1. Kết quả đạt được
(1) Về phát triển lực lượng sản xuất
Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam được cải thiện trên nhiều mặt.Tỷ lệ biết chữ của dân số tăng từ 87,3% năm 1989 lên 93,7% năm 2010 và đạt 95,1% năm 2017. Tỷ lệ lao động qua đào tạo (có bằng cấp, chứng chỉ) tăng từ 10,3% năm 2000 lên 14,6% năm 2010 và đạt 21,4% năm 2017. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng dần qua các năm, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 72,9 tuổi năm 2010 và đạt 73,5 tuổi năm 2017. Tầm vóc thể lực của người Việt Nam cũng có bước cải thiện, chiều cao trung bình của thanh niên hiện nay đã tăng thêm 3 cm so với năm 1993. Trình độ dân trí được nâng lên, người dân tộc thiểu số, nhóm dân cư yếu thế được Nhà nước chăm lo, hỗ trợ và tạo điều kiện tiếp cận bình đẳng trong giáo dục, y tế. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm liên tục từ 62,2% năm 2000 xuống còn 49,5% năm 2010, 38,1% năm 2018. Tỷ trọng lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo có công nghệ cao cũng tăng lên đáng kể, từ 13,8% năm 2010 tăng lên 17,2% năm 2014 và đạt 20,3% năm 2017. Tỷ lệ lao động có trình độ từ đại học trở lên của lực lượng lao động tăng từ 5,7% năm 2010 lên 9,3% năm 2017 đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại.
Năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động toàn nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành năm 2018 đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD/lao động). Tính theo giá so sánh, NSLĐ của toàn nền kinh tế tăng bình quân 4,9%/năm trong giai đoạn 2011-2018 (giai đoạn 2001-2010 tăng 3,4%/năm).
Môi trường đầu tư liên tục được cải thiện đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2018 đạt 1.856,6 nghìn tỷ đồng, bằng 33,5% GDP và gấp 2,2 lần vốn đầu tư năm 2010. Tính chung cả giai đoạn 2011-2018 tổng vốn đầu tư phát triển đạt 10.630,8 nghìn tỷ đồng, bằng 32,4% GDP.
Tài nguyên đất đai, khoáng sản và các nguồn tài nguyên khác là nguồn lực rất quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội; công tác quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất nước luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tổng diện tích đất sử dụng vào các mục đích nông nghiệp, phi nông nghiệp của cả nước tăng nhanh, từ 18.881,3 nghìn ha năm 2000 (chiếm 57% tổng diện tích đất tự nhiên) lên 29.931,4 nghìn ha năm 2010 (chiếm 90,4%) và đạt 31.010,2 nghìn ha năm 2017 (chiếm 96,6%). Tổng giá trị trữ lượng các mỏ khoáng sản đã cấp phép khai thác đến nay khoảng 1.800 tỷ đồng (tương đương 78 tỷ USD). Tính chung giai đoạn 2011-2018, tổng sản lượng than khai thác đạt 331,3 triệu tấn; sản lượng dầu thô khai thác đạt 118,5 triệu tấn.
Cơ sở vật chất và hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.Về giao thông, mạng lưới đường bộ của nước ta hiện có 364,0 nghìn km, trong đó đường cao tốc khai thác 14 tuyến với chiều dài khoảng 816,6 km; quốc lộ có 145 tuyến với chiều dài 23.862 km. Đường sắt quốc gia có 3.159,9 km. Đường thủy nội địa hiện đang khai thác, quản lý khoảng 17,2 nghìn km. Giao thông hàng hải có 32 cảng biển với năng lực khai thác năm 2016 khoảng 460 triệu tấn hàng hóa. Vận tải hàng không có 21 cảng, sân bay với tổng công suất đạt 77,75 triệu hành khách/năm và 1,01 triệu tấn hàng hóa/năm.
Hạ tầng cung cấp điện được đầu tư phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Tổng công suất lắp đặt nguồn điện năm 2016 toàn hệ thống đạt 42.341 MW, gấp 3,4 lần năm 2005, bao gồm: thuỷ điện và năng lượng tái tạo đạt 18.917 MW, chiếm 44,7%; nhiệt điện than 14.510 MW, chiếm 34,3%; nhiệt điện khí 7.438 MW, chiếm 17,5%; nhiệt điện dầu 1.476 MW, chiếm 3,5%. Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin được xây dựng rộng khắp, tương đối hiện đại; hệ thống mạng viễn thông, thông tin quốc gia phát triển nhanh với công nghệ tiên tiến, bao phủ khắp cả nước, kết nối với các nước trong khu vực và thế giới.
