1. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, nâng cao nhận thức của xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyển đổi số, phát triển kinh tế số
Các cấp ủy đảng, lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành, nhất là những người đứng đầu, cần phải nhận thức, quán triệt đầy đủ, sâu sắc các chủ trương, quan điểm của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, về chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói chung. Việc quán triệt và nhận thức sâu sắc của tập thể lãnh đạo, của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các địa phương phải được thể hiện bằng việc chủ động, tích cực xây dựng và thực hiện, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các chương trình, kế hoạch chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa phương mình phụ trách; đặt ra các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể để đánh giá.
2. Tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phát triển kinh tế số
Các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ở các cấp, các ngành cần phải bám sát tình hình thực tiễn, kịp thời phát hiện sự xuất hiện của những lĩnh vực kinh tế mới, mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng công nghệ số, những bất cập của cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với những mô hình mới, lĩnh vực mới này để nhanh chóng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách tạo khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi cho các mô hình mới cùng hoạt động, phát triển, từ thực tiễn để tìm ra cách thức quản lý phù hợp, không vì chưa biết quản lý thế nào hoặc chưa quản lý được thì ngăn chặn, ngăn cấm. Hoặc cho phép thực hiện thí điểm một số cơ chế, chính sách trong một phạm vi nhất định, một thời gian nhất định, tạo hành lang pháp luật, cơ sở cho lĩnh vực mới, mô hình mới hoạt động để ngăn ngừa những tác động, ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra, lan rộng từ những hoạt động này (Sandbox).
Cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong Luật Công nghệ thông tin, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách để khuyến khích đầu tư nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ phát triển mạnh công nghiệp công nghệ thông tin truyền thông, lực lượng nòng cốt trong phát triển hạ tầng số, nền tảng số, dịch vụ số, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; khuyến khích, hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên nền tảng công nghệ số. Hoàn thiện thể chế, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển hạ tầng số. Hoàn thiện thể chế, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực kinh tế, phát triển các lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng công nghệ số. Xác định rõ mối quan hệ, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các công ty cung cấp nền tảng công nghệ và những người hoạt động kinh doanh trên nền tảng công nghệ đó làm cơ sở cho hoạt động quản lý, xử lý tranh chấp và thu thuế từ các chủ thể này.
Cần hoàn thiện thể chế để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra, tạo động lực cho đổi mới sáng tạo; khuyến khích thương mại hóa và chuyển giao để khai thác hợp lý, hiệu quả các tài sản trí tuệ và ngăn chặn, xử lý nghiêm các sai phạm. Hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nền kinh tế số. Xây dựng, hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách, quy trình, tiêu chuẩn cho xây dựng cơ sở dữ liệu, quản trị dữ liệu, truy cập, khai thác, sử dụng, chia sẻ dữ liệu; cho bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo vệ thông tin, bí mật cá nhân; tạo cơ sở pháp luật cho định danh số và xác thực điện tử quốc gia. Sớm nghiên cứu, ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn thống kê về kinh tế số phù hợp với thông lệ, tiêu chí, tiêu chuẩn quốc tế để thực hiện thống nhất, phản ánh đầy đủ, chính xác về sự phát triển kinh tế số ở các ngành, lĩnh vực và của đất nước.
3. Phát triển hạ tầng số
Hạ tầng số cần phải được xây dựng đi trước một bước để tạo cơ sở, tiền đề cho sự ra đời, hoạt động, phát triển kinh tế số; đồng thời, đòi hỏi phải thường xuyên được nâng cấp, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu kết nối, truyền tải, lưu trữ, xử lý nhanh chóng, chính xác một khối lượng thông tin ngày càng lớn của nền kinh tế số không ngừng phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng (cùng với sự phát triển của chính phủ số, xã hội số). Trên cơ sở chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế số, chính phủ số, xã hội số tới năm 2025, cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch xây dựng phát triển hạ tầng số, có chính sách huy động các nguồn lực xã hội, của các thành phần kinh tế, trong và ngoài nước vào phát triển hạ tầng số. Phát triển, nâng cấp mạng cáp quang, Internet băng rộng, sớm hoàn thành việc chuyển đổi từ giao thức IPv4 sang giao thức mới IPv6 trên toàn quốc. Phát triển mạng Internet vạn vật (IoT) tích hợp với các hệ thống hạ tầng thiết yếu như giao thông, truyền tải điện, nước, nhất là ở các đô thị lớn, hình thành hệ thống hạ tầng số chung, bao trùm các ngành, lĩnh vực.
Đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành kết nối đồng bộ, thống nhất, hình thành hệ thống dữ liệu đầy đủ, tin cậy của đất nước; ưu tiên đầu tư xây dựng các cơ sở dữ liệu về dân cư, đất đai, tài chính, doanh nghiệp, y tế. Chuẩn hóa quy trình xử lý hồ sơ trên môi trường mạng, việc gửi văn bản, nhận văn bản, báo cáo tích hợp chữ ký số giữa các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp; số hóa các hồ sơ, tài liệu lưu trữ để hình thành và phát triển các cơ sở dữ liệu số. Đầu tư trang thiết bị và đẩy mạnh nghiên cứu, tiếp thu làm chủ việc sử dụng các công nghệ điện toán, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, thực tế ảo/thực tế tăng cường ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp lớn để xử lý thông tin, khai thác cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý, các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư dưới hình thức hợp tác công - tư xây dựng một số trung tâm điện toán, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo đủ mạnh để phân tích thông tin, xử lý dữ liệu cho phép các tổ chức, các doanh nghiệp cùng khai thác.
Nhà nước cần ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn, an ninh thông tin với mọi dự án xây dựng, nâng cấp hệ thống hạ tầng số (chỉ cho phép triển khai dự án khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn này); ban hành các tiêu chuẩn an toàn, an ninh đối với từng thiết bị công nghệ, thực hiện kiểm định chặt chẽ, cấp tem xác nhận đạt yêu cầu về an toàn, an ninh cho từng thiết bị trước khi được lắp đặt, kết nối vào hệ thống mạng; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá về mức độ an toàn, an ninh mạng của Việt Nam, đặc biệt là với các mạng quan trọng của đất nước. Yêu cầu các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp, vận hành hệ thống hạ tầng số phải cam kết bảo đảm an toàn, an ninh, có khả năng tự sàng lọc, ngăn chặn, phát hiện các cuộc tấn công mạng, bảo vệ mạng ở mức cơ bản; các cơ quan quản lý nhà nước định kỳ kiểm tra, đánh giá. Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống giám sát, cảnh báo nguy cơ, phát hiện sớm các cuộc tấn công mạng, điều phối, ứng cứu sự cố mất an ninh, an toàn mạng, bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia. Xây dựng các trung tâm ứng cứu khẩn cấp sự cố mạng ở các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, các trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các đơn vị sự nghiệp ứng phó, xử lý các sự cố mất an toàn, an ninh thông tin. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ an ninh, an toàn, tôn trọng pháp luật, ứng xử văn hóa, bảo vệ các giá trị đạo đức đối với các tầng lớp nhân dân, mọi đối tượng tham gia hoạt động trên mạng; xây dựng, hình thành nên những quy tắc ứng xử, văn hóa ứng xử trên không gian mạng.
4. Phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực
Phát triển, nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia. Đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức nghiên cứu khoa học - công nghệ công lập. Nhà nước tập trung đầu tư cơ sở vật chất theo hướng hiện đại, tăng cường tiềm lực đủ mạnh cho các trung tâm khoa học - công nghệ quốc gia và một số trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ trọng điểm của một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước; đồng thời, khuyến khích thành lập, phát triển các tổ chức khoa học công nghệ ngoài Nhà nước, trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn nước ngoài. Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu khoa học - công nghệ với các trường đại học và doanh nghiệp, giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh. Coi trọng cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, nhất là tiếp thu, làm chủ công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới để sử dụng trong nước; trong đó, ưu tiên nghiên cứu, ứng dụng một số công nghệ cao, cốt lõi để phát triển công nghệ số, phát triển kinh tế số, như công nghệ thông tin, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, chuỗi khối, thực tế ảo/thực tế tăng cường, cùng với những công nghệ tiêu biểu khác của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như: công nghệ nanô, vật liệu mới, công nghệ in 3D, công nghệ năng lượng mới, năng lượng sạch, công nghệ y - sinh... Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý hoạt động khoa học - công nghệ. Tăng cường đầu tư của Nhà nước cho khoa học - công nghệ, tăng cường cơ chế hợp tác công - tư, cùng đầu tư, cùng tài trợ cho hoạt động khoa học - công nghệ. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ; các nhiệm vụ khoa học - công nghệ phải hướng vào giải quyết các vấn đề lớn của đất nước đặt ra, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước. Mở rộng việc thực hiện cơ chế Nhà nước đặt hàng, đấu thầu thực hiện các nhiệm vụ khoa học - công nghệ với cơ chế khoán đến sản phẩm cuối cùng, có sự tư vấn, phản biện, giám định, đánh giá của các tổ chức khoa học công nghệ độc lập đối với việc đấu thầu và chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia lấy doanh nghiệp làm trung tâm, các trường đại học, viện khoa học là các chủ thể nghiên cứu mạnh,tập trung vào công nghệ số và các công nghệ cốt lõi khác của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, trước hết là ở các trung tâm kinh tế, khoa học - công nghệ như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng; áp dụng các cơ chế, chính sách có tính chất đột phá đối với hoạt động đổi mới sáng tạo để tạo sự phát triển đột phá trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, tạo ra những mô hình kinh doanh mới, sản xuất và cung ứng các sản phẩm mới, dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ số. Đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học công nghệ để được khai thác, sử dụng có hiệu quả cho phát triển khoa học công nghệ và kinh tế - xã hội đất nước. Hoàn thiện thể chế, phát triển các tổ chức tư vấn, thẩm định, đánh giá các sản phẩm khoa học - công nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển thị trường các sản phẩm khoa học - công nghệ. Nhà nước, các ngành, lĩnh vực cần có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ cả ở trong nước và ở nước ngoài, nhất là những người có trình độ cao, những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; đồng thời, có chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ, phát huy tài năng của các chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam làm việc ở nước ngoài và các chuyên gia giỏi nước ngoài vào làm việc ở Việt Nam. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ, mở rộng hợp tác đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với các nước, các tổ chức khoa học - công nghệ, các doanh nghiệp lớn trên thế giới để nâng cao trình độ, tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước.
Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong chương trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo của đất nước nói chung, cần phải có chương trình riêng về giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu số lượng, cơ cấu, chất lượng nguồn nhân lực thực hiện chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, chính phủ số, xã hội số. Nội dung, chương trình giáo dục - đào tạo cần được đổi mới theo hướng phát triển năng lực, tư duy sáng tạo, khả năng thích ứng với môi trường công nghệ thay đổi, phát triển nhanh chóng. Cần đưa vào chương trình giáo dục phổ thông những nội dung phổ cập về công nghệ số, kỹ năng số tối thiểu, những kiến thức cơ bản về bảo đảm an toàn, an ninh mạng, phương thức ứng xử khi tham gia mạng. Đưa vào nội dung, chương trình đào tạo ở trường dạy nghề, các khóa bồi dường, đào tạo lại cho người lao động trong các doanh nghiệp những kiến thức về công nghệ số, kỹ năng sử dụng, vận hành các máy móc, thiết bị số, các dây chuyền tự động hóa điều khiển bằng công nghệ số phù hợp với từng ngành, nghề, lĩnh vực. Tất cả các trường đại học, cao đẳng đều cần bổ sung chương trình đào tạo các nội dung (kiến thức, kỹ năng) về công nghệ thông tin, công nghệ số. Các trường đại học khoa học - công nghệ phải là các trung tâm nghiên cứu, đào tạo chuyên gia có trình độ cao (đại học và sau đại học) về các công nghệ cốt lõi của công nghệ số, công nghệ thông tin. Đồng thời, triển khai các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số, phát triển kinh tế số cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp, các ngành, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Đổi mới mạnh mẽ cách dạy và học, quản lý giáo dục trên cơ sở ứng dụng công nghệ số. Ứng dụng công nghệ vào quản lý mọi mặt hoạt động của nhà trường và hệ thống giáo dục đào tạo (quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên, quản lý việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, quản lý tài chính, cơ sở vật chất...). Số hóa giáo trình, tài liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu, tài nguyên kiến thức phục vụ giảng dạy, học tập; phát triển nền tảng công nghệ cho việc dạy và học từ xa, thi, kiểm tra qua hệ thống mạng, trực tuyến; khuyến khích các mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên nền tảng công nghệ số, như các mô hình giáo dục đào tạo tích hợp khoa học - công nghệ - kinh doanh - tiếng Anh (STEM, STEAM...)...
