Thứ Năm, ngày 18 tháng 04 năm 2024

Một số vấn đề lý luận-thực tiễn đặt ra qua 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (phần 2)

Ngày phát hành: 27/04/2022 Lượt xem 941

 

3. Trong những năm tới, toàn cầu hóa kinh tế, mặc dù gặp trở ngại bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, chiến tranh kinh tế, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng, thương mại và đầu tư quốc tế do đại dịch Covid-19, vẫn tiếp tục được đẩy mạnh và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự xuất hiện nhiều thành tựu khoa học công nghệ mới, nhất là công nghệ số, tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, tạo sự phát triển đột phá trên nhiều lĩnh vực. Các quốc gia đều có cơ hội tiếp cận các nguồn lực, tiếp cận thị trường quốc tế để phát triển, nhưng cũng phải đương đầu với những thách thức lớn bởi sự cạnh tranh quyết liệt trên quy mô toàn cầu, với nhiều đối tượng mạnh, bởi sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, về sử dụng lao động, bảo vệ môi trường, về tính công khai, minh bạch của quá trình sản xuất… Tận dụng tốt cơ hội, vượt qua được thách thức, một nước đang phát triển sẽ tạo được sự phát triển nhảy vọt, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển đi trước. Ngược lại, không tận đụng được cơ hội, không vượt qua được thách thức, đất nước sẽ tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới và có thể đưa đến hậu quả nặng nề cả về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh.

 

Nước ta, với thành tựu của 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, đất nước đã hội nhập quốc tế sâu rộng, ký kết nhiều hiệp định thương mại, đầu tư thế hệ mới với các quốc gia, các đối tác kinh tế lớn, những vẫn còn là nước đang phát triển, chưa vượt được ngưỡng thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, không ít hạn chế, yếu kém. Bởi vậy, trong những năm tới, Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện quyết tâm tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, phấn đấu để đến năm 2025 trở thành nước có thu nhập vượt mức trung bình thấp và đến năm 2030 trở thành nước có thu nhập trung bình cao. Đây là mục tiêu rất cao, đòi hỏi phải huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước và nguồn lực bên ngoài. Dù nguồn lực bên ngoài là hết sức quan trọng, nhưng nội lực vẫn là yếu tố quyết định, mà trong đó có nguồn lực rất lớn là lực lượng đông đảo hàng chục triệu những sản xuất kinh doanh nhỏ hiện còn rất nhiều tiềm năng phát triển. Lực lượng này không chỉ tạo ra nhiều việc làm, hàng hóa, dịch vụ cho xã hội, cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu, đóng góp vào tăng trưởng GDP của đất nước mà còn có đóng góp lớn vào giữ vững ổn định kinh tế, xã hội đất nước, nhất là khi có biến động từ bên ngoài ảnh hưởng tiêu cực, gây khó khăn cho kinh tế đất nước.

 

Tuy nhiên, hiện nay, để phát triển, phát huy được vai trò của mình, những người sản xuất nhỏ phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường về chất lượng sản phẩm, chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà họ cung ứng. Để trở thành người cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ ổn định, lâu dài, nhất là cho xuất khẩu vào những thị trường lớn, có sức mua cao, những người sản xuất nhỏ phải sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao theo đúng yêu cầu của doanh nghiệp và phải có số lượng lớn, ổn định, đồng đều về chất lượng, mẫu mã, đồng thời đáp ứng được các yêu cầu về sử dụng lao động, bảo vệ môi trường, phải tuân thủ chặt chẽ, công khai, minh bạch thông tin về nguồn gốc sản phẩm, quy trình sản xuất sản phẩm… Đây là những điều mà từng người sản xuất nhỏ khó có thể đáp ứng được. Phối hợp với nhau, liên kết với nhau thành các hợp tác xã càng trở thành nhu cầu cấp thiết với những người sản xuất nhỏ. Nếu trước đây, những người sản xuất nhỏ tham gia hợp tác xã là để giảm chi phí khi mua các yếu tố đầu vào của sản xuất và tăng thêm thu nhập khi bán sản phẩm, thì hiện nay, còn để tham gia được vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trên quy mô toàn cầu. Đây là một cơ hội lớn do toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cho những người sản xuất kinh doanh nhỏ và việc tham gia hợp tác xã sẽ tạo điều kiện để những người sản xuất nhỏ tận dụng được cơ hội này.