Tính đến ngày 31/12/2015, cả nước có 305 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích gần 86 nghìn ha; 16 khu kinh tế ven biển với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 172,3 nghìn tỷ đồng; 26 khu kinh tế cửa khẩu đã được thành lập với tổng diện tích khoảng 660 nghìn ha. Có thể nói, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ được Đảng ta xác định là một trong những bước đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nói riêng.
Quy mô khu vực doanh nghiệp tăng nhanh, số doanh nghiệp thành lập mới trong giai đoạn 2011-2018 gấp 1,4 lần giai đoạn 1991-2010. Tại thời điểm 31/12/2017 cả nước có 560,4 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động (thu hút 14,5 triệu lao động) với số vốn đạt 33 triệu tỷ đồng, gấp 13,3 lần số doanh nghiệp cùng thời điểm năm 2000 (năm đầu tiên Luật Doanh nghiệp có hiệu lực) và gấp 2 lần năm 2010. Năm 2017, cả nước có 5,1 triệu cơ sở kinh tế cá thể phi nông nghiệp (với tổng số 8,6 triệu lao động), tăng 37,2% so với năm 2007 và gấp 2,7 gần so với năm 1995.
Khoa học và công nghệ đã có sự phát triển đáng kể cả về năng lực và khả năng ứng dụng vào thực tiễn; đã hình thành hệ thống tổ chức khoa học, công nghệ bao quát trên nhiều lĩnh vực.Tính đến năm 2014, cả nước có 505 tổ chức nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ cùng với hệ thống các cơ sở giáo dục đại học có nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển; 212 tổ chức dịch vụ khoa học, công nghệ. Ngoài ra còn có 3 khu công nghệ cao; 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và 16 phòng thí nghiệm trọng điểm được thành lập. Tổng số nhân lực nghiên cứu và phát triển của cả nước năm 2015 là 167,7 nghìn người, tăng 24,5% so với năm 2011, trong đó: Cán bộ nghiên cứu là 131 nghìn người; cán bộ kỹ thuật 11,5 nghìn người; cán bộ hỗ trợ 16,9 nghìn người; người làm chức năng khác 8,2 nghìn người. Trong số 131 nghìn cán bộ nghiên cứu, có 14,4 nghìn tiến sỹ; 51,1 nghìn thạc sỹ; 60,7 nghìn người có trình độ đại học và 4,8 nghìn người có trình độ cao đẳng. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Với việc giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sau 30 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với trên 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lập môi trường thu hút mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho phát triển. Quy mô và tiềm lực kinh tế không ngừng được nâng lên.Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều thời kỳ trước đổi mới, cụ thể: Sau những năm đầu đổi mới (1986-1990) với tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%/năm, Việt Nam đã có gần 20 năm đạt mức tăng trưởng rất ấn tượng, trong đó GDP giai đoạn 1991-2000 tăng bình quân 7,57%/năm; giai đoạn 2001-2010 tăng bình quân 6,82%. Trong những năm đầu thế kỷ 21, mặc dù đối mặt với cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với sự mất cân đối trong nhiều năm của nội tại nền kinh tế, nhưng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và của cả hệ thống chính trị, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý và lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ tăng GDP bình quân cả giai đoạn 2011-2018 đạt 6,2%/năm, là quốc gia có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.
Quy mô nền kinh tế không ngừng được mở rộng, từ một nước có GDP năm 1990 chỉ đạt khoảng 6,4 tỷ USD (xếp vị trí thứ 90 thế giới), đến năm 2010 tăng lên 110,7 tỷ USD (xếp vị trí 56 thế giới); năm 2017 đạt 223,7 tỷ USD (xếp vị trí 45 thế giới) và năm 2018 ước tính đạt 244,9 tỷ USD, gấp 2,2 lần quy mô GDP năm 2010 và gấp 38 lần quy mô GDP năm 1990. GDP bình quân đầu người tăng lên qua các thời kỳ: Từ mức 98 USD năm 1990 lên 1.145 USD năm 2008 (thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp); năm 2010 đạt 1.273 USD, gấp 13 lần năm 1990; năm 2017 đạt 2.389 USD, gấp 1,9 lần năm 2010[1] và năm 2018 ước tính đạt 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng lên, từ mức 4,28% trong giai đoạn 2001-2010 tăng lên 33,58% trong giai đoạn 2011-2015 và đạt 43,3% trong giai đoạn 2016-2018.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển tích cực. Ngành công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo ngày càng khẳng định vai trò dẫn dắt và là động lực tăng trưởng. Nông nghiệp phát triển khá ổn định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến quan trọng. Từ chỗ cả nước còn thiếu ăn, đến nay trở thành nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản đứng thứ hạng cao trên thế giới. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng hơn, theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm có năng lực cạnh tranh, hiện đại, chất lượng. Ngành du lịch phát triển với tốc độ nhanh, năm 2018 ước tính đón gần 15,5 triệu lượt khách quốc tế. Các ngành dịch vụ bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Sự phát triển lực lượng sản xuất, CNH, HĐH đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, giảm dần khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản trong GDP giảm từ mức 38,7% năm 1990 xuống 18,9% năm 2010 và còn 14,9% năm 2018; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% năm 1990 lên 38,2% năm 2010 và 39,5% năm 2018; khu vực dịch vụ từ 38,6% lên 42,9% và 45,6%[2].
