Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Một số vấn đề lý luận-thực tiễn đặt ra qua 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (phần 1) ​

Ngày phát hành: 25/04/2022 Lượt xem 1722

 

1. Hai mươi năm qua (2002-2021), từ sau khi Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) được ban hành, Nghị quyết đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng trong đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Nghị quyết đã được tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu rộng trong Đảng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân.

Các quan điểm mới của Nghị quyết đã được thể chế hóa thành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển. Đó là 2 Luật Hợp tác xã được ban hành năm 2003 (có hiệu lực thi hành từ 01/07/20104) và Luật Hợp tác xã ban hành năm 2012 (có hiệu lực từ 01/07/2013); nhiều Nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, thông tư, quyết định của các bộ, ngành đã được ban hành để hướng dẫn thi hành Luật[1]. Nhà nước có chính sách thuế ưu đãi (thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu) đối với hợp tác xã. Ngân hàng Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi tín dụng với các hợp tác xã, tạo điều kiện cho hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn tín dụng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh; thành lập hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, tạo điều kiện để các hợp tác xã được vay vốn từ Quỹ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước có các chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho hợp tác xã khi thuê đất[2]. Hợp tác xã được Nhà nước hỗ trợ ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ thông qua hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công, thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số, phát triển sản phẩm mới; được Nhà nước hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng các trang thông tin điện tử để quảng bá sản phẩm, tham gia các hội chợ trong và ngoài nước, ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm; được Nhà nước hỗ trợ bằng tiền, hiện vật giống cây, giống con, các tư liệu sản xuất khi bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh để giảm bớt khó khăn, phục hồi sản xuất. Nhà nước hỗ trợ kinh phí, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các chức danh cán bộ chủ chốt, các cán bộ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ của hợp tác xã, có chính sách thu hút cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật về làm việc tại hợp tác xã[3]. Nhà nước quan tâm đầu tư, thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, thông tin, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường… tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã hoạt động, phát triển…

 

Quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã được củng cố. Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Trung ương và các cấp được thành lập. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tập thể, hợp tác xã bước đầu được xây dựng, đi vào vận hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tác đăng ký, theo dõi, quản lý hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, các hợp tác xã. Công tác kiểm tra, giám sát công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã được tăng cường. Vai trò của Liên minh hợp tác xã đối với phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã được phát huy hơn.

- Kinh tế tập thể, hợp tác xã từng bước được đổi mới, khắc phục tình trạng yếu kém kéo dài, phát triển đa dạng, đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các hợp tác xã cũ được tập trung xử lý, giải thể các hợp tác xã yếu kém kéo dài, tồn tại hình thức; tổ chức lại, chuyển đổi phương thức hoạt động nhiều hợp tác xã cũ, cùng với vận động, hướng dẫn thành lập được nhiều hợp tác xã mới[4]. Đến 31/12/2021, cả nước có 27.342 hợp tác xã, tăng 16.420 hợp tác xã (gấp 2,5 lần) so với năm 2001, có 6 triệu thành viên và tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động, ở tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu công nghiệp, thương mại, vận tải, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, quỹ tín dụng nhân dân; trong đó, có một số hợp tác xã trong các ngành nghề, lĩnh vực mới mà trước đây chưa có, như lĩnh vực môi trường, y tế, cung cấp nước sạch, nhà ở, quản lý kinh doanh chợ, hợp tác xã của phụ nữ, thanh niên, những người tàn tật, cựu chiến binh; xu hướng các hợp tác xã liên kết thành các liên hợp tác xã cũng tăng lên[5].

 

Nhiều hợp tác xã được củng cố về tổ chức, nâng cao năng lực theo Luật Hợp tác xã, tập trung vào làm dịch vụ, liên kết, phối hợp, hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh, tham gia thị trường của các hộ thành viên, như: cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh, các dịch vụ làm đất, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ thành viên; chuyển giao ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, các công nghệ cao, giống cây, giống con mới, quy trình, tiêu chuẩn tiên tiến cho các hộ thành viên; phối hợp, liên kết hoạt động sản xuất kinh doanh, tích tụ, tập trung đất đai của các hộ thành viên, hình thành vùng sản xuất có quy mô lớn, phát triển các sản phẩm đặc trưng, mang thương hhiệu của địa phương theo Chương trình OCOP, gắn với phát triển du lịch, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho người dân; làm đầu mối gắn kết hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ thành viên với các doanh nghiệp, tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu[6]… Lĩnh vực và phương thức hoạt động của các hợp tác xã trở nên đa dạng, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế; hình thành những mô hình hợp tác xã mới.

Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã ngày càng ổn định và được nâng lên. Số hợp tác xã sản xuất kinh doanh có lãi tăng lên, số hợp tác xã yếu kém giảm xuống. Doanh thu bình quân của một hợp tác xã năm 2021 đạt 2.657 triệu đồng/hợp tác xã, gấp 2,5 lần năm 2001, lãi trong năm của một hợp tác xã bình quân tăng từ 92,05 triệu (năm 2001) lên 215,65 triệu (năm 2021), tăng hơn 2,34 lần. Hợp tác xã đã cơ bản hoạt động theo đúng bản chất của tổ chức hợp tác xã, hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cho sự phát triển của các hộ thành viên; phối hợp, liên kết hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên, góp phần khắc phục tình trạng phân tán, sản xuất manh mún nhỏ lẻ, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, đồng nhất, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu chất lượng của thị trường, nâng cao vị thế của người sản xuất khi tham gia thị trường, giảm được giá mua vật tư, thiết bị, các yếu tố đầu vào và tăng được giá bán các sản phẩm hàng hóa đầu ra, do đó, nâng cao được hiệu quả hoạt động, tăng thu nhập cho các hộ thành viên[7]. Các hợp tác xã còn là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế, tạo việc làm, thu nhập, xây dựng kết cấu hạ tầng, nếp sống văn hóa, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của

người dân ở nông thôn…

 

 

2. Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, tình hình hoạt động, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đến nay vẫn còn không ít hạn chế, nhiều vấn đề lý luận – thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải tiếp tục được giải quyết.

 

- Về thực tiễn

Về thực tế, những hạn chế, yếu kém của mô hình hợp tác xã cũ vẫn chưa được khắc phục triệt để. Vẫn còn những hợp tác xã đã ngừng hoạt động, không tồn tại, nhưng không giải thể được do vướng nợ thuế, nợ các tổ chức tín dụng. Một số hợp tác xã thực hiện đăng ký lại để hoạt động những còn hình thức, hoạt động của hợp tác xã hầu như vẫn như cũ, ít thay đổi, có rất nhiều khó khăn. Sự phát triển của hợp tác xã còn chậm, tốc độ phát triển thấp (chỉ bằng ½ tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế) vào có xu hướng giảm (năm 2003 là 4,92%, 2005 : 3,98%, 2010: 3,32%, 2020: 2,4%). Số lượng hợp tác xã tăng, nhưng số lượng thành viên trung bình của một hợp tác xã giảm xuống (2001, trung bình một hợp tác xã có 478 thành viên, năm 2021 còn 208 thành viên). Đa số hợp tác xã có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất, trình độ khoa học công nghệ, tiềm lực tài chính yếu, năng lực của độ ngũ cán bộ, phạm vi hoạt động của hợp tác xã hạn chế. Doanh thu của hợp tác xã thấp (trung bình khoảng 2,5 tỷ đồng/năm), số hợp tác xã sản xuất kinh doanh có lãi tăng lên, nhưng mức lãi thấp (trung bình khoảng 200 triệu đồng/năm, năm 2021), ít có khả năng tích lũy để đầu tư phát triển cơ sở vật chất, nâng cao trình độ công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên hợp tác xã. Các hoạt động liên kết, liên doanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các hợp tác xã với nhau, với các doanh nghiệp còn ít, nội dung hạn chế. Đóng góp của kinh tế tập thể, hợp tác xã vào GDP của đất nước còn thấp, có xu hướng giảm xuống (năm 2001, đóng góp của kinh tế tập thể, hợp tác xã vào GDP cả nước đạt 8,06%, giảm xuống 6,65% năm 2005, 3,99% năm 2010 và còn 3,62% năm 2020)…