- Trong bối cảnh đó, để khắc phục những hạn chế hiện nay và phát triển mạnh mẽ hơn kinh tế tập thể, hợp tác xã trong những năm tới, Đảng, Nhà nước ta cần phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết một số vấn đề theo các định hướng sau:

 

(1) Làm rõ và thống nhất một số nhận thức lý luận quan trọng về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã mà thực tiễn đang đặt ra hiện nay.

 

- Khẳng định ý nghĩa, vai trò to lớn của kinh tế tập thể, hợp tác xã đối với sự phát triển đất nước ta. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là cách thức, con đường để liên kết, hỗ trợ phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của những người sản xuất nhỏ, đưa những người sản xuất nhỏ tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị quốc gia, toàn cầu, đưa người sản xuất nhỏ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là cách thức, con đường để thực hiện kết hợp giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển bền vững, kết hợp giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.

 

- Làm rõ và thống nhất nhận thức về bản chất, đặc trưng trong tổ chức, hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã. Kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã là tổ chức kinh tế dựa trên sở hữu tập thể được hình thành trên cơ sở liên kết, đóng góp tự nguyện của những người sản xuất kinh doanh, mà chủ yếu là những người sản xuất nhỏ. Tổ chức, hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng có lợi, phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương, ngành, lĩn vực, trình độ phát triển. Việc tham gia hay không tham gia hợp tác xã (tổ chức kinh tế tập thể nói chung) là hoàn toàn do các thành viên tự nguyện, không có sự áp đặt. Vốn sở hữu của hợp tác xã do các thành viên đóng góp dù bằng nhau hay không bằng nhau (theo cổ phần khác nhau và được hưởng thu nhập theo tỷ lệ cổ phần đóng góp), nhưng các thành viên đều bình đẳng, có quyền như nhau trong việc ra quyết định những vấn đề lớn của hợp tác xã (mỗi người một phiếu).  Hợp tác xã có các thành viên chính thức, là những người sản xuấy nhỏ cùng sản xuất kinh doanh trong một lĩnh vực, cùng những loại sản phẩm, tạo thành lĩnh vực hoạt động chính của hợp tác xã, đối tượng hỗ trợ, phục vụ chính của hợp tác xã và có các thành viên liên kết, là những người góp vốn, cung ứng vật tư hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm cho hợp tác xã, có lợi ích gắn bó với hợp tác xã. Hội đồng quản trị thay mặt các thành viên quản lý hợp tác xã do các thành viên bầu ra một cách dân chủ, hoạt động và điều hành hoạt động của hợp tác xã theo nguyên tắc dân chủ, mọi người được trình bày và bảo lưu ý kiến của mình, thiểu số phục tùng đa số. Hoạt động của hợp tác xã tập trung trước hết vào làm dịch vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh của các thành viên, vì lợi ích của các thành viên và chia sẻ lợi ích với các thành viên. Đồng thời, hợp tác xã có hoạt động kinh doanh bên ngoài, đáp ứng nhu cầu xã hội và thu nhập thu được từ hoạt động này cũng được chia sẻ giữa hợp tác xã với các thành viên. Phân phối cho các thành viên hợp tác xã dựa trên kết quả hoạt động của hợp tác xã, tỷ lệ đóng góp vốn của các thành viên cho hợp tác xã và mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã của các thành viên. Hợp tác xã cần từng bước tăng thêm quy mô vốn chủ sở hữu, tài sản, cơ sở vật chất kỹ thuật, để mở rộng phạm vi hoạt động và nâng cao chất lượng hoạt động bằng cách mở rộng thành viên, tăng mức đóng góp của các thành viên và tích lũy thu nhập có được từ quá trình hoạt động. Đây là những nguyên tắc chung, thể hiện bản chất, đặc trưng trong tổ chức và hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã, khác biệt với doanh nghiệp và những người sản xuất kinh doanh cá thể. Tuy nhiên, tùy thuộc tính đặc thù và điều kiện cụ thể của các ngành, lĩnh vực, các địa phương khác nhau, kinh tế tập thể, hợp tác xã ở các ngành, lĩnh vực, các địa phương có thể có những điều khác nhau trong tổ chức, hoạt động.