Về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước đã đạt nhiều thành tựu quan trọng về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong 30 năm đổi mới, nước ta đã ba lần sửa đổi, ban hành Hiến pháp và hơn 150 bộ luật, luật và hơn 70 pháp lệnh.
Đặc biệt, Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua với hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp đã cơ bản tạo lập cơ sở pháp lý hình thành và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế ngày càng thể hiện vai trò tích cực. Doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục được tập trung thực hiện cơ cấu lại, thể hiện đúng vai trò trong nền kinh tế. Kinh tế tập thể bước đầu đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và xuất khẩu.
Cơ cấu theo thành phần kinh tế có sự chuyển dịch rõ nét. Tỷ trọng khu vực Nhà nước trong GDP đã giảm từ 39,7% năm 1986 xuống còn 29,3% năm 2010 và còn 28,6% năm 2017 do kết quả của quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước[3]; tỷ trọng khu vực kinh tế tập thể giảm từ 60,3% năm 1986 xuống còn 4% năm 2010 và đến năm 2017 chỉ còn 3,8%. Kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể từ chỗ năm 1986 hầu như không có, đến năm 2010 đã tăng lên chiếm 39% GDP và năm 2017 chiếm 38% GDP. Tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,3% năm 1995 lên 15,2% năm 2010 và đến năm 2017 chiếm 19,6% GDP. Cơ cấu lao động cũng chuyển biến mạnh: Nếu năm 1986, lao động khu vực Nhà nước chiếm 15,5% tổng số lao động của cả nước, khu vực ngoài Nhà nước chiếm 84,5% thì đến năm 2010 khu vực Nhà nước chỉ còn chiếm 10,2%; khu vực ngoài Nhà nước chiếm 86,3% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 3,5%. Năm 2017, cơ cấu lao động trong 3 khu vực tương ứng là 8,6%; 83,6% và 7,8%.
Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ cấu hàng hóa - thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, mức độ cạnh tranh. Thị trường tài chính, tiền tệ phát triển khá mạnh và sôi động. Bên cạnh kênh huy động vốn từ ngân hàng, thị trường chứng khoán bước đầu hình thành, góp phần đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư. Đồng thời, hoạt động của thị trường bảo hiểm đã đóng góp tích cực vào việc ổn định sản xuất và đời sống dân cư, huy động vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Thị trường bất động sản có bước phát triển nhanh chóng. Thị trường lao động được hình thành trên phạm vi cả nước. Thị trường khoa học - công nghệ đang hình thành và phát triển, số lượng và giá trị giao dịch công nghệ có bước tiến đáng kể trong những năm gần đây.Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản, nhất là về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước tham gia.
Về hội nhập quốc tế, với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, qua 30 năm đổi mới, từ thế bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước và quan hệ thương mại với gần 200 nền kinh tế trên thế giới. Tính đến nay, Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ thương mại tự do với gần 60 nước thông qua 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), bao gồm cả các FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA);… hiện đang tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu từ mức 5 tỷ USD những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, đến năm 2018 đã tăng lên đạt mức kỷ lục với 482,2 tỷ USD, gấp 2,4 lần năm 2011 và gấp 16 lần năm 2000, trong đó: Xuất khẩu năm 2018 đạt 244,7 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 2011 và gấp 16,9 lần năm 2000; kim ngạch nhập khẩu đạt 237,5 tỷ USD, gấp 2,2 lần năm 2011 và gấp 15,2 lần năm 2000.
Kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài (1987) đến nay, Việt Nam đã thu hút được nguồn vốn lớn cho phát triển và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tính đến hết năm 2017, Việt Nam đã thu hút 26.746 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đạt 378,7 tỷ USD. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện giai đoạn 1988-2017 đạt 172 tỷ USD.
(2) Về quan hệ sản xuất
Thứ nhất,đã đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta đa dạng, không đồng đều do đó phải xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp. Cùng với tiến trình xã hội hóa lực lượng sản xuất do công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản của sự phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự hình thành đa dạng các hình thức sở hữu hỗn hợp, đan kết lẫn nhau giữa hai nhân tố công hữu và tư hữu bằng những hình thức kinh tế trung gian quá độ. Trong đó, nhân tố công hữu đã và đang thay đổi, vừa phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, vừa phải làm tốt vai trò chi phối và chủ đạo trong nền kinh tế.
