I. NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
1. Nhận thức chung về thể chế phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo: Khái niệm thể chế phát triển: Hiện nay, trên thế giới, cả về lý luận và thực tiễn, đều có sự thống nhất cao là: Thể chế là một nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia nói chung và trong từng lĩnh vực. Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển, thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển, thậm chí làm biến dạng sự phát triển. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng và xây dựng được một thể chế phát triển phù hợp, hiệu quả. Hiện nay, dù đang còn có những nhận thức khác nhau về một số khía cạnh của thể chế phát triển, nhưng có sự thống nhất khá cao rằng: Thể chế phát triển là phương thức vận hành (vận động) của một cấu trúc xã hội, trong đó các chủ thể hoạt động và tương tác với nhau theo những quy định (quy tắc) xác định, trong những môi trường cụ thể (một lĩnh vực cụ thể hay tổng hợp nhiều lĩnh vực), nhằm đưa cấu trúc xã hội đó vào một trạng thái - trình độ phát triển nào đó với những mục tiêu đặt ra[1]. Như vậy, Thể chế phát triển là một cấu trúc đồng bộ bởi ba thành tố chính: i) - Các chủ thể tham gia (gọi là Người chơi); ii) - khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách để các chủ thể hoạt động (gọi là Luật chơi); iii) - Nội dung và môi trường lĩnh vực mà các chủ thể hoạt động (gọi là Sân chơi). Điều đó cho thấy, thể chế phát triển không đơn thuần chỉ là khung khổ pháp luật và cơ chế, chính sách; cũng không chỉ là cơ cấu tổ chức, bộ máy. Thể chế phát triển đòi hỏi sự động bộ giữa ba thành tố chủ yếu nêu trên, và phải được cụ thể hóa phù hợp trong từng lĩnh vực. Trong thể chế phát triển, các chủ thể tham gia (người chơi) bao gồm: các chủ thể xây dựng và quyết định khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách; các chủ thể thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách; các chủ thể giám sát, kiểm tra việc thực thi thể chế. “Luật chơi” cũng phải bao gồm: “luật chơi” đối với những người xây dựng và ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách; “luật chơi” cho các đối tượng thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách; “luận chơi” đối với các chủ thể giám sát, kiểm tra việc thực thi thể chế. Cả các chủ thể tham gia và “luật chơi” phải phù hợp với bản chất, đặc điểm và trình độ phát triển của “sân chơi” (chung và trong từng lĩnh vực cụ thể). Hay nói một cách hình ảnh, Thể chế là sự vận hành đồng bộ của một cấu trúc xã hội, trong đó đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa Người chơi, Luật chơi và Sân chơi. Quan niệm đó cho phép nhìn nhận Thể chế trong sự vận động, phát triển. Nội dung cốt lõi của thể chế phát triển là chế định đồng bộ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình của tất cả các chủ thể liên quan phù hợp với từng lĩnh vực và trình độ phát triển, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Cho đến nay, ở Việt Nam, chưa có quan niệm chính thức, thống nhất về thể chế phát triển KHCN. Từ khái niệm chung về thể chế phát triển nêu trên, có thể nêu khái niệm thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo (gọi tắt là thể chế khoa học - công nghệ TCKHCN) như sau: Thể chế phát triển KHCN là phương thức vận hành của một cấu trúc xã hội hữu cơ gồm hệ thống các chủ thể tham gia (liên quan) đến hoạt động sáng tạo và ứng dụng KHCN & ĐMST, trong đó các chủ thể hoạt động và tương tác với nhau theo những khung khổ pháp lý xác định, trong những môi trường hoạt động KHCN xác định, nhằm tạo được động lực phát triển, đạt được những mục tiêu đặt ra. Quan niệm về Thể chế KHCN như trên cho phép nhìn nhận Thể chế KHCN như một cấu trúc KHCN - kinh tế - xã hội trong sự vận động, phát triển, trong đó sự tương tác hữu cơ giữa các chủ thể liên quan với nhau theo một hệ thống các quy định (quy tắc) xác định, nhằm đạt tới các mục tiêu phát triển đặt ra.
Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ phải “xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo”, gắn liền với xây dựng Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu tạo động lực chủ yếu cho phát triển nhanh - bền vững đất nước”.
2. Đặc điểm cơ bản của thể chế KHCN: Thể chế KHCN có những đặc điểm chung của thể chế phát triển; đồng thời, do đặc điểm và tính chất của hoạt động khoa học và công nghệ, nó có những đặc điểm riêng sau:
(i) - Thể chế KHCN liên quan trực tiếp đến phát huy năng lực tư duy sáng tạo, hoạt động sáng tạo của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động KHCN, nhất là những chuyên gia về KHCN. Trọng tâm của Thể chế KHCN phải hướng tới kích hoạt và phát huy cao các năng lực sáng tạo này (của các cá nhân, các tập thể, đơn vị và của cả dân tộc).
(ii) - Do liên quan trực tiếp đến phát huy năng lực sáng tạo trong hoạt động KHCN, nên Thể chế KHCN phải tạo được không gian và môi trường tự do sáng tạo trong hoạt động KHCN; đồng thời luôn chứa đựng những rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu KHCN.
(iii) - Do liên quan đến phát huy trí tuệ của con người - lĩnh vực tinh thần, nên Thể chế KHCN phải đề cao giá trị sáng tạo, sở hữu trí tuệ.
(iv) - Khoa học và công nghệ ngày càng trở thành một nhân tố hữu cơ trong sự phát triển của các lĩnh vực, nên Thể chế KHCN không đơn thuần chỉ là thể chế về phát triển học thuật, công nghệ; mà là một thể chế tổng hợp, chưa đựng tất cả các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, KHCN…
(v) - Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng, Thể chế KHCN cũng chứa đựng những yếu tố của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, do liên quan trực tiếp đến những giá trị con người, sáng tạo tri thức, nên Thể chế KHCN không hoàn toàn tuân theo những quy luật của thị trường như trong kinh tế; chứa đựng mối quan hệ đặc thù giữa Nhà nước, cơ chế thị trường và xã hội (các chủ thể tham gia hoạt động và ứng dụng KHCN).
(vi) - Để tạo được động lực phát triển bền vững, Thể chế KHCN phải tạo được cơ chế gắn kết hài hòa các giá trị về tinh thần (quyền sở hữu trí tuệ) với các giá trị lợi ích (lợi ích kinh tế và các lợi ích khác) và sự chia sẻ về trách nhiệm và lợi ích giữa các chủ thể liên quan; giữa cá nhân với tập thể, đơn vị, cộng đồng và quốc gia - dân tộc.
(vii) - Thể chế KHCN không chỉ chứa đựng những nhân tố về KHCN, về kinh tế, mà còn chứa đựng các yếu tố chính trị - xã hội, văn hóa - xã hội. Các nhân tố chính trị - xã hội đóng vai trò chủ đạo trong việc định hướng mục tiêu phát triển KHCN (không chỉ là lợi ích của các chủ thể liên quan, mà còn là lợi ích của quốc gia - dân tộc). Các nhân tố văn hóa - xã hội đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo lập môi trường dân chủ, tự do sáng tạo cho hoạt động khoa học và công nghệ chân chính.
(viii) - Trong thể chế KHCN, mỗi chủ thể có vai trò và chức năng khác nhau, trong đó Nhà nước là một chủ thể (người chơi) có vị trí đặc biệt về tư cách đa diện. Nhà nước đồng thời đóng nhiều tư cách trong thể chế: người quyết định luật chơi, người tổ chức thực thi luật chơi, người kiểm soát quá trình thực thi luật chơi, người đầu tư phát triển các nguồn lực, là người chơi khi thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các chủ thể khác và toàn xã hội trong thực thi các luật chơi. Nhất là trong bối cảnh phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào KHCN, thúc đẩy phát triển nhanh, Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng ở tất cả các phương diện.
(viii) - Mục tiêu cuối cùng của KHCN là ứng dụng vào thực tiễn, thúc đẩy sự phát triển, đem lại những lợi ích mọi mặt cho con người và xã hội, vì vậy Thể chế KHCN phải hướng tới bảo đảm tính khả thi trong hoạt động khoa học và công nghệ, bao gồm: tính khả thi về khoa học và công nghệ, tính khả thi về kinh tế, tính khả thi về xã hội, và tính khả thi về môi trường sinh thái.
