất nước. Từ những ngành nhỏ bé, manh mún, đến nay Việt Nam đã hình thành các ngành sản xuất mũi nhọn: dệt may, da giày, điện tử, sản xuất ô tô, điện thoại di động. Công nghiệp chế biến, chế tạo vươn lên trở thành động lực chính của tăng trưởng, trong khi lĩnh vực xây dựng phát triển mạnh mẽ với hệ thống hạ tầng ngày càng hiện đại. Hiện nay, khu vực công nghiệp-xây dựng hiện đóng góp 38% GDP.
Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA). Đặc biệt, việc tham gia các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA đã mở ra không gian hợp tác rộng lớn, giúp hàng hóa Việt Nam tiếp cận thuận lợi các thị trường hàng đầu ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á-Thái Bình Dương. Nhờ đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng, năm 2024 đạt hơn 807 tỷ USD, xuất siêu gần 25 tỷ USD - năm thứ 9 xuất siêu liên tiếp.
Những thành tựu về kinh tế là điều kiện tất yếu mang lại những thay đổi to lớn trong đời sống nhân dân. Hệ thống y tế, giáo dục, an sinh xã hội được củng cố với nhiều chính sách nhân văn, bảo đảm công bằng và lan tỏa sự phát triển đến mọi vùng, mọi đối tượng. Tỷ lệ nghèo giảm mạnh, thu nhập và chất lượng sống nâng lên rõ rệt. Trong giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,4% năm 2021 xuống 1,3% năm 2025, tương đương mức giảm 3,1% trong 5 năm.
Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao. Cục diện đối ngoại không ngừng được mở rộng; vị thế, uy tín của đất nước không ngừng được nâng cao, có những đóng góp tích cực vào giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu, đã thực hiện nhiều nhiệm vụ trong vai trò thành viên ASEAN, Liên hợp quốc và các tổ chức, thể chế quốc tế khác, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 195 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 31 nước, trong đó có tất cả nước lớn và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế.
Trong Diễn văn Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, với ánh sáng Hồ Chí Minh soi đường, dựa vào sức mạnh nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không có khó khăn, thử thách nào mà nhân dân ta không vượt qua; không có mục tiêu cao đẹp nào mà dân tộc ta không đạt tới. Chính vì vậy, không có lực cản nào, không có lý do gì có thể ngăn bước chúng ta vươn tới hòa bình, thịnh vượng, dân tộc ta trường tồn và phát triển.
Có thể khẳng định, 90 năm có Đảng là 90 năm đầy ắp niềm tin yêu và thấm đẫm “tình dân, nghĩa Đảng”. Nếu trong chiến tranh, Đảng là linh hồn của kháng chiến, thì trong hòa bình, Đảng kiến tạo, định hướng cho đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc./.
Theo TTXVN
(1): Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr.515.
(2): Sđd, t.5, tr.698.