Đến nay, các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước nhằm tạo sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị, gắn với công bằng xã hội. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đao, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Thứ hai, cơ chế quản lý kinh tế: Chuyển hẳn từ nền kinh tế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Kết quả của cơ chế quản lý kinh tế được thể hiện rõ nét trong các ngành kinh tế lớn như sau:
Trong nông, lâm nghiệp và thủy sản: Mô hình quan hệ sản xuất nông nghiệp ngày càng hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ mô hình dồn điền, đổi thửa; mô hình trang trại hộ gia đình, nhóm hộ gia đình, doanh nghiệp hộ gia đình rồi đến hợp tác xã kiểu mới và bây giờ là mô hình liên kết giữa doanh nghiệp nông nghiệp chuyên nghiệp và các hộ nông dân. Nếu như mô hình dồn điền, đổi thửa được coi là sự khởi đầu của quá trình tập trung đất đai thì mô hình trang trại hộ gia đình là mô hình phát triển mang tính tự nhiên nhưng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực của những nông dân tiên tiến, thực sự muốn đi lên làm giàu từ nông nghiệp. Còn mô hình hợp tác xã kiểu mới chỉ giúp các hộ xã viên những khâu dịch vụ như cung cấp giống cây trồng hay vật nuôi; tìm kiếm quy trình sản xuất hiện đại hay tập trung tiếp cận thị trường. Các hộ gia đình vẫn tự canh tác trên đất đai của mình theo một quy trình sản xuất được hợp tác xã hướng dẫn. Trên thực tế mô hình này chưa có sức hút lớn đối với các hộ nông dân, chưa khẳng định được vai trò chủ đạo trong phát triển nông nghiệp quy mô lớn dựa trên công nghệ cao, hạ tầng hiện đại. Theo đánh giá chung, mô hình liên kết giữa doanh nghiệp nông nghiệp chuyên nghiệp và hộ nông dân được coi là mối quan hệ sản xuất có triển vọng nhất dựa trên nguyên tắc nông dân có đất, doanh nghiệp có tài chính và công nghệ để nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản.
Trong các ngành kinh tế phi nông, lâm nghiệp và thủy sản: Từ cơ chế quản lý kinh tế cũ theo mô hình xí nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác hình thành nên cơ chế quản lý kinh tế thị trường theo mô hình doanh nghiệp, công ty, tổng công ty, tập đoàn. Năm 2017, có thêm 69 DNNN được phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng vốn điều lệ trên 161 nghìn tỷ đồng (dự kiến Nhà nước nắm giữ 53%, cổ đông chiến lược 31%, người lao động 1%, tổ chức công đoàn 0,02% và bán đấu giá ra bên ngoài 15%). Theo báo cáo sơ bộ, số nhóm ngành, lĩnh vực Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ giảm mạnh (năm 2011 là 20 nhóm ngành, lĩnh vực; cuối năm 2016 còn 11 nhóm ngành, lĩnh vực). Đến hết năm 2017, cả nước còn 583 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ[4]. Năm 2017, giá trị vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định lại là 160,1 nghìn tỷ đồng, gấp 6,34 lần năm 2016. Tổng thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nộp về ngân sách năm 2017 đạt gần 145 nghìn tỷ đồng (cao hơn nhiều so với chỉ tiêu 60 nghìn tỷ đồng Quốc hội giao năm 2017), trong đó thu từ cổ phần hóa là 5,2 nghìn tỷ đồng; thu từ thoái vốn 139,4 nghìn tỷ đồng (giá trị sổ sách là 8,9 nghìn tỷ đồng).Trong hoạt động thương mại, trình độ và cách quản lý kinh doanh cũng thay đổi, ngoài cửa hàng nhỏ lẻ, chợ truyền thống đã hình thành các cửa hàng lớn, trung tâm thương mại, siêu thị. Tính đến 31/12/2017, cả nước có 958 siêu thị, tăng 70,2% so với năm 2010; 188 trung tâm thương mại, tăng 86,1. Các loại thị trường hiện đại đã được hình thành và dần dần hoàn thiện ở nước ta từng bước.