(ix) - Tính chất và trình độ của Thể chế KHCN phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm hoạt động sáng tạo của KHCN (chung và từng lĩnh vực), vào trình độ phát triển KHCN và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
3. Vai trò của Thể chế KHCN: Trong thể chế phát triển tổng hợp của một nước, Thể chế KHCN có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện ở những phương diện yếu sau:
1). Thể chế KHCN xác định đường lối, chiến lược, mô hình, mục tiêu phát triển KHCN & ĐMST phù hợp trong từng giai đoạn, trong từng lĩnh vực.
2). Thể chế KHCN xác lập nền tảng pháp lý cho cấu trúc và vận hành của hệ thống tổ chức, các chủ thể tham gia hoạt động KHCN của một quốc gia; xác lập cơ chế phát triển, ứng dụng KHCN & ĐMST trong tất cả các lĩnh vực.
3). Thể chế KHCN tạo cơ sở pháp lý, điều kiện và môi trường thúc đẩy phát triển tư duy và năng lực đổi mới sáng tạo - hạt nhân cốt lõi tạo nên động lực phát triển của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động KHCN ở các cấp độ khác nhau (cá nhân, đơn vị, cộng đồng, tập thể, lĩnh vực, quốc gia…).
4). Thể chế KHCN xác lập địa vị, vai trò, trách nhiệm, quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động KHCN trong quá trình phát triển, nhất là vai trò của Nhà nước, vai trò của các tổ chức, vai trò của các cá nhân tham gia hoạt động KHCN. Tạo lập khung pháp lý và điều kiện để kiến tạo và phát triển năng lực sáng tạo của các chủ thể; liên kết các chủ thể, các nguồn lực, các yếu tố theo những mô hình phát triển và ứng dụng KHCN có hiệu quả.
5). Thể chế KHCN tạo cơ sở pháp lý và cơ chế hiện thực hóa mối quan hệ mang tính đặc thù giữa Nhà nước - thị trường - các chủ thể hoạt động KHCN; phát huy hiệu quả vai trò của Nhà nước, vai trò của cơ chế thị trường và vai trò của các chủ thể trong xã hội để tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tạo lập “sân chơi” lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, phù hợp, hiệu quả đối với các chủ thể trong từng lĩnh vực.
6). Thể chế KHCN xác lập đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên kết hữu cơ giữa phát triển KHCN & ĐMST với ứng dụng vào tất cả các lĩnh vực của xã hội, nhất là trong kinh tế, tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại, hiệu quả.
7). Tạo lập cơ sở pháp lý, cơ chế, chính sách huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển, ứng dụng KHCN & ĐMST theo các mục tiêu đặt ra; thúc đẩy phát triển tiềm lực KHCN; đặc biệt là thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực KHCN trình độ cao đáp ứng với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
8). Thể chế KHCN tạo cơ sở pháp lý cho hội nhập và hợp tác quốc tế về KHCN; tạo động lực để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự đóng vai trò chủ đạo, then chốt đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước nhanh - bền vững trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc.
II. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG THỂ CHẾ KHCN Ở VIỆT NAM
Ở nước ta, cho đến nay, các cơ quan quản lý nhà nước chưa chính thức ban hành Thể chế KHCN, cũng chưa có hệ thống các tiêu chí đánh giá thể chế KHCN. Để đánh giá đầy đủ thực trạng thể chế KHCN cần phải có những nghiên cứu, khảo sát sâu sắc, hệ thống; đây là nhiệm vụ hệ trọng, rộng lớn ở tầm quốc gia. Do đó, trong báo cáo này, chỉ xin nêu nhìn nhận khái quát thực trạng một số các nội dung chủ yếu về thể chế KHCN ở nước ta, từ đó nêu lên những vấn về xây dựng và hoàn thiện thể chế KHCN trong giai đoạn mới.
1. Những kết quả chủ yếu
i). Về mặt nhận thức, trong công cuộc đổi mới và phát đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, coi “khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, là “động lực then chốt” để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đóng vai trò then chốt, quyết định đối với quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế.
ii). Trên thực tế, khoa học - công nghệ đã có những bước phát triển tích cực, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, góp phần nâng cao hơn chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao hơn tiềm lực an ninh - quốc phòng của đất nước.
iii). Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách về KHCN được ban hành tương đối đầy đủ, ngày càng hoàn thiện, đảm bảo sự quản lý của nhà nước. Các, cơ chế, chính sách tiếp tục được đổi mới, thúc đẩy xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ và tạo thuận lợi nhiều hơn cho các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Các cơ chế, chính sách được sửa đổi, bổ sung, ngày càng phù hợp với xu thế phát triển của KHCN trên thế giới, dần đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn phục vụ phát triển của đất nước.
iv). Công tác quản lý nhà nước về KHCN từng bước được đổi mới, hành lang pháp lý trong lĩnh vực KHCN được tạo lập toàn diện và đồng bộ hơn, tạo môi trường thuận lợi và cạnh tranh lành mạnh trong nghiên cứu sáng tạo, dần xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu. Phân công phân cấp, phân quyền về chức năng, nhiệm vụ quản lý phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã có những bước tiến tích cực; đã ban hành các Luật, văn bản pháp lý về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quản lý KHCN của các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ và Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp (với những mức độ cụ thể khác nhau).
v). Khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển các lĩnh vực KHCN ngày càng được hoàn thiện đồng bộ hơn. Cùng với những quy định cơ bản của Luật KHCN, những quy định của pháp luật chuyên ngành cũng đã được hình thành nhằm tạo khung khổ pháp lý cho hoạt động và phát triển KHCN tại các ngành, lĩnh vực cụ thể. Tạo lập khuôn khổ pháp lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chuyển giao công nghệ, thúc đẩy đổi mới công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KHCN. Đổi mới sáng tạo dần trở thành tư duy mới trong quản lý, điều hành; nhận thức rõ hơn về vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống sáng tạo quốc gia;
vi). Nhìn chung, các cơ chế, chính sách về tài chính đối với phát triển, ứng dụng KHCN & ĐMST ngày càng được xây dựng đầy đủ, đồng bộ và phù hợp hơn; tạo điều kiện thúc đẩy phát triển và ứng dụng KHCN & ĐMST trong các lĩnh vực ngày càng mạnh hơn, hiệu quả hơn. Luật KHCN đã xác định Nhà nước bảo đảm chi cho KHCN từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) hàng năm[2]. Đồng thời, Nhà nước cũng đã ban hành các cơ chế, chính sách để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển KHCN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp; quy định các doanh nghiệp phải dành kinh phí đầu tư để đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, đầu tư phát triển KHCN... Các chính sách về thuế đối với các chủ thể hoạt động KHCN & ĐMST cũng ngày càng được hoàn thiện hơn, theo hướng ưu đãi, khuyến khích phát triển và ứng dụng KHCN & ĐMST, nhất là công nghệ tiên tiến, công nghệ cao…
vii). Việc ban hành cơ chế tự chủ, trong đó có tự chủ về tài chính (với các mức độ khác nhau) đối với các đơn vị sự nghiệp KHCN công lập, việc thực hiện cơ chế khoán kinh phí và kiểm soát chi trong việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN của nhà nước; gắn nhiệm vụ nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn và thị trường là một bước tiến quan trọng về đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KHCN phù hợp hơn với tính chất của hoạt động KHCN & ĐMST.
viii). Nhìn chung, khung pháp lý cơ chế, chính sách phát triển thị trường KHCN, phát triển cung, cầu và mối quan hệ cung - cầu trong khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, ngày càng đầy đủ hơn, nhằm khuyến khích phát triển thị trường KHCN và đạt được những kết quả tích cực. Chú trọng hơn thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; hình thành doanh nghiệp KHCN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; khuyến khích doanh nghiệp thành lập cơ quan nghiên cứu và đầu tư mạnh cho KHCN.
ix). Tiềm lực KHCN ngày càng được nâng cao hơn (đến nay, cả nước có khoảng 3.590 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN, 303 doanh nghiệp KHCN, 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và 8 khu công nghệ thông tin tập trung...). Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về phát triển nhân lực KHCN ngày càng được hoàn thiện theo hướng đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư, cơ chế đào tạo, sử dụng, trọng dụng nhân lực KHCN, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, trình độ cao[3]. Trên thực tế, đội ngũ nhân lực KHCN đã có bước phát triển về số lượng và chất lượng có mặt được nâng lên[4].
2. Những hạn chế, bất cập
i) - Cho đến nay, chưa có một quan niệm chính thức ở cấp nhà nước về thể chế KHCN; chưa ban hành khung thể chế KHCN (chung và trong từng lĩnh vực). Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn chậm thể chế hóa các chủ trương, chính sách chung về phát triển KHCN & ĐMST của Đảng và Nhà nước; còn cồng kềnh, phức tạp, bổ sung và sửa đổi nhiều lần, liên tục, nhưng tính thống nhất, hệ thống chưa cao. Các cơ chế chính sách được ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa thực sự phản ánh đúng và chưa đáp ứng được chủ trương coi KHCN là quốc sách hàng đầu; chưa thực sự “kích cầu” mạnh mẽ trong hoạt động KHCN & ĐMST;
ii) - Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển KHCN & ĐMST vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp; vẫn còn mang nhiều tính hành chính “bao cấp”, “xin - cho” dưới các hình thức khác nhau. Các nguồn lực và tiềm lực KHCN & ĐMST còn nhiều hạn chế và chưa được sử dụng, phát huy hiệu quả cao. Văn kiện các Đại hội XI, XII, XIII của Đảng đã chỉ rõ trên thực tế khoa học - công nghệ chưa thực hiện được đầy đủ và hiệu quả cao vai trò “thực sự là quốc sách hàng đầu”; “là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” và “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
iii) - Quản lý nhà nước về KHCN & ĐMST còn những bất cập; việc phân công, phân cấp, phân quyền và ủy quyền về nhiều nội dung chưa rõ, chưa phù hợp (như về cơ chế và chính sách tài chính, về quản lý thực hiện các nhiệm vụ KHCN, về đầu tư phát triển KHCN...); nhiều chính sách còn chung chung, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đưa KHCN thành động lực phát triển mạnh kinh tế - xã hội đất nước. Cơ chế quản lý hoạt động KHCN có những mặt chưa phù hợp với thực tế khách quan (chưa chấp nhận rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu khoa học; không phù hợp với quy luật phát triển khách quan của KHCN, với thông lệ và thực tiễn pháp lý phổ biến trên thế giới, tạo ra các điểm nghẽn trong nghiên cứu và đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn…). Việc tổ chức thực hiện các cơ chế và chính sách phát triển KHCN & ĐMST và còn chưa nghiêm, “tính thượng tôn pháp luật” có lúc còn chưa được coi trọng.
iv) - Riêng về quản lý nhiệm vụ KHCN & ĐMST cũng còn nhiều bất cập: Tiêu chí phân định, xác định các nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia, cấp bộ ngành, cấp địa phương còn những nội dung chưa phù hợp, còn dàn chải, chưa thể hiện rõ những mục tiêu ưu tiên chiến lược quốc gia. Còn thiếu cơ chế để phát huy cao dân chủ trong hoạt động KHCN (dân chủ trong việc đề xuất ý tưởng nghiên cứu; dân chủ trong việc tiếp cận các nguồn lực: thông tin, tài chính, v.v…). Các quy định về phân chia loại nhiệm vụ KHCN chưa thực sự hiệu quả, cách thức phân chia loại hình nhiệm vụ như quy định hiện nay dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, làm gia tăng thủ tục hành chính, khó tổ chức quản lý hiệu quả. Tiêu chí xác định nhiệm vụ KHCN ở các cấp còn khó xác định và chưa gắn hữu cơ với tiêu chí sản phẩm đầu ra phục vụ chuyển giao cho doanh nghiệp (trong lĩnh vực KHCN), về cơ chế, chính sách phục vụ chuyển giao cho Nhà nước (trong lĩnh vực KHXH). Thủ tục hành chính liên quan đến thực hiện nhiệm vụ KHCN còn phức tạp, chưa phù hợp với bản chất lao động khoa học sáng tạo, chi phí hành chính còn lớn. Thiếu cơ chế lồng ghép giữa các chương trình KHCN cấp quốc gia, cấp bộ với chương trình của bộ ngành, địa phương, dẫn đến đầu tư dàn trải, phân tán, hiệu quả thấp.
v) - Về tổng thể, cơ chế tài chính cho hoạt động KHCN ở nước ta hiện nay vẫn chưa được đổi mới đầy đủ, đồng bộ; nhiều cơ chế, chính sách về tài chính còn chưa phù hợp đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ và với cơ chế thị trường. Trên bình diện chung cũng như ở từng cấp, còn thiếu sự gắn bó hữu cơ, hiệu quả giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi thực hiện các nhiệm vụ KHCN & ĐMST; chưa tạo động lực chủ đạo và điều kiện thuận lợi cho cá nhân, các tổ chức hoạt động KHCN, nhất là các đơn vị nghiên cứu, các doanh nghiệp đẩy mạnh phát triển, ứng dụng KHCN & ĐMST vào thực tiễn. Đầu tư của Nhà nước cho phát triển KHCN vẫn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu, lại phân tán, dàn trải, thiếu tập trung cho các lĩnh vực, công trình, nhiệm vụ trọng điểm; đồng thời lại thiếu cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút các nguồn lực xã hội và doanh nghiệp đầu tư cho KHCN, nghiên cứu và phát triển công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Thiếu các chính sách để hỗ trợ, thu hút đầu tư vào hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hỗ trợ hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia. Việc chấp hành các quy định về lập, phân bổ dự toán hàng năm còn chưa tốt, chậm triển khai thực hiện; việc hình thành các quỹ KHCN chưa đạt yêu cầu, chủ yếu vẫn dựa vào vốn NSNN cấp, chưa trở thành nguồn lực mạnh làm vốn mồi để thu hút sự đầu tư từ khu vực xã hội cho hoạt động KHCN. Thiếu các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, cơ chế, chế độ tài chính đối với cá nhân những người hoạt động KHCN & ĐMST, nhất là những người có trình độ cao, những chuyên gia giỏi còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với lao động sáng tạo và những cống hiến thực tế.
vi) - Mạng lưới các đơn vị hoạt động KHCN & ĐMST (bao gồm cả các đơn vị cung cấp dịch vụ trung gian) - lực lượng nòng cốt phát triển KHCN & ĐMST, tuy có bước phát triển, nhưng số lượng còn ít so với nhiều nước trong khu vực; quy mô, năng lực và tiềm lực phần lớn là nhỏ bé; phân bố chưa hợp lý giữa các vùng, miền và lĩnh vực hoạt động; chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo; chưa tạo thành một mạng lưới các tổ chức KHCN mạnh, hiệu quả. Đến nay, cả nước có khoảng 3.590 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN (trong đó số tổ chức KHCN công lập giảm còn 478 tổ chức, gồm 301 tổ chức trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các đại học quốc gia, các tổng cục, học viện và các đơn vị tương đương; 170 tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của UBND cấp tỉnh; 7 tổ chức trực thuộc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước).
Chính sách phát triển doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KHCN & ĐMST, nhất là doanh nghiệp công nghệ cao, còn thiên về ưu đãi về tài chính hơn so với xóa bỏ các rào cản, tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi để doanh nghiệp phát triển theo cơ chế thị trường. Các quy định và chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo và phát triển sản xuất kinh doanh trong thời đại công nghiệp 4.0 chưa được kịp thời nghiên cứu và ban hành. Chưa xác định rõ các hướng ưu tiên phù hợp, các chính sách, giải pháp mạnh để tạo đột phá về KHCN trong những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế. Chưa hình thành được những lĩnh vực KHCN mũi nhọn, đạt trình độ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh bình đẳng với khu vực và thế giới. Số lượng doanh nghiệp quan tâm và có đầu tư cho phát triển KHCN & ĐMST, đổi mới công nghệ còn ít[5]. Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011 - 2020 đặt ra mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ có 5.000 doanh nghiệp KHCN. Tuy nhiên, tính đến 31/12/2022 cả nước mới có 712 doanh nghiệp KHCN đăng ký, nghĩa là chỉ đạt được hơn 10% mục tiêu.
vii) - Cơ chế tự chủ của các tổ chức KHCN công lập chưa được hoàn thiện đồng bộ, phù hợp; việc triển khai đổi mới cơ chế hoạt động và triển khai thực hiện còn chậm. Chi đầu tư phát triển cho KHCN ở một số bộ ngành và ở các địa phương rất thấp, nên các tổ chức KHCN địa phương không đủ sức mạnh về năng lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị để triển khai các nhiệm vụ lớn. Chi sự nghiệp cho KHCN chủ yếu dành trên 70% chi cho lương cho các tổ chức KHCN công lập, chỉ còn từ 25-28% chi cho hoạt động KHCN, trong đó có tính cả phần mua sắm sửa chữa..., phần kinh phí còn lại phục vụ cho hoạt động KHCN thực sự quá ít.
viii) - Cơ chế, chính sách về phát triển nhân lực KHCN, nhất là nhân lực chất lượng cao, trình độ cao còn nhiều bất cập, có mặt chưa đồng bộ; thiếu cơ chế khuyến khích nguồn đầu tư xã hội, đặc biệt từ khu vực doanh nghiệp vào phát triển nhân lực KHCN. Chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài còn nhiều điểm chưa phù hợp. Cơ chế và chính sách về hoạt động KHCN còn nặng về hành chính, thu nhập thấp, chưa khuyến khích, động viên, phát huy cao sức sáng tạo của đội ngũ làm khoa học; làm yếu dần khả năng thu hút cán bộ có năng lực (cả trong nước và từ nước ngoài) vào làm việc trong các lĩnh vực KHCN; thiếu chính sách tạo điều kiện để các nhà khoa học trong nước được giao lưu, hợp tác và làm việc ở các trung tâm khoa học lớn trên thế giới. Đặc biệt là chưa tạo được môi trường thực sự dân chủ trong hoạt động KHCN; thiếu cơ chế, chính sách có hiệu quả để ươm mầm tài năng nghiên cứu KHCN cho đất nước. Đội ngũ cán bộ KHCN tuy có tăng về số lượng, nhưng chất lượng và năng lực còn hạn chế, không đồng bộ về cơ cấu[6];
ix). Thể chế thị trường KHCN còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và phù hợp; thị trường KHCN phát triển chậm, nhìn chung, vẫn còn đang ở dạng sơ khai, mới bước đầu hình thành; cả phía cung, phía cầu và quan hệ cung - cầu còn nhiều hạn chế, sản phẩm không đa dạng, chất lượng và trình độ nhìn chung chưa cao. Nguồn cung công nghệ trong nước chiếm tỷ trọng thấp, nhiều kết quả nghiên cứu của viện, trường chưa được chuyển giao vào thực tiễn. Các tổ chức trung gian, môi giới và cơ sở hạ tầng của thị trường KHCN còn nhỏ bé, rời rạc, tự phát, chưa liên kết thành mạng lưới hữu cơ để hỗ trợ phát triển các dịch vụ KHCN trên thị trường. Sự liên thông giữa thị trường KHCN trong nước với thị trường KHCN thế giới cũng như với các thị trường khác ở trong nước (đặc biệt là thị trường công nghệ, thị trường nhân lực KHCN và thị trường vốn) còn hạn chế. Cơ chế về mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội (trước hết là các chủ thể có hoạt động KHCN và sử dụng các sản phẩm của KHCN) trong KHCN còn nhiều mặt bất cập, chưa phù hợp (cả về nhận thức, chính sách và thực tiễn thực thi), còn có sai lệch cả về hai phía: đề cao vai trò của nhà nước (và hoạt động của các đơn vị KHCN) theo hướng tập trung bao cấp; hoặc đề cao vai trò của cơ chế thị trường, để cho các đơn vị KHCN “tự bơi” như trong kinh tế; chưa chế định thật đúng vai trò của nhà nước và vai trò của các chủ thể hoạt động KHCN trong cơ chế thị trường, phù hợp với đặc tính khách quan của hoạt động KHCN & ĐMST. Cơ chế, chính sách phát triển tài sản trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu tài sản trí tuệ còn nhiều bất cập; tài sản trí tuệ chậm phát triển; phần lớn công nghệ là nhập từ nước ngoài (gắn với các doanh nghiệp FDI); đa số kết quả nghiên cứu ở trong nước dừng lại trong phòng thí nghiệm, với quy mô nhỏ, mức độ ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh còn thấp.
Các hạn chế, bất cập về cơ chế, chính sách nêu trên, là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho KHCN chưa phát triển được mạnh mẽ. Nhìn chung sự phát triển và hiệu quả hoạt KHCN còn chưa cao so với nguồn lực được đầu tư.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập : Những hạn chế, bất cập về thể chế KHCN là hệ quả tổng hợp của những nguyên nhân khách quan (như trình độ phát triển của đất nước nhìn chung còn thấp; sự phát triển của KHCN cũng nằm trong thể chế phát triển theo chiều rộng kéo dài trong nhiều thập kỷ...); nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan, đó là:
(i) - Chậm đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy phát triển theo chiều sâu dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhận thức của không ít cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng đầu còn chưa đầy đủ, sâu sắc về vai trò, vị trí của KHCN đối với phát triển. Chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc đặc thù của hoạt động KHCN trong cơ chế thị trường.
(ii) - Nhận thức về bản chất, nội dung và cấu trúc của thể chế KHCN còn chưa đầy đủ. Công tác nghiên cứu lý luận về xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách phát triển, ứng dụng KHCN & ĐMST gắn với tổng kết thực tiễn chưa được coi trọng đúng mức; còn nhiều nội dung, cơ chế hoạt động KHCN chưa phù hợp với đặc điểm hoạt động sáng tạo KHCN trong cơ chế thị trường.
(iii) - Các quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách điều chỉnh phát triển KHCN quy định ở một số văn bản pháp luật khác nhau do nhiều cơ quan ban hành ở nhiều thời điểm khác nhau, do đó vẫn còn có không ít những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực hiện trong thực tế;
(iv) - Việc tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách về phát triển KHCN còn thiếu quyết liệt, chưa đồng bộ; cơ chế kiểm tra, giám sát còn lỏng lẻo và mang tính hình thức, dẫn đến hiệu quả thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ KHCN không cao.
(v) - Cơ chế, chính sách phát triển KHCN & ĐMST chưa gắn hữu cơ và hiệu quả cao với cơ chế, chính sách phát triển của các lĩnh vực khác (nhất là với kinh tế).
(Còn tiếp)
PGS. TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp
[1] Lựa chọn khái niệm “phương thức vận hành…” được liên tưởng từ khái niệm “phương thức sản xuất- bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất” (Tác giả Báo cáo này).
[2] Điều 49 Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013.
[3] Điều này được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 của BCHTW (khoá XI), trong đó nêu lên những tư tưởng đổi mới về vấn đề đầu tư, tài chính, ngân sách cho KHCN và chính sách trọng dụng cán bộ KHCN.
[4] Hiên nay, cả nước có hơn 63.000 cán bộ NC&PT (7 người/vạn dân). Nếu so sánh với các nước ASEAN về số cán bộ nghiên cứu trên 1 vạn dân thì Việt Nam đứng thứ 4 (với 7,02) sau Singapo (69,2), Malaysia (23,6) và Thái Lan (12,1).
[5] Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2015-2021, có tổng số 1.281 lượt doanh nghiệp trích lập Quỹ phát triển KHCN với tổng số tiền trên 23.895 tỷ đồng; so với tổng số khoảng 800.000 doanh nghiệp chỉ chiếm 0,16%. Hơn nữa, số lập Quỹ và sử dụng Quỹ tập trung chủ yếu vào một số tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp lớn.
Theo Báo cáo Đổi mới công nghệ ở Việt Nam của Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp của khối thịnh vượng chung (Australia) và Bộ Khoa học và Công nghệ (2021): các DN Việt Nam chỉ chi 1,6% doanh thu hàng năm cho hoạt động R&D, thấp hơn nhiều quốc gia trong khu vực, như: Lào (14,5%), Philippines (3,6%), Malaysia (2,6%), Campuchia (1,9%)
[6] Cả nước có hơn 63.000 cán bộ nghiên cứu – phát triển (7 người/vạn dân). Nếu so sánh với các nước ASEAN về số cán bộ nghiên cứu trên 1 vạn dân thì Việt Nam đứng thứ 4 (với 7,02) sau Singapo (69,2), Malaysia (23,6) và Thái Lan (12,1).