5. Phát triển kinh tế số ở các ngành, lĩnh vực
Tập trung, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông tạo ra những máy móc, thiết bị công nghệ số (phần cứng), các nền tảng số, dịch vụ số (phần mềm), phát triển hạ tầng số, bảo đảm an ninh, an toàn mạng, tạo cơ sở thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế trong cả nền kinh tế. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo về công nghệ số. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông lớn, thương hiệu có uy tín của đất nước (Viettel, VNPT, Mobiphone, FPT...) phát triển, đầu tư nghiên cứu, làm chủ công nghệ, chuyển từ gia công lắp ráp sang sản xuất các thiết bị số (điện thoại thông minh, tivi thông minh, thiết bị IoT... theo Chương trình Make in Viet Nam - thiết kế, sản xuất tại Việt Nam), các phần mềm, dịch vụ số, xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, phát triển, ứng dụng mạng 5G, Internet băng rộng thế hệ mới, các công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, chuỗi khối vào hoạt động quản lý, thiết kế, chế tạo sản phẩm ở các doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực. Đồng thời ưu tiên thu hút các tập đoàn công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông lớn của thế giới đầu tư ở Việt Nam, có liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam, xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển công nghệ mới ở Việt Nam, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu các sản phẩm công nghệ số và để Việt Nam củng cố vai trò là một trung tâm của khu vực và thế giới về sản xuất, xuất khẩu thiết bị công nghệ số, phần mềm và các dịch vụ công nghệ số.
Đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong các ngành công nghiệp truyền thống, sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng theo hướng trở thành các ngàng công nghiệp tự động hóa, công nghiệp thông minh, trong đó các công nghệ số, thiết bị số được sử dụng trong quản lý các hoạt động của doanh nghiệp, trong tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Công nghệ số được sử dụng vào quản lý nhân sự, quản lý tài chính, tài sản của doanh nghiệp. Công nghệ máy tính, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, chuỗi khối, thực tế ảo/thực tế tăng cường được sử dụng trong thiết kế, thử nghiệm, đánh giá chất lượng sản phẩm, xây dựng quy trình, phương án tổ chức sản xuất kinh doanh trên không gian mạng, nhờ đó, rút ngắn được thời gian, lựa chọn được sản phẩm và quy trình, phương án sản xuất tốt nhất, hợp lý, hiệu quả nhất. Quá trình chế biến, chế tạo sản phẩm được các máy móc, thiết bị công nghệ số thực hiện theo quy trình, dây chuyền sản xuất hoàn toàn tự động hóa, với độ chính xác cao, tiết kiệm tối đa thời gian, vật tư, nguyên liệu, năng lượng; việc cung ứng vật tư, nguyên liệu, năng lượng cho sản xuất cũng thực hiện theo lập trình của hệ thống máy tính, hoàn toàn tự động, đáp ứng chính xác yêu cầu cả về thời gian, số lượng, chất lượng. Trong quá trình chế biến, chế tạo, sản phẩm được hệ thống thiết bị tự động giám sát, đánh giá về chất lượng, kịp thời phát hiện, sửa chữa những sai sót hay loại bỏ những sản phẩm có sai sót, không đáp ứng đúng các tiêu chuẩn, yêu cầu về chất lượng. Những công việc nặng nhọc, ở khu vực độc hại đều do các robot, thiết bị tự hành đảm nhận. Đồng thời, các công nghệ số được sử dụng để phân tích, đánh giá thị trường, khách hàng; truyền thông số được sử dụng để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tương tác với khách hàng, hướng dẫn sử dụng, bảo hành sản phẩm, tiếp thu ý kiến của khách hàng để hoàn thiện, phát triển sản phẩm và tổ chức hệ thống tiêu thụ, phân phối hợp lý, hiệu quả.
Đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong nông nghiệp, phát triển nông nghiệp sản xuất lớn, công nghệ cao, thông minh, thân thiện với môi trường. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp diễn ra trong không gian rộng, phân tán, với sự tham gia của hàng chục triệu hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, đất, nước, khí hậu, thời tiết, hệ sinh thái... ở từng vùng, từng địa phương; do đó, việc xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng số, cả hạ tầng kết nối (cáp quang, Internet, mạng 4G, 5G) và các cơ sở dữ liệu về đất, nước, thời tiết, khí hậu, hệ sinh thái... ở từng vùng, địa phương là rất quan trọng đối với phát triển nông nghiệp số và đòi hỏi có sự đầu tư của Nhà nước, của các doanh nghiệp công nghệ lớn vào những lĩnh vực này. Phát triển kinh tế số trong nông nghiệp đòi hỏi phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao hiểu biết, kiến thức, kỹ năng sử dụng công nghệ số cho những người sản xuất nông nghiệp. Cần có sự hợp tác, hỗ trợ của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, tổ chức khoa học - công nghệ, các cơ quan quản lý nhà nước đối với các chủ thể sản xuất nông nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn lực tài chính, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tuyển chọn giống cây, giống con có chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, mua sắm, lắp đặt, vận hành hệ thống máy móc thiết bị sản xuất tự động hóa trong các khâu từ làm đất, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm đến kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm, xây dựng hồ sơ về xuất xứ hàng hóa và sử dụng công nghệ số để tiếp thị, giới thiệu, quảng bá sản phẩm, ký kết hợp đồng tiêu thụ, nhất là để xuất khẩu được các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam vào các nước phát triển có yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện những nội dung, nhiệm vụ nêu trên đòi hỏi phải có quan hệ hợp tác, phối hợp chặt chẽ giữa các hộ gia đình với nhau, với hợp tác xã, với các doanh nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ; cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, phát triển các hợp tác xã, các doanh nghiệp trong nông nghiệp.
Phát triển kinh tế số trong lĩnh vực dịch vụ: phát triển vận tải thông minh, truyền tải phân phối điện thông minh, thương mại điện tử, du lịch số, tài chính, ngân hàng số, kinh tế dữ liệu, y tế, giáo dục số.
Để phát triển vận tải thông minh, các cảng biển, cảng hàng không, các nhà ga vận tải đường bộ, đường sắt cần phải được tổ chức, sắp xếp lại tổ chức, đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo, tập huấn cán bộ để chuyển toàn bộ hoạt động quản lý, điều hành vận tải sang sử dụng công nghệ số, như: bán vé, đặt chỗ, thanh toán qua mạng, tiếp nhận hành khách, kiểm tra, thông quan hàng hóa được thực hiện với các thiết bị hướng dẫn, giám sát tự động, quản lý, điều tiết các phương tiện vận tải đi, đến, ra, vào nhà ga, các cảng được thực hiện theo chương trình với sự hỗ trợ của các máy tính điện tử. Trên các phương tiện vận tải, các tuyến đường giao thông, nhất là ở các đô thị, thành phố lớn, có hệ thống giám sát, điều tiết giao thông tự động, bảo đảm thuận lợi, an toàn cho người, phương tiện tham gia giao thông và thuận lợi cho việc giám sát, điều tiết giao thông của cơ quan quản lý nhà nước. Để phát triển hệ thống truyền tải, phân phối điện thông minh, cần sử dụng các công nghệ số vào công tác quản lý ở các trung tâm điều độ, các trạm biến áp, ở các công ty bán lẻ điện cho các hộ sử dụng để tự động hóa, tăng độ chính xác, công khai, minh bạch, an ninh, an toàn các quá trình này.