Thứ ba, quan hệ phân phối: Đã và đang thực hiện phân phối công bằng các yếu tố sản xuất, các cơ hội, điều kiện phát triển và sản phẩm làm ra; phân phối chủ yếu căn cứ vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, phân phối thông qua hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội. Phân phối thu nhập trong xã hội đã đóng vai trò rất quan trọng và không ngừng được thay đổi theo hướng tiến bộ, công bằng hơn. Nhờ đổi mới chế độ phân phối đã góp phần giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với gia đình và người có công, các chính sách an sinh xã hội. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị giảm từ 6,42% năm 2000 xuống còn 4,29% năm 2010 và còn 3,10% năm 2018. Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành đã tăng từ 1.387 nghìn đồng năm 2010 lên 3.760 nghìn đồng năm 2018, gấp 2,7 lần so với năm 2010. Tỷ lệ nghèo của Việt Nam giảm mạnh từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,2% năm 2010 và tiếp tục giảm xuống 7% năm 2015[5]. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,572 năm 2010 lên 0,683 năm 2015 và đạt 0,694 năm 2017.
2. Những vấn đề đặt ra và định hướng giải quyết
(1) Hạn chế, tồn tại và các nội dung không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất
a) Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được thời gian qua, trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đó là:
- Chưa bảo đảm được sự tương thích trong xây dựng, hoàn thiện giữa các mặt của quan hệ sản xuất. Sự quan tâm vẫn dành nhiều để thay đổi chế độ sở hữu hơn là cho sự đổi mới cần thiết về quan hệ quản lý. Việc quản lý, khai thác, sử dụng, phát huy các nguồn lực của nền kinh tế còn hạn chế, bất cập; phân bổ và sử dụng nguồn lực chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao, nhiều trường hợp chưa theo cơ chế thị trường, gây lãng phí và cạn kiệt nguồn lực của đất nước.
- Vẫn còn chậm chạp trong việc thay đổi thể chế làm kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất như về đất đai; điều kiện thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh; phát triển kinh tế tư nhân; quản lý dự án BOT, BT, BTO, PPP, cổ phần doanh nghiệp Nhà nước; quy hoạch…
- Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp, cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo còn bất hợp lý, thiếu hụt nhân lực là kỹ sư thực hành, công nhân kỹ thuật bậc cao, trình độ ngoại ngữ của người lao động còn hạn chế, thiếu các kỹ năng mềm. Kết nối cung cầu trên thị trường lao động còn nhiều bất cập. Tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trẻ hoặc không phù hợp giữa công việc và trình độ đào tạo còn khá phổ biến. Chất lượng việc làm thấp, việc làm phi chính thức chiếm tỷ trọng cao. Năng suất lao động tuy đã được cải thiện nhưng hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực: Tính theo PPP 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% mức NSLĐ của Xin-ga-po; 18,4% của Ma-lai-xi-a; 36,2% của Thái Lan; 43% của In-đô-nê-xi-a và 55% của Phi-li-pin. Đáng chú ý là chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.
- Việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên chưa hiệu quả. Diện tích đất sử dụng kém hiệu quả hoặc chưa sử dụng còn lớn. Năng lực khai thác tài nguyên khoáng sản hạn chế, công nghệ chậm đổi mới, thị trường tài nguyên khoáng sản chậm được hình thành và thiếu đồng bộ. Tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức gây lãng phí và hủy hoại môi trường. Quan điểm đẩy mạnh kinh tế hóa ngành tài nguyên, môi trường chậm được triển khai, thể chế hóa và tổ chức thực hiện. Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; quản lý, khai thác và sử dụng cơ sở hạ tầng còn bất cập.
- Khoa học và công nghệ mặc dù đạt được những thành tựu nhất định, nhưng chưa tương xứng với vai trò là động lực then chốt và nền tảng cho quá trình phát triển đất nước. Quy mô nghiên cứu nhỏ, thị trường khoa học và công nghệ mới bước đầu hình thành. Mối liên kết giữa nghiên cứu với ứng dụng, gắn kết giữa tổ chức khoa học công nghệ với khu vực doanh nghiệp và khu vực đào tạo chưa chặt chẽ. Mức độ sẵn sàng trong áp dụng công nghệ và khả năng tiếp nhận công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp.
- Nền kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu nhập trung bình thấp, song nguy cơ tụt hậu so với thế giới và khu vực đang ngày càng hiện hữu. Chất lượng tăng trưởng tuy đã được cải thiện nhưng còn thấp, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. So với một số nước trong khu vực như Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin và Hàn Quốc thì quy mô kinh tế Việt Nam vẫn còn nhỏ. Tính đến năm 2017, GDP của In-đô-nê-xi-a gấp 4,5 lần GDP của Việt Nam; Thái Lan gấp 2 lần; Phi-li-pin và Ma-lai-xi-a gấp 1,4 lần; riêng Hàn Quốc gấp 6,8 lần[6].