 

 

- Làm rõ và thống nhất nhận thức về vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Nước ta còn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, những người sản xuất kinh doanh nhỏ còn rất đông đảo. Trong bối cảnh đất nước đang phát triển nền kinh  tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh hết sức gay gắt, rất cần phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi tiền năng, mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực, tiềm năng rất to lớn của đông đảo những người sản xuất nhỏ, đồng thời hướng sự phát triển của họ theo định hướng XHCN, bằng việc phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, vừa phát triển kinh tế, vừa gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Bởi vậy, Nhà nước có vai trò và trách nhiệm to lớn. Nhà nước không chỉ tạo ra khung khổ pháp luật cho kinh tế tập thể, hợp tác xã hoạt động, mà còn cần phải tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển, tạo sức hấp dẫn thu hút sự tham gia của những người sản xuất nhỏ.

 

(2) Tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền trong Đảng, hệ thống chính trị, trong toàn xã hội về kinh tế tập thể, hợp tác xã. Tuyên truyền để thống nhất và nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đối với sự ổn định, phát triển bền vững kinh tế, xã hội đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước; về bản chất, đặc trưng riêng trong tổ chức, hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã, từ quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý đến quan hệ phân phối, phân biệt với doanh nghiệp và các tổ chức mạo danh kinh tế tập thể, hợp tác xã để lợi dụng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước, khác với kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trước đây; về vai trò và trách nhiệm của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Tuyên truyền, giới thiệu về lịch sử phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trên thế giới, nhất là ở những nước tiêu biểu, những điển hình và những kinh nghiệm, bài học có thể tham khảo. Tuyên truyền, giới thiệu quan điểm, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã để quán triệt, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Tuyên truyền, giới thiệu thực tiễn hoạt động, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã ở nước ta trong những năm đổi mới hiện nay, những điển hình tiên tiến, để học tập, nhân rộng, những sai lầm cần tránh… tạo ra không khí phấn khởi, lòng tin vào kinh tế tập thể, hợp tác xã, tạo ra động lực cho phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong xã hội. Công tác thông tin tuyên truyền cần phải tạo ra sự thống nhất và nâng cao nhận thức về trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của toàn xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã theo chức năng, nhiệm vụ, khả năng, điều kiện của mình với quyết tâm tạo được sự phát triển mạnh mẽ kinh tế tập thể, hợp tác xã trong những năm tới.

 

(3) Tập trung hoàn thiện thể chế, sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Cần phải sửa đổi, bổ sung Luật hợp tác xã năm 2021. Sau 10 năm thực hiện, thực tiễn cho thấy cần phải sửa đổi những quy định không còn phù hợp, chưa đủ rõ; bổ sung một số nội dung cần có mà hiện nay luật chưa có để luật hợp tác xã đáp ứng được yêu cầu hoạt động, phát triển của hợp tác xã trên các ngành, lĩnh vực của đất nước hiện nay. 10 năm qua, hợp tác xã ở nước ta phát triển rất đa dạng về mô hình tổ chức và phương thức hoạt động ở các ngành, lĩnh vực khác nhau; đồng thời, ngoài hợp tác xã còn có một số lượng lớn các tổ chức hợp tác, các liên hợp, liên đoàn hợp tác xã. Sự đa dạng đó cần được phản ánh, thể hiện trong luật hợp tác xã; ngoài những quy định chung, cần có những quy định riêng phù hợp với từng loại hình hợp tác xã, khuyến khích các tổ hợp tác phát triển thành hợp tác xã. Về thành viên hợp tác xã, luật cần bổ sung quy định phân biệt thành viên chính thức và thành viên liên kết về tiêu chuẩn, quyền lợi và trách nhiệm để vừa huy động được các nguồn lực cho phát triển, vừa gắn được bản chất, nguyên tắc của hợp tác xã. Luật cần có những quy định riêng tách biệt giữa hoạt động của hợp tác xã cung ứng dịch vụ cho các thành viên của mình với các hoạt động kinh doanh, giao dịch với các đối tác bên ngoài, đáp ứng nhu cầu xã hội, nhà nước có chính sách thuế, tín dụng khác nhau với các hoạt động này; cần có quy định về kiểm toán đối với hợp tác xã, cả kiểm toán nội bộ và kiểm toán bắt buộc để nâng cao hiệu quả quản lý, tăng cường tính công khai, minh bạch hoạt động của hợp tác xã; bổ sung quy định cho phép hợp tác xã được có hoạt động tín dụng nội bộ cho các thành viên khi cần thiết. Luật cần bổ sung những quy định về việc hình thành, quản lý và sử dụng các quỹ của hợp tác, bảo đảm công khai, minh bạch, từng bước nâng cao tiềm lực (vốn chủ sở hữu, tài chính, tải sản, cơ sở vật chất…) của hợp tác xã, khuyến khích hợp tác xã quan tâm đến các hoạt động xã hội, phục vụ cộng đồng (xây dựng các công trình văn hóa, kết cấu hạ tầng, giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, hoạt động văn hóa, phúc lợi xã hội…). Trong bối cảnh mới của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số được ứng dụng rộng rãi trong các ngành, lĩnh vực, Luật hợp tác xã cần bổ sung những quy định về ứng dụng công nghệ số vào trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã để tiết kiệm thời gian, chi phí, giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà, tăng cường công khai minh bạch, mở rộng kết nối, quan hệ với các đối tác trong, ngoài nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã (ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý tài chính, quản lý kế hoạch, quản lý nhân sự, giảm bớt công văn, giấy tờ; tổ chức làm việc qua mạng, hội nghị trực tuyến, đăng ký tham gia hợp tác xã qua mạng, quảng bá hình ảnh, ký kết hơp đồng, bán hàng qua mạng…); xây dựng cơ sở dữ liệu số của hợp tác xã, cơ sở dữ liệu số về kinh tế tập thể, hợp tác xã cả nước.

 

Cần phải sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách và bố trí tăng thêm nguồn lực của Nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi hơn, khuyến khích và hỗ trợ nhiều hơn cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển. Hiện nay, cơ chế, chính sách với kinh tế tập thể, hợp tác xã còn phân tán, nhiều chính sách còn lồng ghép, chung với doanh nghiệp, chưa phù hợp với yêu cầu và tính đặc thù của kinh tế tập thể, hợp tác xã; nguồn lực nhà nước hỗ trợ kinh tế tập thể, hợp tác xã còn nhỏ, không đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu đề ra. Do đó, cần có những cơ chế, chính sách riêng phù hợp với đặc thù và yêu cầu của kinh tế tập thể, hợp tác xã; Nhà nước cần giành nguồn lực lớn hơn để hỗ trợ kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển. Doanh thu, thu nhập của hợp tác xã phần lớn là phát sinh từ các dịch vụ hợp tác xã cung ứng cho các thành viên theo những quy định nội bộ, vì vậy, thuế doanh thu, thuế thu nhập đối với hợp tác xã cần phải thấp hơn so với doanh nghiệp, đồng bộ với các chính sách trợ cấp, trợ giá của Nhà nước cho các yếu tố sản xuất đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra của hợp tác xã. Nhà nước cần có chính sách để các ngân hàng thương mại giành nguồn vốn lớn hơn, điều kiện thuận lợi hơn, với chi phí thấp hơn khi vay vốn tín dụng ngân hàng (cho vay lãi xuất thấp, thủ tục đơn giản cho các chương trình, dự án sản xuất kinh doanh được đánh giá có hiệu quả, có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, không cần thế chấp); tăng thêm nguồn vốn cho Quỹ hỗ trợ hợp tác xã, tạo thuận lợi cho các hợp tác xã được vay vốn hỗ trợ từ quỹ. Đặc biệt, Nhà nước cần giành nguồn lực lớn hơn, có nhiều chính sách hấp dẫn hơn để thu hút các doanh nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ nghiên cứu, hợp tác, chuyển giao, hỗ trợ các hợp tác xã ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh như giống mới, công nghệ mới, quy trình mới, sản phẩm mới có hàm lượng khoa học công nghệ cao, chất lượng cao, giá trị cao và hỗ trợ hợp tác xã ứng dụng công nghệ số vào quản lý, tiếp cận thị trường, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm, tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế; cần quan tâm hơn, giành nhiều nguồn lực lớn hơn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phát triển nguồn nhân lực cho hợp tác xã, cùng với việc đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tập thể, hợp tác xã.