Để phát triển hơn nữa thương mại điện tử, cần nâng cấp hạ tầng số cho thương mại điện tử, thanh toán điện tử, hệ thống bảo đảm an ninh, an toàn mạng để việc mua bán, thanh toán diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn; cần phát triển dịch vụ logistic vận chuyển giao hàng, rút ngắn thời gian giao hàng, bảo đảm an toàn cho hàng hóa; có quy định chặt chẽ bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng khi chất lượng hàng hóa nhận được không đúng như quản cáo, hợp đồng mua qua mạng, bảo đảm thông tin của khách hàng không bị thu thập, sử dụng trái pháp luật. Khuyến khích phát triển, nâng cao thị phần của các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam trong thị trường thương mại điện tử trong nước. Để đẩy mạnh phát triển du lịch số, các cơ quan quản lý du lịch, các doanh nghiệp du lịch cần xây dựng, hoàn thiện các cơ sở dữ liệu du lịch số, bản đồ du lịch số; mở rộng, nâng cấp các trang thông tin, giới thiệu, quảng bá tiềm năng du lịch của đất nước, bằng các hình ảnh sinh động giới thiệu các danh lam thắng cảnh, những bãi biển đẹp, những địa điểm nghỉ dưỡng hấp dẫn, các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, khu vui chơi giải trí, mua sắm, các khách sạn, nhà hàng, các món ăn nổi tiếng, độc đáo, con người Việt Nam cởi mở, thân thiện, hiếu khách... để thu hút khách du lịch. Đồng thời, nâng cấp công nghệ, có các công cụ hướng dẫn, hỗ trợ tìm kiếm nhanh chóng các địa điểm, các dịch vụ, các tour du lịch đáp ứng yêu cầu đa dạng, phong phú của khách du lịch; khách du lịch có thể đặt vé, đặt xe, đặt phòng khách sạn, đặt tour du lịch dễ dàng, nhanh chóng, an toàn; ứng dụng các công nghệ thực tế ảo/thực tế tăng cường để tạo ra những hình ảnh sinh động, sản phẩm du lịch hấp dẫn ở các địa điểm du lịch, nhất là ở các bảo tàng, các khu di tích lịch sử.
Đẩy mạnh phát triển ngân hàng số, tài chính số. Các ngân hàng cần tiếp tục đầu tư nâng cấp công nghệ, nâng cấp và kết nối các nền tảng Internet Banking và Mobile Banking, thực hiện mọi hoạt động của ngân hàng truyền thống bằng công nghệ số, trên không gian mạng, trực tuyến, không tiếp xúc, hoạt động 24h/7 ngày. Khách hàng không cần đến chi nhánh ngân hàng, bằng máy tính, điện thoại di động có thể nộp tiền vào tài khoản, vay tiền của ngân hàng, chuyển tiền/chuyển khoản, thanh toán khi mua sắm, tham gia các sản phẩm đầu tư, bảo hiểm nhanh chóng, tiện lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí, an toàn. Đồng thời, ngân hàng còn sử dụng các công nghệ điện toán, trí tuệ nhân tạo khai thác, phân tích dữ liệu để chấm điểm tín dụng, phát triển khách hàng, mở rộng thị trường; sử dụng công nghệ chuỗi khối để kết nối thanh toán, chuyển tiền qua biên giới, công nghệ QR code, sinh trắc học nhận diện vân tay, khuôn mặt để xác nhận khách hàng... bảo đảm an ninh, an toàn các hoạt động chuyển tiền, thanh toán tiền trên mạng. Phát triển các công ty tài chính sử dụng công nghệ số (fintech) của Việt Nam ngày càng lớn mạnh, cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng (thanh toán điện tử, huy động vốn cộng đồng, cho vay ngang hàng, quản lý tài sản) với chất lượng ngày càng cao, chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường này và liên kết, phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng, thúc đẩy phát triển, mở rộng hoạt động cho các ngân hàng số. Kinh tế dữ liệu (bao gồm việc xây dựng, quản lý đến khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu) là lĩnh vực hết sức mới mẻ với nước ta, nhưng có tiềm năng rất lớn trong tương lai. Việt Nam cần đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn bị nguồn nhân lực; nghiên cứu, xây dựng thể chế, luật pháp chính sách để phát triển và quản lý hoạt động của lĩnh vực này. Nhà nước cần giao cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin lớn, như Viettel, VNPT đi tiên phong xây dựng, phát triển kinh tế dữ liệu.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong các lĩnh vực y tế, giáo dục. Cần có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng hệ thống y tế, phòng và chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên nền tảng công nghệ số, từ việc đầu tư vào cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ đến xây dựng cơ chế, chính sách quản lý... Việc chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số vào khám, chữa bệnh được thực hiện từ các bệnh viện lớn tuyến Trung ương lan tỏa tới các địa phương, cơ sở; từng bước hình thành hệ thống quản lý y tế thông minh, các bệnh viện thông minh. Việc theo dõi, đăng ký khám, chữa bệnh, thanh toán viện phí, quan hệ tương tác giữa bệnh viện và bệnh nhân được thực hiện qua mạng; bệnh án, hồ sơ sức khỏe của người bệnh được chuyển thành bệnh án, hồ sơ điện tử được lưu giữ tại các cơ sở dữ liệu điện tử, có thể được trí tuệ nhân tạo khai thác hỗ trợ quá trình khám, chữa bệnh. Sử dụng các robot hỗ trợ bác sỹ phẫu thuật đạt tới độ chính xác cao. Phát triển các nền tảng công nghệ cho việc khám, chữa bệnh từ xa, người bệnh ở bệnh viện địa phương dược các chuyên gia hàng đầu ở các bệnh viện lớn khám, điều trị, giảm chi phí, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh...
Đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo, cần đẩy mạnh việc chuyển đổi số, sử dụng công nghệ số vào công tác quản lý giáo dục, từ quản lý của ngành giáo dục đến quản lý hoạt động của một trường học (quản lý giáo viên, học sinh, quản lý tài chính, tài sản, quản lý thực hiện chương trình dạy và học...). Số hóa giáo trình, tài liệu, bài giảng, xây dựng cơ sở dữ liệu tạo nguồn kiến thức dùng chung, có thể chia sẻ phục vụ giảng dạy, học tập; phát triển các nền tảng công nghệ cho việc dạy, học, kiểm tra, thi từ xa, qua hệ thống mạng; tạo điều kiện học tập linh hoạt về thời gian, địa điểm phù hợp với điều kiện làm việc, sinh hoạt của mỗi người; mọi người có thể lựa chọn học những kiến thức, kỹ năng thật sự cần thiết cho công việc, cuộc sống của mình, có thể học tập mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời, hướng tới giáo dục, đào tạo cá thể hóa...
6. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội
Kinh tế số là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo và sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội. Thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số trong hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị để các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị theo sát được sự phát triển của nền kinh tế số, lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý đúng đắn, đáp ứng kịp thời những yêu cầu phát triển của nền kinh tế số đặt ra, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước phát triển đồng bộ cả kinh tế số, chính phủ số, xã hội số.
Để chuyển đổi số trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị đòi hỏi phải: (1) Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế, các quy định, quy chế hoạt động của các cơ quan, tổ chức này phù hợp với phương thức hoạt động mới trên nền tảng công nghệ số. (2) Phải xây dựng hệ thống hạ tầng số kết nối trong hệ thống các tổ chức đảng, trong hệ thống các cơ quan nhà nước, trong hệ thống các tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, cơ sở và có sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống này và bảo đảm an ninh, an toàn cho các mạng này. (3) Phải xây dựng cơ sở dữ liệu trong từng hệ thống: Cơ sở dữ liệu về tổ chức đảng, đảng viên, các cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực; công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, kiểm tra, thi hành kỷ luật Đảng, công tác dân vận Đảng... qua các thời kỳ; cơ sở dữ liệu về tổ chức, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập và hoạt động của bộ máy nhà nước, về điều kiện tự nhiên của đất nước, các vùng, các địa phương; tình hình phát triển tất cả các ngành, lĩnh vực của đất nước, các địa phương qua các giai đoạn lịch sử, đây là một khối lượng rất lớn; cơ sở dữ liệu về tổ chức và hoạt động của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Nghiên cứu phát triển, ứng dụng các công nghệ điện toán, trí tuệ nhân tạo vào khai thác, xử lý dữ liệu phục vụ cho công tác lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng, hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; đặc biệt là phục vụ cho công tác quản lý của Nhà nước, hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành đối với sự phát triển các ngành, lĩnh vực, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch HĐLLTW