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ “mũi nhọn” như tài chính, tín dụng, du lịch còn chiếm tỷ trọng thấp so với các nước trong khu vực. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2017 tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP của Việt Nam là 15,34%, trong khi đó tỷ lệ này trong GDP của Thái Lan là 8,7%; Ma-lai-xi-a 8,8%; Phi-li-pin 9,7%; In-đô-nê-xi-a 13,1%; riêng Xin-ga-po tỷ trọng ngành nông nghiệp rất nhỏ, các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm gần như 100% GDP. Như vậy, nếu giữ nguyên các nguồn lực, tốc độ dịch chuyển và cách thức tiến hành như hiện nay, phải mất khoảng 10 năm nữa thì Việt Nam mới giảm được tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản bằng với Thái Lan giai đoạn hiện nay.
- Tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Công nghiệp chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững, phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trình độ công nghệ lạc hậu, chậm được đổi mới; chất lượng sản phẩm, năng suất lao động ngành công nghiệp còn thấp.
- Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước chưa được thể hiện rõ nét, nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế Nhà nước còn thấp, không tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ và vai trò dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Mô hình quản trị doanh nghiệp chậm đổi mới, việc cơ cấu lại một số dự án đầu tư kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, làm thất thoát tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội.
- Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn khó khăn.Hầu hết các hợp tác xã có quy mô hoạt động nhỏ, số lượng xã viên chưa nhiều, vốn góp còn thấp dẫn đến khó khăn trong đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã còn thiếu tính chủ động, sáng tạo trong điều hành hoạt động, chất lượng sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh thấp, trình độ khoa học công nghệ và thị trường hạn chế.
- Khu vực kinh tế tư nhân những năm gần đây tăng trưởng còn chậm, chưa thực sự là động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế. Quy mô doanh nghiệp tư nhân lớn nhưng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, chưa xâm nhập được vào các thị trường, trung tâm công nghệ của thế giới, do đó chưa thực hiện được chức năng cầu nối về công nghệ tri thức của thế giới vào thị trường trong nước.
- Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa tạo được hành lang pháp lý thuận lợi cho sự vận hành của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế. Chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản còn yếu, gây khó khăn cho đầu tư phát triển và thất thoát, lãng phí lớn. Những bất cập trong cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy quản lý nhà nước, thủ tục hành chính, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức và quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang là một lực cản lớn chủ yếu đối với đầu tư, phát triển của đất nước.
- Chế độ phân phối đổi mới chậm, còn nhiều bất hợp lý, chưa thực sự bình đẳng. Chính sách tiền lương chưa tạo được động lực thu hút và sử dụng người tài, chưa gắn giữa tăng tiền lương với tăng năng suất lao động. Hệ thống an sinh xã hội chậm được hoàn thiện, đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn.
b) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại
Những hạn chế, tồn tại trên có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
- Nguyên nhân khách quan do con đường chúng ta đang đi rất mới mẻ, vừa làm vừa phải tìm tòi, rút kinh nghiệm để đổi mới; những khó khăn vốn có của nền kinh tế không dễ khắc phục trong một thời gian ngắn; tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu và những biến động địa chính trị trên thế giới ngày càng phức tạp, khó lường.
- Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế, tồn tại là: Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Việc tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết; công tác quản lý còn yếu kém, không thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp áp dụng trong thực tiễn.Một số chủ trương chưa đủ rõ hoặc chưa phù hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở các cấp, các ngành. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rơi vào suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa, năng lực và phẩm chất không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.
(2) Định hướng giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam
a) Bối cảnh tình hình những năm tới
Tình hình thế giới và khu vực chuyển động rất nhanh và khó lường. Kinh tế thế giới năm 2019 và những năm tiếp theo dự báo tiềm ẩn nhiều rủi ro thách thức. Hoạt động thương mại quốc tế trở nên phức tạp hơn với các yếu tố khó lườngbởi chủ nghĩa bảo hộ ở nhiều nước, đặc biệt là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung ngày càng căng thẳng ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng toàn cầu. Bên cạnh đó, thế giới vẫn đang đối mặt với 10 nguy cơ rủi ro hàng đầu[7]: (1) Nguy cơ xung đột quốc tế; (2) Thời tiết cực đoan; (3) Thất bại của hệ thống quản trị quốc gia; (4) Khủng hoảng hay sự sụp đổ của nhà nước; (5) Thất nghiệp hay bán thất nghiệp; (6) Thảm họa thiên tai; (7) Thất bại trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu; (8) Khủng hoảng nguồn nước; (9) Gian lận hay đánh cắp dữ liệu; (10) Các vụ tấn công mạng.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự ra đời và áp dụng công nghệ mới, kết hợp kiến thức trong các lĩnh vực kinh tế số, vật lý, kỹ thuật số, sinh học... tạo ra xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất, có phạm vi ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt kinh tế, chính trị và xã hội, trở thành động lực mới cho phát triển nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với những nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình như Việt Nam.
Ở trong nước, bên cạnh các điều kiện thuận lợi từ kết quả nổi bật về ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và đẩy mạnh hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế, kinh tế - xã hội nước ta những năm tới dự báo vẫn sẽ đối mặt với các thách thức đến từ nội tại của nền kinh tế như: Trình độ công nghệ thấp, đất đai, tài nguyên đang dần bị suy giảm trong khi năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế tuy có chuyển biến nhưng chưa thực sự đột phá. Bên cạnh đó, việc thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đã ký kết, nhất là cam kết về mở cửa thị trường, cắt giảm thuế, bảo đảm sở hữu trí tuệ sẽ mang lại cơ hội cho Việt Nam trong thu hút các nguồn lực từ nước ngoài, nhưng đồng thời cũng là áp lực không nhỏ đối với khu vực kinh tế trong nước. Biến đổi khí hậu, thiên tai, bão, lũ,... luôn là thách thức tiềm ẩn, tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh đó, đòi hỏi chúng ta cần nhận thức đúng đắn và giải quyết phù hợp, hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và tiếp tục hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b) Định hướng giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời gian tới
- Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta - vốn từ một nước lạc hậu, có điểm xuất phát rất thấp đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
- Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở hữu và các thành phần kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu ở nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vai trò kinh tế tập thể, vai trò động lực phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh tế hỗn hợp, kinh tế cổ phần. Trước mắt cần sớm thống nhất sử dụng một khái niệm về kinh tế tư nhân trong các văn bản và phân loại do hiện nay vẫn sử dụng nhiều cách gọi: “Kinh tế tư nhân”, “Thành phần kinh tế tư nhân”, “Khu vực kinh tế tư nhân”.
- Tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về hội nhập, về phương thức phát triển kinh tế.Làm rõ hơn nữa vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế.Đẩy mạnh xã hội hóa trong khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế và các lĩnh vực khác.Thực hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị.Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững.Xây dựng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước.Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong sự vận hành nền kinh tế, hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị trường.
- Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Hoàn thiện chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ 5 trụ cột: kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường trong phát triển bền vững; tiếp tục đổi mới chế độ phân phối; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ngày càng phát triển bền vững, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trước mắt thực hiện một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; công khai, minh bạch trong quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực của đất nước. Rà soát, khẩn trương cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể. Có chính sách và giải pháp phù hợp để khuyến khích các cơ sở kinh doanh cá thể chuyển thành doanh nghiệp; tạo dựng điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các cơ sở cá thể kinh doanh ổn định, lâu dài và tuân thủ pháp luật.
Hai là, đổi mới mô hình phát triển kinh tế - xã hội từ chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, vốn đầu tư và lao động sang sử dụng tổng hợp, hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế; sử dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo để phát triển bền vững. Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao năng suất lao động, coi đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của nền kinh tế.
Ba là, quyết liệt thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đổi mới cơ cấu kinh tế ngành, vùng và cơ cấu sản phẩm theo hướng hiện đại, phát huy lợi thế so sánh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó tập trung cơ cấu lại ngành nông nghiệp và thủy sản theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm cây trồng, vật nuôi trên cơ sở áp dụng công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học và mang lại hiệu quả kinh tế cao; tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là công nghiệp chế biến sâu, chế biến sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; nâng cao chất lượng và hiệu quả các ngành dịch vụ, coi trọng phát triển các ngành dịch vụ có năng suất lao động cao, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, dịch vụ du lịch hiện đại. Tập trung các nguồn lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, có sức cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao và có thị trường tiêu thụ.
Bốn là, đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng bảo đảm cạnh tranh công bằng, bình đẳng, tôn trọng tính phổ biến hơn là nhấn mạnh tính đặc thù; định vị vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước tập trung vào định hướng, dẫn dắt và thực hiện những dịch vụ công, đầu tư các dự án trọng điểm quốc gia mà các thành phần kinh tế khác không đủ năng lực hoặc không có nhu cầu đầu tư. Tiếp tục kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; cải cách thủ tục hành chính liên quan đến cấp phép thành lập đăng ký kinh doanh, thủ tục thuê đất, cấp tín dụng; cải thiện cơ sở hạ tầng logistics...
Năm là, nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia và năng lực tự chủ, đổi mới sáng tạo trong quản lý doanh nghiệp. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở tăng cường năng lực phân tích, đánh giá, dự báo trên các lĩnh vực... Thực hiện công khai, minh bạch, bình đẳng và dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội.Kiểm soát tốt quyền lực, đề cao trách nhiệm giải trình và đạo đức công vụ. Xây dựng và thực thi nghiêm các chế tài đủ mạnh nhằm ngăn chặn hành vi cửa quyền, độc quyền; cơ chế xin - cho; lợi ích nhóm; đẩy lùi tham nhũng, góp phần củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và toàn xã hội; chống trì trệ, bảo thủ, chậm đổi mới.
Sáu là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển khoa học công nghệ và chủ động nắm bắt cơ hội, tận dụng tối đa lợi thế từ Cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Trước mắt cần nghiên cứu thấu đáo nội hàm, phương thức vận hành và tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, định hướng nhiệm vụ, giải pháp thực hiện cụ thể vào một số ngành, lĩnh vực, ở một số địa phương để chủ động hội nhập và hòa chung vào dòng chảy của cuộc cách mạng công nghiệp này. Phát huy sáng tạo trong đổi mới khoa học và công nghệ; xây dựng cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi để tăng mức độ hoạt động và số lượng tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ, đơn vị ứng dụng công nghệ. Tăng cường đầu tư xây dựng một số tổ chức nghiên cứu và phát triển đạt trình độ hiện đại, tiên tiến để thúc đẩy quá trình hội nhập. Tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức khoa học công nghệ, các trường đại học với doanh nghiệp; gắn kết giữa nghiên cứu khoa học, hoạt động đào tạo với sản xuất - kinh doanh.
Bẩy là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kinh tế số, nhất là nhân lực về trí tuệ nhân tạo. Lợi thế “dân số vàng” cần được biến thành lợi thế về năng lực số trong hội nhập và phân công lao động quốc tế. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ đạt chuẩn quốc tế. Người lao động phải được trang bị nhiều loại kỹ năng đa dạng để thích ứng với môi trường thời đại 4.0 và dễ dàng dịch chuyển công việc phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Tám là, tăng cường khai thác các cơ hội tăng trưởng bằng cách hội nhập kinh tế sâu hơn, bao gồm cả việc thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do với các nước ASEAN và các đối tác lớn khác ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Bên cạnh khả năng tiếp cận thị trường, quá trình hội nhập cũng hỗ trợ các cải cách về thể chế của Việt Nam, đưa Việt Nam đi đúng con đường tạo ra một nền kinh tế giàu sức cạnh tranh và sáng tạo hơn. Thúc đẩy các doanh nghiệp chủ động hơn nữa trong việc tìm hiểu các FTA để xây dựng phương án kinh doanh sáng tạo, vượt qua thách thức và tận dụng tối đa các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước cần chú trọng hỗ trợ các Hiệp hội, doanh nghiệp chủ động ứng phó với làn sóng mới về chủ nghĩa bảo hộ của các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Chín là, sớm thống nhất dùng khái niệm “loại hình kinh tế” thay thế “thành phần kinh tế” theo tài liệu hướng dẫn học tập Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và Luật thống kê.
Mười là, xây dựng bộ tiêu chí, chỉ tiêu thống kê về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để có thông tin đầy đủ, chính xác, khách quan của mối quan hệ này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước thời kỳ 2020-2035./.
TS Nguyễn Bích Lâm
[1]Nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP bình quân đầu người năm 2017 gấp 1,6 lần năm 2010.
[2] Nếu không kể thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm, cơ cấu GDP theo 3 khu vực năm 2010 là: Khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản là 18,4%; khu vực Công nghiệp và xây dựng là 32,1%; khu vực Dịch vụ là 36,9%; năm 2018 là 14,6%; 34,3% và 41,1% (thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10%).
[3]Số doanh nghiệp Nhà nước giảm mạnh từ 5.759 doanh nghiệp năm 2001 xuống 3.281 doanh nghiệp năm 2010 và còn 2.486 doanh nghiệp năm 2017.
[4] Bao gồm: (i) 07 Tập đoàn kinh tế; (ii) 67 Tổng công ty Nhà nước, không bao gồm số liệu của Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam do đang thực hiện tái cơ cấu theo Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chính phủ); (iii) 17 Công ty TNHH MTV hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con; (iv) 492 doanh nghiệp độc lập thuộc các Bộ ngành, địa phương.
[5]Theo chuẩn nghèo của Chính phủ.
[6]Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, năm 2017, GDP Thái Lan đạt 455,2 tỷ USD; In-đô-nê-xi-a đạt 1.015,5 tỷ USD; Ma-lai-xi-a đạt 314,5 tỷ USD; Phi-li-pin đạt 313,6 tỷ USD; Hàn Quốc đạt 1.530,8 tỷ USD.
[7] Do Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra, trong đó Việt Nam phải đối mặt với 6/10 nguy cơ trên.