 

Nguyên nhân của tình trạng này có rất nhiều, có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trực tiếp và gián tiếp, trong đó, rất quan trọng và trực tiếp nhất là những nguyên nhân từ thể chế, từ cơ chế, chính sách, sự quan tâm, hỗ trợ nguồn lực từ Nhà nước và việc thực hiện cơ chế, chính sách đều chưa đủ mức, chưa tạo được động lực và những điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển, như:

 

- Các chính sách ưu đãi về thuế đối với hợp tác xã nằm trong chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp mà chưa có chính sách ưu đãi thuế riêng cho hợp tác xã. Một số quy định không phù hợp với hợp tác xã (như: thuế thu nhập đối với vốn góp của các thành viên, thuế doanh thu của hợp tác xã đối với các thu nhập từ hoạt động làm dịch vụ, hỗ trợ cho các thành viên hợp tác xã…). Những điều này làm cho các hợp tác xã chưa được hưởng nhiều lợi ích từ các chính sách thuế.

 

- Mặc dù chính sách tín dụng đối với hợp tác xã đã có những đổi mới, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc, rào cản hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn tín dụng chưa được tháo gỡ. Nhiều hợp tác xã có nợ xấu cao; chưa thực hiện đúng các quy định của Luật Hợp tác xã về báo cáo tài chính, kế toán, công khai, minh bạch hoạt động; thiếu các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phương án sử dụng hiệu quả vốn vay… nên không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng, nhiều thành viên hợp tác xã phải tự vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, mua vật tư, nguyên liệu đầu vào thay cho việc hợp tác xã mua chung cho các hộ thành viên. Chính vì vậy, dư nợ tín dụng của các hợp tác xã còn ở mức rất thấp, ước năm 2021, dư nợ tín dụng của các hợp tác xã cả nước (hơn 27,3 nghìn hợp tác xã, hơn 6 triệu thành viên) chỉ khoảng 6.000 tỷ đồng.

 

- Số hợp tác xã được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai không nhiều do lượng đất công hiện còn rất ít, có địa phương thậm chí không còn quỹ đất công để thực hiện chính sách ưu đãi với hợp tác xã. Việc thực hiện chính sách ưu đãi đất đai với hợp tác xã gặp không ít khó khăn do các quy định chồng chéo của pháp luật và các thủ tục hành chính liên quan đến việc giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất… Giai đoạn 2003 – 2012, chỉ có 1.588 hợp tác xã (chiếm 8,1% tổng số hợp tác xã) được giao 1.752ha đất không thu tiền, có 901 hợp tác xã (chiếm 4,6% số hợp tác xã) được thuê 10.305ha. Giai đoạn 2013-2018, cả nước chỉ có 2.044 hợp tác xã được giao đất, cho thuê đất với diện tích 12.676ha.

 

- Các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ, tiếp thị, mở rộng thị trường, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nguồn nhân lực của Nhà nước đối với hợp tác xã phần vì chưa có những chính sách đặc thù, riêng cho hợp tác xã mà chung với chính sách đối với các thành phần kinh tế khác, phần vì nguồn kinh phí nhà nước dành cho hỗ trợ hợp tác xã ở các lĩnh vực này đều rất hạn chế[8]; phần vì những hạn chế từ phía hợp tác xã (quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính, trình độ khoa học công nghệ, năng lực đội ngũ cán bộ yếu…) làm cho tác động của những chính sách này của Nhà nước đối với sự phát triển của các hợp tác xã cũng bị hạn chế.

 

- Những hạn chế trong thực hiện Nghị quyết Trung ương về kinh tế tập thể, hợp tác xã những năm vừa qua còn do những hạn chế trong tổ chức thực hiện, trong tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Nghị quyết của Trung ương yêu cầu ở các cấp, các ngành phải có bộ máy quản lý chuyên trách thích hợp (các bộ có vụ, sở có phòng quản lý kinh tế tập thể) để theo dõi, hướng dẫn thực hiện chính sách với khu vực kinh tế này. Nhưng đến nay, chỉ có 2 bộ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) có Cục quản lý nhà nước kinh tế tập thể, hợp tác xã, còn ở các bộ ngành khác không thành lập tổ chức chuyên trách mà giao cho một số tổ chức của bộ thực hiện kiêm nhiệm và chỉ có một số cán bộ kiêm nhiệm theo dõi. Nhiều tỉnh, trong sở kế hoạch đầu tư không có phòng chuyên trách về kinh tế tập thể, hợp tác xã mà giao cho phòng nông nghiệp hay phòng đăng ký kinh doanh hoặc phòng kinh tế ngành kiêm nhiệm. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã cũng phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm, vừa thiếu, vừa yếu, làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, giảm sát việc tổ chức thực hiện luật pháp, cơ chế chính sách của Nhà nước với kinh tế tập thể, hợp tác xã.

 

- Về nhận thức lý luận

Việc để tồn tại kéo dài nhiều năm những hạn chế, bất cập về thể chế, cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước kinh tế tập thể, hợp tác xã mà không được sửa đổi, khắc phục, còn có nguyên nhân do có những quan điểm, nhận thức lý luận chưa đúng, chưa rõ, còn ý kiến khác nhau trong lĩnh vực này: có nguyên nhân là do nhận thức, những “ấn tượng” nặng nề về mô hình hợp tác xã kiểu cũ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trước đây. Những hợp tác xã đó đã không thúc đẩy được sự phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển. Những nhận thức, tư duy đó chậm được đổi mới, không theo kịp sự đổi mới của đất nước, không thấy rõ vai trò, vị trí quan trọng của kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở một nước phổ biến còn là sản xuất nhỏ, người sản xuất nhỏ còn là lực lượng kinh tế quan trọng, lực lượng xã hội đông đảo; không thấy rằng phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là con đường đúng đắn nhất, tốt nhất để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, tham gia chủ động, tích cực vào các chuỗi giá trị; đồng thời, là con đường đưa những người sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội một cách chủ động, tích cực, thể hiện tính ưu việt của định hướng xã hội chủ nghĩa trong vận hành, phát triển của nền kinh tế thị trường. Do đó, chưa quan tâm đúng mức tới tháo gỡ khó khăn để phát triển khu vực kinh tế này.

 

Việc để những bất cập trong thể chế, cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã những năm vừa qua còn có nguyên nhân là do còn có những nhận thức chưa rõ, chưa thống nhất về bản chất, đặc trưng trong tổ chức, hoạt động của hợp tác xã kiểu mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, trong sự phát triển đa dạng, phong phú với mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã, thiếu thống nhất nhận thức về những mô hình, tổ chức, những phương thức hoạt động cần được động viên cổ vũ, hỗ trợ phát triển, những mô hình tổ chức, phương thức hoạt động cần phải uốn nắn, điều chỉnh. Mọi người tuy đều thống nhất những nguyên tắc chung về tổ chức, hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã, như: tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng có lợi. Nhưng trước những vấn đề thực tiễn đặt ra trong sự phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã thì ý kiến lại khác nhau.

 

Hiện nay, có hợp tác xã tổ chức theo mô hình các thành viên đóng góp vốn vào hợp tác xã như nhau, do đó, các thành viên có quyền biểu quyết như nhau khi tham gia vào các quyết định chung của hợp tác xã. Nhưng, cũng có hợp tác xã, các thành viên đóng góp vào hợp tác xã những phần vốn khác nhau, những cổ phần khác nhau. Có ý kiến cho rằng, theo nguyên tắc bình đẳng, các thành viên hợp tác xã dù vốn đóng góp vào hợp tác xã khác nhau, nhưng cũng đều có quyền biểu quyết như nhau. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng quyền biểu quyết của các thành viên cần phải theo tỷ lệ vốn góp, như vậy mới công bằng, mới thu hút được nguồn vốn lớn cho hợp tác xã. Hiện nay, có nhiều hợp tác xã, thành viên chỉ là những người sản xuất kinh doanh cùng một ngành nghề, tham gia hợp tác xã để phối hợp hoạt động, hỗ trợ lẫn nhau, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhưng, có hợp tác xã còn có thành viên là các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cung ứng các yếu tố đầu vào và tiêu thụ các sản phẩm đầu ra của hợp tác xã để gắn bó lợi ích, trách nhiệm của các thành viên này với các thành viên của hợp tác xã. Song, có ý kiến cho rằng tổ chức hợp tác xã như vậy không đúng với bản chất tổ chức hợp tác xã, tạo cơ hội cho một số đối tượng tham gia hợp tác xã để được hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước. Hiện nay hợp tác xã được xác định là lực lượng nòng cốt của kinh tế tập thể, sở hữu của hợp tác xã là sở hữu tập thể do các thành viên tham gia đóng góp và tài sản tích lũy của hợp tác xã từ lợi nhuận thu được trong sản xuất kinh doanh, hợp tác xã vẫn tôn trọng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các thành viên tham gia (đây là đặc điểm mới của hợp tác xã hiện nay khác với hợp tác xã kiểu cũ trước đây). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, kinh tế hợp tác xã không chỉ bao gồm kết quả hoạt động của hợp tác xã mà còn bao gồm cả kết quả sản xuất kinh doanh của các thành viên…

 

Những hạn chế trong chính sách, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước kinh tế tập thể, hợp tác xã còn có nguyên nhân từ việc chưa nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của vai trò hỗ trợ của Nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Ở mọi quốc gia, nhất là những nước đang phát triển, những người sản xuất kinh doanh nhỏ là lực lượng đông đảo, có vị trí, vai trò rất lớn đối với đời sống xã hội, đối với sự ổn định, phát triển đất nước. Tuy nhiên, những người sản xuất kinh doanh nhỏ, do những hạn chế về thông tin, nguồn lực tài chính, trình độ quản lý, khoa học công nghệ, quan hệ kinh tế, xã hội, nên có rất nhiều khó khăn, là người yếu thế khi tham gia cạnh tranh thị trường. Người sản xuất nhỏ tham gia hợp tác xã để hợp tác xã hỗ trợ cho các thành viên, những người sản xuất kinh doanh nhỏ. Trên thế giới, ở các nước phát triển, có nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển các hợp tác xã, do đó, tổ chức hợp tác xã ở các nước này rất phát triển. Ở nước ta, một nước đang phát triển, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, người sản xuất kinh doanh nhỏ là lực lượng đông đảo, Nhà nước càng cần phải quan tâm, có vai trò và trách nhiệm hỗ trợ hợp tác xã phát triển. Tuy nhiên, điều này còn chưa được nhận thức đầy đủ, sâu sắc, do đó, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với sự phát triển của kinh tế tập thể, hợp tác xã những năm vừa qua còn nhiều hạn chế.

 

Những vướng mắc trong nhận thức lý luận như vậy thể hiện việc chưa nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng XHCN, cũng như quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong quá trình phát triển. Điều này đã làm cho nhiều cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành chưa thật sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, phân bổ, bố trí nguồn lực, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ… để phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; thiếu thống nhất, lúng túng, chậm chỉ đạo xử lý những vấn đề gây khó khăn cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển.

(còn tiếp)

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

PGS.TS Bùi Thị Lý



[1] Để triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2003, Chính phủ đã ban hành 4 nghị định, lồng ghép nội dung phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong 29 nghị định khác; Thủ tướng Chính phủ ban hành 25 quyết định, 4 chỉ thị; các bộ, ngành đã ban hành 54 thông tư, 24 quyết định, 3 chỉ thị.

Triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, Chính phủ ban hành 4 nghị định và lồng ghép nội dung phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nhiều nghị định khác; Thủ tướng Chính phủ ban hành 10 quyết định, 3 chỉ thị; các bộ, ngành ban hành 21 thông tư, 4 chỉ thị.