 

Đồng thời, cần đổi mới, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước kinh tế tập thể, hợp tác xã, khắc phục tình trạng phân tán thẩm quyền, trách nhiệm không rõ, cán bộ quản lý vừa thiếu, vừa yếu trong những năm vừa qua. Cần tập trung củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã của Chính phủ, của các tỉnh, thành phố với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các sở kê hoạch và đầu tư là cơ quan thường trực, phụ trách văn phòng ban chỉ đạo; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, quy chế làm việc của Ban chỉ đạo, của bộ phận Thường trực và Văn phòng Ban chỉ đạo; lựa chọn, bổ sung những cán bộ có phẩm chất, năng lực, có kinh nghiệm giúp việc  Ban chỉ đạo, có thể lập tổ chuyên gia tư vấn là những nhà khoa học, cán bộ quản lý có kinh nghiệm về quản lý kinh tế tập thể, hợp tác xã để tham mưu, tư vấn cho Ban chỉ đạo. Lãnh đạo các ngành, lĩnh vực có tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã tham gia làm thành viên Ban chỉ đạo để tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước, quyết định của Ban chỉ đạo ở ngành, lĩnh vực mình. Đưa cấc chỉ tiêu về phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các ngành, các địa phương.

 

(4) Tập trung xử lý các công việc tồn đọng, đẩy mạnh đổi mới, củng cố, phát triển các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, nhân rộng những mô hình mới, những điển hình tiên tiến.

Nhà nước cần có chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để giải thể những hợp tác xã đã ngừng hoạt động từ lâu nhưng không giải thể được vì chưa trả được nợ; chỉ đạo rà soát những hợp tác xã tồn tại chỉ có tính hình thức, những hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ, nợ nần lớn, những hợp tác xã trá hình, thành lập để núp bóng hợp tác xã hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước… để đánh giá, phân loại, có phương án xử lý (đình chỉ hoạt động, giải thể hay sắp xếp, tổ chức lại, đổi mới, củng cố để cho hoạt động, hỗ trợ phát triển…).

Yêu cầu tất cả các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã rà soát lại tổ chức, điều lệ, quy chế hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh để sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu mới, khắc phục những bất hợp lý, hạn chế, yếu kém, xây dựng đề án phát triển cho những năm tới, như phát triển thêm thành viên, tăng thêm vốn điều lệ, mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng hoạt động (cả trong và ngoài hợp tác xã), đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ số vào hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý hợp tác xã, phát triển quan hệ với các doanh nghiệp, tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế. Quan tâm đến công tác tổng kết, nhân rộng những mô hình, cách làm hay, những hợp tác xã điển hình tiên tiến trong các lĩnh vực, ở các địa phương… Đồng thời, rà soát, đánh giá tổ chức, hoạt động của các liên hiệp, liên đoàn, liên minh hợp tác xã, xây dựng đề án đổi mới, củng cố, phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động và đóng góp của các tổ chức này đối với sự phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã của đất nước.

 

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

PGS.TS Bùi Thị Lý

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết