Nhận thức, vận dụng các quy luật và giải quyết các mối quan hệ trong thực tiễn phát triển là một quá trình, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện và cũng vì vậy kết quả trong vận dụng các quy luật, giải quyết các mối quan hệ cũng có những bước thành công và hạn chế gắn liền với nhận thức và các điều kiện lịch sử cụ thể. Bài viết này tập trung phân tích quá trình nhận thức và vận dụng quy luật và các mối quan hệ lớn qua 50 năm thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
1. Về nhận thức các quy luật và các mối quan hệ
Thứ nhất, nhận thức các quy luật và các mối quan hệ là một quá trình liên tục, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, gắn với các điều kiện và yêu cầu phát triển. Nhận thức các quy luật và các mối quan hệ trong 50 năm thể hiện thành hai giai đoạn rõ rệt, giai đoạn những năm 1976-1986 và giai đoạn 1986 đến nay.
Bản thân các quy luật và các mối quan hệ luôn tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận con người có thể tiếp cận nhận thức các quy luật và các mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Tất nhiên, nhận thức là một quá trình, chính vì vậy nhận thức về các quy luật và các mối quan hệ cũng tuân theo quy luật của nhận thức. Đối với con đường quá độ đi lên CNXH và xây dựng xã hội mới từ nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nước Nga xô viết tiến lên CNXH từ nước mà ở đó CNTB có sự phát triển nhất định. Những quy luật vận động và các mối quan hệ phải xử lý trong quá trình xây dựng CNXH ở nước Nga là những tham chiếu, kinh nghiệm cho quá trình nhận thức các quy luật và các mối quan hệ trong quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam. Sẽ có những quy luật và các mối quan hệ mang tính phổ quát, song bản thân chúng sẽ có những biểu hiện đặc thù và có những điều kiện khác biệt trong vận dụng. Thực tế quá trình nhận thức các quy luật và các mối quan hệ ở Việt Nam đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhận thức về vấn đề này trong các Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước đi vào xây dựng CNXH trước Việt Nam, trong đó chủ yếu là nhận thức của Đảng Cộng sản Liên xô.
Với điều kiện của Việt Nam trong hoàn cảnh vừa bước ra khỏi chiến tranh chống Mỹ với biết bao khó khăn, yêu cầu phải nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục, thúc đẩy phát triển sản xuất. Với mong muốn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến thẳng lên CNXH nhưng nguồn lực có hạn nên nhận thức về quy luật và các mối quan hệ chịu sức ép rất lớn từ khát vọng này, và vì vậy nhận thức quy luật và các mối quan hệ đương nhiên có những hạn chế, thiếu khách quan. Việc xác định các mối quan hệ trong giai đoạn này gắn liền với tư tưởng về sự phát triển cân đối, hài hoà các lĩnh vực, các mặt trong chỉnh thể nền kinh tế vận hành theo kế hoạch hoá tập trung. Sự nhận thức còn hạn chế này cũng đã được Đảng ta chỉ rõ: “Những nguyên tắc cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là những vấn đề có tính quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nói chung chưa được nhận thức một cách sâu sắc”[1].
Bước vào giai đoạn đổi mới, nhận thức các quy luật và các mối quan hệ có bước chuyển đổi mang tính cách mạng. Nhận thức của Đảng ngày càng rõ và hoàn thiện hơn về hệ thống các quy luật vận động và các mối quan hệ trong quá trình xây dựng xã hội mới. Tại Đại hội VII, Đảng nêu những kinh nghiệm bước đầu trong đổi mới, đề cập đến mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, mối quan hệ giữa phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước[2]…Có thể nói đây là những bước phát triển nhận thức rất quan trọng về các mối quan hệ, để tiến tới có sự khái quát rõ và ngày càng đầy đủ. Tiếp đó tại Đại hội XI Đảng ta nêu 8 mối quan hệ. Đây là bước phát triển trong nhận thức về hệ thống các mối quan hệ cần quán triệt và thực thi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và đến Đại hội XII, Đảng ta nêu hệ thống 10 mối quan hệ, thể hiện sự nhận thức đầy đủ, toàn diện hơn các mối quan hệ trong lĩnh vực của đời sống xã hội. Các lĩnh vực của đời sống xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, quy định và thúc đẩy nhau. Chính qua thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng CNXH, nhận thức của Đảng toàn diện hơn và sự khái quát vì vậy cũng đầy đủ và hoàn thiện hơn. Quá trình nhận thức quy luật và các mối quan hệ đã góp phần xác định quy luật và tính quy luật của đổi mới và phát triển ở nước ta, cũng như làm rõ hơn đặc trưng bản chất của CNXH, góp phần vào sự hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, tạo ra những động lực của đổi mới và phát triển toàn diện đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới.
Thứ hai, việc nhận thức các quy luật và các mối quan hệ không chỉ trên phương diện tổng thể, có tính hệ thống, mà nhận thức bản thân mỗi quy luật cũng có sự hoàn thiện hơn về nội dung cũng như vị trí biểu hiện. Điều này cũng cho thấy quá trình nhận thức các quy luật, các mối quan hệ ngày càng được hoàn thiện. Chẳng hạn với quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển được Đảng ta nêu tại Đại hội XI và XII, nhưng đến Đại hội XIII với nhận thức mới về vai trò của các thành tố, Đại hội xác định thành quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; hay quan hệ giữa phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nêu ra tại Đại hội VII, đến Đại hội XII nêu là mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, tiếp đó tại Hội nghị Trung ương 5 khoá XII, Đảng ta khái quát nêu thành mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội. Hai mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN cũng đã khái thành quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN.
Cùng với đó vai trò và nội hàm của các mối quan hệ cũng ngày càng được nhận thức rõ hơn. Chẳng hạn trong mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội, vai trò nhà nước trong mối quan hệ này thời kỳ đầu đổi mới được nhấn mạnh phải quản lý toàn diện các hoạt động của cả nền kinh tế, thậm chí với vai trò độc quyền, dần sau đó là giảm bớt sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế. Đến Đại hội VII, nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ khác. Theo xu hướng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đến Đại hội X xác định Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật; giảm tối đã sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
Đến Đại hội XIII cùng với khẳng định chức năng kinh tế, đã có một nét mới khi đề cập đến tạo môi trường cho các tổ chức xã hội: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường”[3]. Đối với vai trò thị trường cũng được xác định ngày càng rõ, cụ thể thời kỳ đầu đổi mới, thị trường có vai trò rất hạn chế, đến Đại hội VII, thị trường được xem là có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và đến Đại hội XII khẳng định ”Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”[4]. Tại Đại hội XIII tiếp tục cụ thể hơn: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém”[5].
Vai trò của thành tố xã hội trong quá trình đổi mới được hiểu giới hạn chung trong vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, với vai trò chính là tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội[6]. Đại hội VIII có nhấn thêm vai trò giám sát, phản biện. Hội nghị Trung ương 5 (khoá XII) lần đầu tiên nhắc đến thành tố xã hội trong quan hệ với nhà nước và thị trường, song lại chỉ nhấn đến vai trò thành tố này trong khu vực nhà nước. Chỉ đến Đại hội XIII mới khẳng định và mở rộng vai trò của các tổ chức xã hội nói chung: “Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật”[7].
Như vậy, có thể thấy nhận thức về các mối quan hệ cũng như vai trò của các thành tố trong các mối quan hệ ngày càng rõ hơn. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết các mối quan hệ trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ ba, điều cần khẳng định chưa bao giờ Đảng ta phủ nhận sự tồn tại của các quy luật, những vấn đề có tính quy luật và các mối quan hệ trong tiến trình vận động của nền sản xuất xã hội. Trên thực tế, các quy luật, các vấn đề có tính quy luật cũng như các mối quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể, các đối tượng, các quá trình đều trong những điều kiện xác định. Cũng như các quy luật của tự nhiên tồn tại trong môi trường, miền xác định. Điều đó lý giải sự không chấp nhận sự vận động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường tư bản trong môi trường nền kinh tế có kế hoạch xã hội chủ nghĩa. Và khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường (xem là thành tựu của nhân loại) thì các quy luật của kinh tế thị trường đương nhiên được Đảng ta nhận thức và vận dụng, mà một trong những sáng tạo rất đáng chú ý, đó là quy luật của kinh tế thị trường luôn vận động, nhưng trong môi trường, điều kiện của đất nước định hướng đi lên CNXH thì nó không thể độc lập chi phối quá trình sản xuất, mà nó chịu sự tác động của các quy luật của một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Các quy luật đó cùng tổng hợp lực để đưa đến một xã hội với đặc trưng: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ tư, việc nhận thức và vận dụng các quy luật là hướng đến thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng, phát triển đất nước đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Nhận thức đúng, vận dụng phù hợp sẽ đưa lại thành công, việc nhận thức chưa phù hợp đương nhiên có tác động đến quá trình phát triển. Và với bản chất Đảng Mác-xít Đảng ta luôn chủ động tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kịp thời, chủ động đổi mới, nâng cao nhận thức, qua đó nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu mới trong tiến trình phát triển.
Thứ năm, sự khái quát mười mối quan hệ lớn là sự phát triển lý luận trên cơ sở tổng kết quá trình đổi mới của Đảng ta. Hệ thống mười mối quan hệ lớn tạo thành một chỉnh thể tương đối đầy đủ, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng dẫn dắt hoạt động thực tiễn xây dựng CNXH. Đây là một trong những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, đòi hỏi chúng ta nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả.
2. Thực tiễn vận dụng các quy luật, giải quyết các mối quan hệ lớn
Thứ nhất, điều khẳng định là, việc vận dụng các quy luật, giải các mối quan hệ lớn phụ thuộc trước hết vào nhận thức các quy luật, các mối quan hệ. Giai đoạn những năm 1976-1986, do chưa nhận thức sâu sắc các quy luật của quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN cùng với tư tưởng chủ quan, nóng vội nên trong thực tiễn vận dụng các quy luật và giải quyết các quan hệ chưa được hiệu quả, chẳng hạn việc xử lý mối quan hệ kinh tế và chính trị, biểu hiện tập trung ở quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng chính trị không được hài hoà, vẫn bị ảnh hưởng bởi tư duy ưu tiên chính trị. Hậu quả là, chính trị mang nặng tính quan liêu, trở thành gánh nặng cản trở sự phát triển của kinh tế; kinh tế mất động lực phát triển, rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Hay trong giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ hệ sản xuất cũng giải quyết chưa thực sự hợp lý. Chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò "tích cực" của quan hệ sản xuất, dẫn đến chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Khi xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.
Việc giải quyết các mối quan hệ khác, như quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, bảo đảm công bằng xã hội, quan hệ giữa quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, mặc dù đã có cố gắng nhằm bảo đảm ổn định hậu phương, huy động nguồn lực cho nhiệm vụ bảo về Tổ quốc trong giai đoạn này, mà chủ yếu là bảo đảm nhu cầu cho hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, tuy nhiên chưa xử lý thực sự tốt các mối quan hệ. Nguyên nhân ngoài việc gắn liền với nhận thức còn hạn chế, đó là nguồn lực cho phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc còn hạn hẹp, lại vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu, nên việc khai thác và sử dụng thiếu hiệu quả. Kinh tế kém phát triển, văn hoá được đầu tư hạn hẹp bằng nguồn nhà nước, thiếu cơ chế huy động các nguồn lực xã hội. Công bằng xã hội được thực hiện theo hình thức bình quân, cào bằng, hạn chế động lực sáng tạo. Sự phân công thiếu rõ ràng giữa Đảng lãnh đạo với nhà nước quản lý. Đảng làm thay nhà nước, nhà nước bao biện, can thiệp trực tiếp các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với chế độ tem phiếu và các phúc lợi được quy định bởi nhà nước nên người dân có tâm lý chờ đợi và cố gắng tìm việc trong khối nhà nước quản lý, làm cho biên chế tăng cao, năng suất lao động thấp. Có thể thấy việc vân dụng các quy luật, giải quyết các mối quan hệ trong giai đoạn 1976-1986 có những kết quả nhất định, song thiếu hiệu quả. Điều này được phản ánh bởi hiện thực tình hình kinh tế xã hội giai đoạn 1976-1986.
Thứ hai, có thể thấy, bước vào giai đoạn đổi mới, nhận thức về các quy luật, các mối quan hệ của Đảng ta có bước phát triển quan trọng không chỉ ở sự thừa nhận sự tồn tại, mà còn nhận thức rõ hơn nội hàm của các quy luật, các mối quan hệ. Do vậy việc vận dụng các quy luật, xử lý các mối quan hệ cũng hợp lý hơn, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển. Có thể đánh giá khái quát kết quả việc giải quyết các mối quan hệ lớn như sau:
Về quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, có thể nhận thấy mối quan hệ này được quán triệt vận dụng và giải quyết một cách hài hoà trên bình diện chung quốc gia cũng như trong từng lĩnh vực, từng ngành. Quá trình đổi mới được triển khai trước hết trong lĩnh vực kinh tế, sau đó được thúc đẩy trong toàn xã hội đã đưa lại kết quả phát triển ấn tượng, đất nước ổn định, đời sống người dân được nâng lên, quốc phòng an ninh được bảo đảm.
Trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng có sự gắn kết chặt chẽ. Đổi mới kinh tế đặt yêu cầu với đổi mới chính trị và đổi mới chính trị lại thúc đẩy mở đường cho đổi mới, phát triển kinh tế. Đổi mới kinh tế và chính trị thể hiện rõ nét qua quá trình dân chủ hoá đời sống kinh tế và đời sống chính trị đều được mở rộng. Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là quá trình thận trọng, chắc chắn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, được tổng kết từ thực tiễn để khái quát thành lý luận, vừa tránh giáo điều cũ, đồng thời không nóng vội, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm, không né tránh. Chính sự gắn bó giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị lại tạo cơ sở cho ổn định, đổi mới và phát triển trên bình diện quốc gia gần 40 năm vừa qua.
Quan hệ giữa giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa được xử lý ngày càng hợp lý và tự giác. Với sự thừa nhận kinh tế thị trường cũng là thừa nhận sự vận hành của các quy luật thị trường. Chúng ta đã ban hành các quy định phù hợp với chuẩn mực quốc tế cho sự vận hành của thị trường và cũng vì vậy, đã có 71 quốc gia và vùng lãnh thổ công nhận nền kinh tế của Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Các chủ thể kinh doanh đã chủ động, ngày càng minh bạch tuân thủ theo các quy định pháp luật, tuân thủ các quy luật thị trường và thực hiện trách nhiệm xã hội trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước đã chủ động triển khai chủ trương phát triển kinh tế đi liền với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thông qua ban hành các quy định và chính sách nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của thị trường, thực hiện các chế độ bảo hiểm và phúc lợi cho người dân. Thực tế khẳng định, trong những năm qua kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có sự phát triển mạnh mẽ.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng hợp lý. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện trên sự phát triển nguồn nhân lực, hiện đại hoá cơ sơ vật chất và khai thác ngày càng hiệu quả các nguồn lực là sự phát triển tương thích của quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt: sở hữu; tổ chức, quản lý và phân phối. Các hình thức sở hữu trong nền kinh tế được đa dạng hoá, nhiều hình thức, công nghệ quản lý mới được áp dụng, các quan hệ phân phối cũng đa dạng dựa trên sự đóng góp lao động, vốn, đất đai, tài nguyên…Chúng ta đã chấp nhận sự tồn tại đa dạng của các quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ lực lượng sản xuất cũng rất đa dạng trong các lĩnh vực, khu vực nền kinh tế. Do vậy đã khai thác, khơi thông và phát huy được tốt các nguồn lực trong xã hội cho phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc.
Quan hệ giữa giữa Nhà nước, thị trường và xã hội đã từng bước được xử lý ngày càng hợp lý, phù hợp với quá trình đổi mới nhận thức, phù hợp với điều kiện của Việt Nam để bảo đảm sự ổn định và phát triển. Quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội không phải là chung chung mà là quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy vai trò và tác động của các thành tố có những đặc điểm phổ quát chung và có những đặc điểm đặc thù gắn với tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa và gắn với từng giai đoạn của sự phát triển nền kinh tế trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là sự sáng tạo trong nhận thức và cả trong giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn và minh chứng rõ nhất là nền kinh tế có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm đổi mới vừa qua.
Mối quan hệ giữa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường cũng đã được giải quyết ngày càng tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng. Thành quả của tăng trưởng đều được chia sẻ, đời sống của người dân được nâng lên, công bằng xã hội được bảo đảm, môi trường được chú ý bảo vệ trong quá trình tăng trưởng. Có thể thấy ý thức về tăng trưởng bền vững, tăng trưởng xanh đã và đang gắn liền trong ý thức của các chủ thể.
Trong mối quan hệ giữa giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được nhận thức và triển khai chặt chẽ, gắn bó hơn. Các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế đều có tính đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Các hoạt động bảo vệ Tổ quốc đều tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế. Trong giai đoạn đổi mới, do kinh tế có sự tăng trưởng mạnh, tạo điều kiện cho tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Quan hệ giữa giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đã được xử lý hài hoà qua đó đã mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, gia tăng nội lực, tăng sự chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc. Việt Nam luôn chủ động trong chính sách đối ngoại, không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải cũng như luôn chọn đối thoại, hợp tác để giải quyết các vấn đề.
Quan hệ giữa giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ được thực hiện toàn diện hơn. Chức năng của từng chủ thể và mối quan hệ giữa các chủ thể không chỉ được chế định rõ ràng trong Điều lệ Đảng, trong Hiến pháp và pháp luật, mà trong thực tế các chủ thể đã phát huy tốt chức năng của mình, năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng được nâng lên; hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước thể hiện ngày càng rõ, quyền làm chủ của người dân cũng được phát huy qua tham gia ý kiến trực tiếp cũng như thông qua các hội đoàn.
Đối với mối quan hệ giữa giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội được kết hợp giải quyết tốt trong thực tiễn. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội được mở rộng, trật tự pháp luật được bảo đảm, mọi chủ thể trong xã hội đều tôn trọng và tuân thủ luật pháp, các hiện tượng lợi dụng, vi phạm pháp luật đều bị nghiệm trị.
Tóm lại, các quy luật, các mối quan hệ lớn đã được quan tâm giải quyết hài hoà và toàn diện trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ đã tạo ra bước chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Chúng ta đã giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự ổn định về chính trị trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường.
3. Một số vấn đề đặt ra
Qua 50 năm thống nhất và 40 đổi mới đi lên CNXH, bên cạnh sự phát triển về lý luận và kết quả xây, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, công cuộc đổi mới tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn.
Cụ thể, trước hết là giữa nhận thức các quy luật, các mối quan hệ với mong muốn vận dụng, giải quyết hiệu quả, hài hoà các quy luật, các mối quan hệ. Thực tiễn đã chứng minh, muốn vận dụng các quy luật, giải quyết tốt các mối quan hệ trước hết đòi hỏi phải nhận diện rõ về chúng. Đã có thời gian chúng ta nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc nên trong thực tiễn, vận dụng các quy luật và giải quyết các quan hệ chưa được tốt, thậm chí còn đưa đến tình hình khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào đổi mới, với sự đổi mới tư duy, nhận thức các quy luật, các mối quan hệ sát hợp hơn, song thực tế do chưa có thực tiễn trải nghiệm, nên nhận thức cũng còn những hạn chế, gây ra lúng túng triển khai trong thực tiễn. Có thể ví dụ trong quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội nhận thức về mối quan hệ và vai trò, chức năng của các thành tố cũng còn cần được tiếp tục đầu tư nghiên cứu làm rõ.
Cụ thể là: chưa luận giải thực sự rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của mỗi quan hệ nhà nước-thị trường- xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong việc xác định chức năng đã đề cập nhiều đến chức năng nhà nước và thị trường, tuy nhiên chức năng của thành tố xã hội, chưa được luận giải thực sự rõ. Hơn nữa, trong quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội, để giải quyết đúng, tốt hiện đang đặt ra yêu cầu phải phân rõ chức năng, vai trò của các thành tố. Tuy nhiên, bản thân nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đều đang trong quá trình vận động, phát triển hoàn thiện. Và vì vậy bản thân vai trò của chúng cũng sẽ được thay đổi ngay trong chính tiến trình phát triển của kinh tế thị trường, vậy liệu có thể phân định rõ vai trò các thành tố, hay chỉ xác định khung cho từng giai đoạn.
Ở mỗi trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, vai trò các thành tố cũng có những nét riêng. Do vậy, có ý kiến cho rằng, không chỉ xác định vai trò, chức năng các thành tố và quan hệ giữa chúng phù hợp với kinh tế thị trường, mà là phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp tương tác giữa các thành tố này ra sao nhằm tạo hợp lực cho quá trình phát triển cũng cần được làm rõ hơn. Hay trong mối quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, để thực sự phát huy hiệu quả, trước hết, cần phân định rõ hơn sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Theo đó, cần phân định rõ phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước nhưng không để xảy ra tình trạng Đảng làm thay Nhà nước, mà tạo điều kiện để phát huy tính chủ động, năng động và nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước.
Cùng với điều đó, cần bảo đảm sự công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình gắn với trách nhiệm người đứng đầu trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm sự tham gia của người dân và phản biện xã hội trong các khâu của những công tác này. Rõ ràng, vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu để nhận thức rõ hơn về các quy luật, về mối quan hệ và vị trí của các thành tố trong các mối quan hệ, sự thay đổi của chúng trong tiến trình phát triển để có sự chủ động giải quyết trong thực tiễn. Hai là, vấn đề giữa yêu cầu giải quyết hài hoà các mối quan hệ với ý thức và năng lực trong triển khai thực tiễn, làm cho việc giải quyết đôi khi thiếu đồng bộ, thiếu toàn diện. Trình độ, năng lực tổ chức thực hiện, kể cả ý thức trong triển khai luôn là khâu yếu trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước.
Nhìn chung trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ nhân lực trình độ cao vần còn nhiều bất cập trước yêu cầu phát triển. Nghị quyết 26 Trung ương 7 khoá XIII chỉ rõ: Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện «tự diễn biến», «tự chuyển hoá». Chính những hạn chế trên làm cho việc thực thi, giải quyết các mối quan hệ chưa thực sự hiệu quả, thiếu đồng bộ.
Ba là, vấn đề giữa yêu cầu giải quyết các mối quan hệ với nguồn lực và cơ chế chưa thực sự phù hợp. Thực tế trong quá trình giải quyết các mối quan hệ đôi khi chúng ta còn vướng không ít ở hệ thống cơ chế, quy định. Chẳng hạn, ngay trong giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN những năm qua vẫn còn nhiều bất cập; thể hiện rõ nhất ở chỗ: hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa thật đồng bộ và thống nhất; vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết tốt, còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế (nhất là trong tiếp cận các nguồn tín dụng)… Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp, chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch”[8]; “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới”[9], nhất là vai trò “cầm lái” dẫn dắt, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế có phần mờ nhạt, chưa thể hiện rõ vai trò “trọng tài” công minh trong điều khiển “cuộc chơi” của các chủ thể kinh tế trên thị trường. Vai trò là “công cụ quan trọng nhất” để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân của Nhà nước cũng chưa được rõ. Việc xây dựng nền dân chủ XHCN cũng còn nhiều hạn chế, chưa phát huy rõ vai trò cơ sở, động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, “vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”[10]. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, hiệu quả quản lý chưa cao.
Ngày nay, quy mô khách quan của sự vận động các quan hệ xã hội của đất nước đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trên các lĩnh vực cơ bản của cuộc sống. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất; tính công khai, minh bạch còn hạn chế, tính khả thi thấp. “Nội dung của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường, an ninh - quốc phòng, đối ngoại còn chưa chứa đựng đầy đủ các yếu tố phát triển bền vững. Hệ thống pháp luật hiện hành chưa theo kịp và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; bảo vệ các quyền con người và quyền công dân, cho quá trình hội nhập quốc tế. Do đó có thể thấy việc đẩy mạnh hoàn thiện thể chế cùng với việc khai thác phân bổ nguồn lực hợp lý bảo đảm các yêu cầu phát triển hài hoà các lĩnh vực đang đặt ra cấp bách. Bốn là, yêu cầu giải quyết hài hoà, hiệu quả các mối quan hệ lớn với những thách thức khách quan nảy sinh như sự biến đổi môi trường, của dịch bệnh, biến đổi khi hậu …Những thách thức này tác dộng đến việc vận dụng các quy luật, giải quyết các mối quan hệ rất khó đoán định, ảnh hưởng đến tiến trình đổi mới, gây sự bất ổn định, giảm sút tăng trưởng, tác động đến giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng, đến triển khai các hoạt động đối ngoại…Thực tiễn những năm vừa qua Đại dịch Covid tác động làm giảm tăng trưởng, đầu tư và thương mại; gián đoạn các chuỗi giá trị sản xuất quan trọng; suy giảm tiêu dùng tác động lớn đến dịch vụ và du lịch.
Bên cạnh đó tác động của biến đổi khi hậu cũng rất lớn. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan, trong đó bão, lũ lụt và hạn hán là thường xuyên và nguy hiểm nhất. Các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan gia tăng, không những gây ảnh hưởng và thiệt hại nhiều tới tài nguyên, kinh tế, phát triển xã hội, mà còn có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Bên cạnh đó những biến động trên thế giới và khu vực cũng tác động không nhỏ đến quá trình đổi mới nói chung và giải quyết các mối quan hệ lớn nói riêng. Chính trong điều kiện môi trường biến đổi đổi, nên sự vận động, tác động của các quy luật, các mối quan hệ cũng có những sự thay đổi. Do vậy vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu tổng kết nhận thức rõ và đầy đủ hơn đối với các quy luật, các mối quan hệ trong điều kiện mới, để kịp thời xử lý, giải quyết bảo đảm tốt nhất cho thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
PGS.TS. Vũ Văn Hà
Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận TW
Các tài liệu tham khảo
- ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021,
- ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016,
- ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005,
- ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.45, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006.
- ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2006.
- ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004, tr.496.
- ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987
- Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Ncb CTQG Sự thật, H. 2022
- Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, Nxb CTQG Sự thật, H. 2023
[1] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004, tr.496.
[2] Xem thêm: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2006, t. 45, tr. 262
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr. 274
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, H. 2016, tr. 103
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr. 131
[6] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr.299
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.131
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.80
[9] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.89
[10] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.88