[2] Hợp tác xã ngoài việc giảm thuế suất phổ thông thuế thu nhập doanh nghiệp xuống mức 20%, còn được hưởng các ưu đãi khác, như miễn, giảm thuế thu nhập (áp dụng thuế suất 10%, 15%); sản phẩm xuất khẩu của hợp tác xã được hưởng thuế xuất khẩu 0%, sản phẩm nông nghiệp khi bán được áp dụng thuế suất giá trị gia tăng 5% (mức thuế suất thông thường là 10%)… Nhà nước hỗ trợ lãi suất cho vay hoặc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, cho phép hợp tác xã vay vốn thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay khi có dự án, phương án kinh doanh có hiệu quả. Hợp tác xã được giảm 50% tiền thuê đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, miễn tiền thuê đất, mặt nước trong thời gian xây dựng cơ bản, sau đó có thể được miễn tiền thuê đất từ 3 năm đến cả thời hạn thuê đất nếu hợp tác xã thực hiện dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư.

[3] Theo báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương về đổi mới, phát triển kinh tế tập thể của Ban Chỉ đạo đổi mới phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, trong 20 năm (2001-2021), doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã là  68.878 tỷ đồng, đến hết 2020, có 56 Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã được thành lập, vốn hoạt động 2.450 tỷ đồng, tổng doanh số cho vay đạt 12.865 tỷ đồng… Có hàng trăm dự án, hàng nghìn công nghệ mới được chuyển giao và ứng dụng ở các hợp tác xã (riêng từ năm 2016 đến 2021, có 24 dự án với tổng kinh phí 82,9 tỷ đồng do các hợp tác xã chủ trì đã được thực hiện); trong 5 năm 2013-2018, các địa phương đã hỗ trợ cho 3.877 lượt hợp tác xã ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới với kinh phí 95,5 tỷ đồng… Trong 20 năm, đã đào tạo, bồi dưỡng 622.068 lượt cán bộ cho hợp tác xã và thu hút được 858 cán bộ trẻ, có trình độ về làm việc ở các hợp tác xã…

[4] Trong 20 năm 2002-2021, cả nước thành lập mới được 37.820 hợp tác xã, giải thể 21.390 hợp tác xã (giai đoạn 2002-2011, thành lập mới 11.640 hợp tác xã, giải thể 6.080 hợp tác xã; giai đoạn 2012-2021, thành lập mới 26.170 hợp tác xã, giải thể 15.310 hợp tác xã. Theo Báo cáo Tổng kết của Ban Chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã).

[5] Trong đó, có 18.327 hợp tác xã nông nghiệp (67,03%), 2.048 hợp tác xã thương mại, dịch vụ (7,49%), 2.474 hợp tác xã công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (9,05%), 1.833 hợp tác xã vận tải (6,7%), 1.1181 quỹ tín dụng nhân dân (4,26%), 882 hợp tác xã xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng (3,23%), 479 hợp tác xã môi trường (1,75%), 118 hợp tác xã khác (0,43%). Đến cuối 2021, cả nước có 103 Liên hợp tác xã, tăng 9,3 lần so với năm 2001 (trong đó: 79 Liên hợp tác xã nông nghiệp và 24 liên hợp tác xã phi nông nghiệp).

[6] Đến năm 2021, cả nước có 1.200 hợp tác xã tổ chức sản xuất gắn với chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ cao, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

[7] Theo Báo cáo tổng kết của Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, các thành viên hợp tác xã bán hàng với giá cao hơn các hộ không phải là thành viên hợp tác xã khoảng trên 10% và chi phí sản xuất giảm khoảng 25%, do đó, thu nhập của hộ thành viên hợp tác xã cao hơn so với hộ không phải thành viên hợp tác xã khoảng 30%.

[8] Như kinh phí hỗ trợ bồi dưỡng cán bộ quản lý và các thành viên hợp tác xã năm 2016: 35 tỷ đồng, 2017: 40 tỷ đồng, 2018:  52 tỷ đồng, 2019: 73 tỷ đồng, 2020: 110 tỷ đồng. Trong thời kỳ 2013-2019, Chương trình khuyến công quốc gia hỗ trợ cho 44 hợp tác xã với kinh phí 8,2 tỷ đồng; các địa phương hỗ trợ cho 3.877 hợp tác xã ứng dụng khoa học, công nghệ mới với tổng kinh phí 95,5 tỷ đồng…

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết