Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Ngày phát hành: 03/01/2022 Lượt xem 6660

 

 

- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua gàn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh, giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

 

 

 

 

1. Thành tựu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn qua gần 15 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW

Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một trong những quyết định có ý nghĩa đặc biệt về lý luận và thực tiễn của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Nghị quyết này có ý nghĩa đặc biệt không chỉ bởi nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò, vị trí chiến lược đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN mà còn bởi sau khi ban hành, Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào đời sống thực tiễn và tạo nên những đổi thay to lớn, sâu sắc đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta.

 

Thứ nhất, mặc dù liên tục đối diện với thiên tai, dịch bệnh phức tạp nhưng gần 15 năm qua nông nghiệp Việt Nam phát triển tương đối toàn diện và đạt nhiều kết quả quan trọng. Sản xuất nông nghiệp được cơ cấu lại và chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hóa, liên kết theo chuỗi giá trị, ứng dụng khoa học công nghệ, gắn với thị trường trong nước và quốc tế; phát huy tiềm năng, lợi thế vùng, miền, phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu… Các mô hình liên kết, hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ nông sản phát triển đa dạng, hiệu quả như mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, “doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao”, “chuỗi sản xuất, thương mại, chế biến, phân phối sản phẩm khép kín”, các hình thức hợp tác, hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc gia giảm nhưng tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp liên tục được cải thiện (Năm 2010 tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp là 0,49%; năm 2018 đạt 3,76%. Năm 2020, trong khi tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế khác đều giảm sâu thì nông nghiệp vẫn đạt 2,68%). Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản gắn với ứng dụng công nghệ cao phát triển nhanh. Chương trình “mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) mới được triển khai từ năm 2018 nhưng cho thấy triển vọng rất tích cực. Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, trong đó có sản xuất lúa không chỉ bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia mà còn hướng mạnh vào xuất khẩu. Xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới, xuất khẩu nông lâm thủy sản đứng thứ 2 Đông Nam Á, thứ 15 thế giới và nông sản Việt Nam đã có mặt ở trên 196 quốc gia, vùng lãnh thổ[1].

 

Thứ hai, xây dựng nông thôn mới trở thành phong trào rộng khắp cả nước với những kết quả ấn tượng. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội thiết yếu ở nông thôn ngày càng hoàn thiện. Giao thông, thủy lợi, hệ thống điện, trường học, y tế, nhà văn hóa, trung tâm thương mại được đầu tư xây dựng tương đối đồng bộ. Hiện có trên 97% số xã có đường giao thông từ trụ sở xã đến Ủy ban Nhân dân huyện được nhựa hóa, bê tông hóa; gần 80% số xã đã trải nhựa, bê tông đường ngõ xóm; trên 64% số đường trục chính nội đồng được cứng hóa bảo đảm vận chuyển hàng hóa thuận tiện quanh năm. Đến nay, 100% số xã, 99,1% số hộ nông thôn có điện. Năm 2010, chỉ có 42% số xã có nhà văn hóa, 43% số thôn có nhà văn hóa, đến 2019 có khoảng 79% số xã có nhà văn hóa, trung tâm thể thao, trong đó 71% đạt chuẩn; và có 79,2 % số thôn có nhà văn hóa, khu thể thao, trong đó 65% đạt chuẩn. Hiện 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện duy trì phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 99,8% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; năm 2018, tỷ lệ xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS là 100%; 100% số xã có trạm y tế, trong đó 99,4 xã có nhà trạm. Việc cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho người dân nông thôn đạt khoảng 94,84%[2]… Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành sớm gần 2 năm so với kế hoạch đề ra, tạo bước đột phá làm thay đổi diện mạo nông thôn Việt Nam. Đến tháng 7/2021, cả nước đã có 64,6% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 194 đơn vị cấp huyện (chiếm 29%) thuộc 51 tỉnh, thành phố đạt chuẩn nông thôn mới; có 12 tỉnh, thành phố đã có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; 4 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai, Hưng Yên, Hà Nam) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới[3]. Hiện có 351 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 38 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu[4].

 

Thứ ba, đời sống của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện và nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Hộ nông dân là đơn vị kinh tế chủ lực; kinh tế trang trại phát triển nhanh, hiệu quả; kinh tế hợp tác có đổi mới và phát triển đa dạng[5]. Theo đó, thu nhập của cư dân nông thôn ngày càng tăng (năm 2010 mới chỉ đạt 12,8 triệu đồng/người, năm 2020 đạt 43 triệu đồng/người), đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được cải thiện. Nhờ sự dịch chuyển tích cực về cơ cấu kinh tế nông thôn nên đã giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động phi nông nghiệp và dịch vụ ngay ở nông thôn. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm nhanh (bình quân khoảng 1,5%/năm), từ 17,3% năm 2010 (theo tiêu chí cũ) xuống 7,03% năm 2018 và đến năm 2020 còn dưới 3%. Sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tạo sinh kế, việc làm, thu nhập ổn định cho phần lớn cư dân nông thôn, qua đó góp phần quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển của đất nước[6]. Như vậy, qua gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, nông dân tiếp tục khẳng định vai trò to lớn trong phát triển nông nghiệp và nông thôn.

Với những thành tựu đó, qua 35 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã có những đóng góp quan trọng làm cho tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước ta không ngừng được nâng cao. Mấy năm gần đây, trong bối cảnh đại dịch covid 19, nông nghiệp, nông dân, nông thôn tiếp tục khẳng định, thể hiện vai trò như là là trụ đỡ về kinh tế xã hội của đất nước.

 

2. Một số vấn đề lý luận, thực tiễn cấp thiết đặt ra qua gần 15 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW

Bên cạnh những thành tựu to lớn, trong thời gian qua, việc phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta cũng nảy sinh, tồn tại không ít hạn chế, bất cập và những điểm nghẽn, nút thắt cần phải nhận thức và giải quyết một cách căn cơ cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Đó là:

 

Thứ nhất, quy mô sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn nhỏ, lẻ, sản xuất thô, thiếu bền vững. Mối liên kết giữa nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học còn hạn chế và thiếu bền vững. Yêu cầu tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, công nghệ cao, liên kết theo chuỗi giá trị trong khi cơ chế pháp lý thúc đẩy tích tụ ruộng đất, bảo đảm duy trì, gắn kết lợi ích, trách nhiệm giữa nông dân và doanh nghiệp trong các hợp đồng sản xuất và tiêu thụ nông sản chưa đầy đủ. Năng lực mở rộng thị trường và dự báo thị trường cho sản xuất, tiêu thụ nông sản còn nhiều hạn chế (nhiều nông sản, nhất là nông sản thô đang quá lệ thuộc vào một vài thị trường nhất định). Nghịch lý “được mùa rớt giá” vẫn thường xuyên lặp lại. Đầu tư của nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn mới chỉ đáp ứng được khoảng 55-60% nhu cầu[7]. Việc ứng dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ cao trong phát triển nông nghiệp, nông thôn còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số (do địa hình, điều kiện tự nhiên, ruộng đất manh mún, trình độ dân trí có hạn chế…). Các hoạt động tín dụng tuy có tiến bộ nhưng vì nhiều lý do vẫn khó tiếp cận đối với người dân và doanh nghiệp.

 

 

Thứ hai, một số địa bàn nông thôn nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển bền vững. Đó là tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước ở sông, kênh mương; tình trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật chưa khoa học; phát triển công nghiệp, làng nghề quy hoạch chưa đầy đủ; vệ sinh an toàn thực phẩm, nông sản chưa bảo đảm. Kết quả xây dựng nông thôn mới có sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, địa phương: có tỉnh 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, có địa phương đã chuyển sang giai đoạn nâng cao và xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu thì vẫn còn địa phương khác có số xã đạt chuẩn rất thấp, dưới 20%[8]. Chất lượng đạt chuẩn nông thôn mới và việc duy trì bền vững kết quả sau đạt chuẩn còn nhiều hạn chế. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư lớn nhưng chưa được bảo dưỡng, duy tu thường xuyên, sử dụngchưa hiệu quả, đang trở nên xuống cấp, lãng phí. Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất là năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ cơ sở trong điều kiện chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu rộng. Không ít tệ nạn xã hội nảy sinh làm cho tình hình an ninh trật tự ở nhiều địa bàn nông thôn trở nên phức tạp như: ma túy, cờ bạc, tín dụng đen, trộm cắp, mại dâm, bạo lực gia đình…

 

Thứ ba, chúng ta xác định vai trò chủ thể của cư dân nông thôn trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới nhưng thực tế cho thấy, rất nhiều vấn đề tự mình cư dân nông thôn không thể giải quyết được. Một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn sau khi dịch chuyển sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ ở khu công nghiệp, ở thành phố, đô thị hay đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài (do hết hạn hợp đồng, do dịch bệnh, do tuổi tác, sức khỏe, kỹ năng, tay nghề không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI) lại quay về nông thôn mang theo nhiều khó khăn, phức tạp cả về việc làm, đời sống, gia đình, văn hóa và an sinh xã hội… Trong khi đó, thời gian qua đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho cư dân nông thôn nói riêng, chưa thực sự hiệu quả. Nông dân ở nhiều nơi eo hẹp về nguồn lực, thiếu kiến thức về sản xuất hàng hóa, thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường. Trong hệ thống liên kết kinh tế, người nông dân vẫn thường ở thế yếu.

Nông dân vừa phải thực hiện vai trò, nghĩa vụ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời phải thuân thủ, thích ứng với quy luật khắc nghiệt của thị trường; trên thực tế, sản xuất lúa có thu nhập thấp nhưng nông dân cũng không dễ để chuyển đổi sang sản xuất, nuôi trồng cây, con khác. Không ít nơi nông dân bỏ hoang ruộng đất. Nông dân có vai trò đóng góp to lớn, quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của đất nước, nhất là trong những giai đoạn kinh tế gặp khó khăn và tác động của đại dịch covid 19 nhưng trên thực tế, nông dân lại là bộ phận nghèo nhất trong xã hội. Lao động nông thôn chiếm 47% nhưng chỉ đóng góp 19% giá trị vào tổng sản phẩm nội địa. Thu nhập bình quân của nông dân thấp, chưa bằng 1/3 thu nhập bình quân của lao động công nghiệp, dịch vụ[9]. Tỷ lệ đói nghèo vẫn chủ yếu thuộc cư dân nông thôn. Hiện có trên 90% hộ nghèo của cả nước đang sống ở nông thôn, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi[10].

 

Thứ tư, cơ chế, thể chế chính sách, pháp luật về đất đai, tín dụng, về bảo vệ môi trường, về ứng dụng khoa học, kỹ thuật, phát triển doanh nghiệp nông nghiệp, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến nông sản, về bảo hiểm nông nghiệp, về phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, lưu thông, tiêu dùng theo chuỗi giá trị, về thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, xâm nhập mặn… còn nhiều bất cập. Việt Nam là một trong 10 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long (nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển một nền nông nghiệp trù phú hiện đại nhưng trên thực tế việc đầu tư phát triển, trong đó có hạ tầng giao thông, thương mại còn rất hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là nguồn lực đầu tư của nhà nước mà còn là cơ chế, chính sách thu hút, huy động, phân bổ nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở những vùng, khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp, nặng nề của biến đổi khí hậu.

 

3. Quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Hiện nay và trong thời gian tới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài, đan xen cả những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức phức tạp. Đó là tác động mạnh mẽ, sâu sắc của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa ở trong nước và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng với yêu cầu thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đó là tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh xuyên biên giới và những tác động của tiến bộ khoa học công nghệ, của yêu cầu chuyển đổi số, đổi mới, sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững… Để tiếp tục giữ vững, phát huy vai trò, thành quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập và những vấn đề đặt ra trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chủ trương, chính sách, đề ra các nhiệm vụ trọng tâm, các giải pháp đột phá phù hợp.

 

3.1. Quan điểm

Thứ nhất, tiếp tục khẳng định, nhấn mạnh quan điểm đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò chiến lược của vấn đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự đúng đắn của quan điểm này đã được thực tiễn 35 năm đổi mới và thực tiễn gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW khẳng định một cách sinh động.

Thứ hai, tiếp tục “cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn  hướng tới mô hình mục tiêu chung là nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh” đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045[11]. Theo đó, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là thành tố cơ bản của quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của đất nước trong bối cảnh mới.

Thứ ba, đổi mới, hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là khâu đột phá để huy động và phát huy hiệu quả các nguồn lực, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng xã hội, nhất là vai trò chủ thể của cư dân nông thôn để thực hiện thành công mô hình “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”. Cần khẳng định điều này bởi đổi mới, hoàn thiện thể chế nói chung và thể chế phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng không chỉ để khắc phục điểm nghẽn, nút thắt tức thời mà đây là yêu cầu có tính thường xuyên vừa cấp bách vừa mang tầm chiến lược của quá trình phát triển.

 

3.2. Nhiệm vụ, giải pháp

 

3.2.1. Các nhiệm vụ trọng tâm

Một là, về phát triển nông nghiệp. Cần thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm chủ yếu sau: (i) Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp[12], khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới (nhất là đất đai và nguồn nước), phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, ổn định quy mô lớn theo hướng hiện đại, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, phù hợp nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; (ii) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp bảo đảm tiêu chuẩn phổ biến về vệ sinh an toàn thực phẩm; (iii) Gắn kết nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, đa dạng các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ nông sản, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị…

 

Hai là, về xây dựng nông thôn mới. Lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tiếp tục thực hiện tốt hơn, hiệu quả, thực chất hơn, bền vững hơn chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Sự chuyển biến tích cực, thực chất về đời sống, nếp sống phải thể hiện sinh động tới từng thôn, xóm, bản, làng, phum, sóc, hộ gia đình và mỗi người dân sinh sống ở nông thôn. Nông thôn ổn định, phát triển hiện đại, văn minh thì đất nước mới ổn định, phát triển hiện đại, văn minh. Theo đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm chủ yếu sau: (i) Thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới mới kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản; (ii) Tiếp tục xây dựng và khai thác, phát huy hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, kết nối chặt chẽ nông thôn và đô thị, giữa xây dựng nông thôn mới với quá trình đô thị hóa; (iii) Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng liên kết theo chuỗi giá trị; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình “mỗi xã một sản phẩm” gắn với xây dựng thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm; (iv) Bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, xử lý ô nhiễm môi trường, nhất là rác thải, nước thải; v) Gắn kết và tích hợp một số chương trình đầu tư đang triển khai trên địa bàn nông thôn vào Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới[13].

 

Thứ ba, về phát huy vai trò của cư dân nông thôn. Cần thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau: (i) Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển kinh tế nông nghiệp, giảm nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm và xây dựng nông thôn mới; cải thiện, nâng cao thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân; nông dân phải thực sự là chủ thể và thụ hưởng xáng đáng với những đóng góp của mình trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; (ii) Nâng cao khả năng, năng lực, cơ hội để cư dân nông thôn phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái bền vững phù hợp với lợi thế vùng miền, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; (iii) Có chính sách hợp lý để chuyển lao động nông thôn sang các lĩnh vực phi nông nghiệp một cách bền vững; gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị hóa nông thôn, tạo điều kiện để cư dân nông thôn trở thành cư dân đô thị mà không dẫn đến di cư quy mô lớn[14]

 

3.2.2. Một số giải pháp

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền để thống nhất nhận thức trong toàn hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên và nhân dân, cả cư dân đô thị và cư dân nông thôn về vị trí, vai trò chiến lược của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị ở nước ta. Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới không chỉ nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân mà đây cũng là nhiệm vụ, điều kiện, tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và ổn định chính trị ở nước ta. Đây là trách nhiệm và lợi ích của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó trước hết phải huy động và phát huy có hiệu quả các nguồn lực từ nông thôn và vai trò chủ thể thực sự của nông dân.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ, phát huy nguồn lực đầu tư bảo đảm phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững. Thể chế và chất lượng của thể chế đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển của quốc gia nói chung[15] và trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng, nhất là trong bối cảnh phục hồi kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Trước hết là thể chế, pháp luật thuận lợi cho việc quy hoạch, tích tụ, tập trung đất đai, áp dụng kỹ thuật, công nghệ cao, cơ giới hóa và đi lên sản xuất lớn hiện đại. Nghiên cứu sửa đổi Luật đất đai năm 2013 theo tinh thần đồng bộ hóa thể chế, pháp luật về đất đai bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế trong lĩnh vực đất đai phải phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khắc phục tình trạng nông dân giữ đất rồi bỏ hoang trong khi doanh nghiệp thiếu đất sản xuất kinh doanh; khắc phục tình trạng nông, lâm trường vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh vừa thực hiện chức năng như quản lý nhà nước về đất đai; quy định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ thể thu hồi đất, chủ thể bị thu hồi đất tạo môi trường, cơ chế minh bạch để tích tụ, tập trung đất đai phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn và bảo đảm sinh kế cho người dân có đất bị thu hồi…

 

Có cơ chế, chính sách đủ sức hấp dẫn để thu hút, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, tiêu dùng nông sản làm nòng cốt thúc đẩy hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, phát triển thị trường ở nông thôn, nhất là vùng sâu, xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện cơ chế, chính sách hướng nghiệp, đào tạo nghề cho cư dân nông thôn. Đổi mới, phát triển chính sách tài chính, tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm, vùng miền; gắn sản xuất với chế biến, với nhu cầu thị trường, theo chuỗi giá trị, theo vùng chuyên canh, tập trung, không ngừng nâng cao giá trị nông sản.

 

Thứ ba, chú trọng đầu tư phát triển và khai thác, sử dụng có hiệu quả kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn gắn với phát triển công nghiệp, đô thị, trong đó, ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thông trọng yếu tạo liên kết vùng, hệ thống hạ tầng bến cảng, thủy lợi, hạ tầng thương mại, hạ tầng số, hạ tầng xã hội để hình thành và phát triển hệ thống sản xuất, thu mua, chế biến, cung ứng, tiêu thụ nông sản hiện đại gắn với vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn theo chuỗi giá trị, thông minh, bền vững gắn với thị trường trong nước và thế giới. Quan tâm nghiên cứu xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là về đất đai, thổ nhưỡng, cây trồng, vật nuôi, thị trường, pháp lý... Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao trong sản xuất, chế biến nông sản, nâng cao giá trị, kháng bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tập trung đầu tư phát triển và khai thác, sử dụng có hiệu quả kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, trước hết là hạ tầng giao thông và thương mại ở vùng biên giới, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bằng sông Cửu Long để thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, hiện đại, quy mô lớn, hiệu quả cao, thích ứng với biến đổi khí hậu, tối ưu hóa giá trị nông sản và xây dựng thương hiệu sản phẩm.

 

Thứ tư, đổi mới, nâng cao chất lượng nhân lực góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Để khai thác, sử dụng, phát huy tiềm năng, lợi thế tài nguyên thiên nhiên phải chăm lo phát huy tài nguyên con người. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, đại dịch covid 19, biến đổi khí hậu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư… sẽ tiếp tục thu hút lao động nông thôn, đồng thời tiếp tục đẩy nhiều lao động thủ công ra khỏi nhà máy và nhiều người trong số đó vì nhiều lí do sẽ trở về nông thôn. Đây là thời điểm để nhận diện rõ vị trí, vai trò, khó khăn, thách thức, lợi thế, tiềm năng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta. Theo đó, việc hướng nghiệp, đào tạo nghề cho cư dân nông thôn phải chú ý mấy nhóm đối tượng với yêu cầu: (i) Để dịch chuyển lao động sang công nghiệp, dịch vụ; (ii) Phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác; (iii) Phát triển doanh nghiệp nông nghiệp; doanh nghiệp ở nông thôn. Trong đó, nhấn mạnh hướng nghiệp, đào tạo nghề gắn với tạo việc làm, sinh kế bền vững, khả năng chống chịu, thích ứng với sự biến đổi, biến động của khí hậu, của thị trường cho người dân và doanh nghiệp, khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi liên kết, cung ứng của doanh nghiệp, tình trạng sinh kế thiếu ổn định, dễ bị tổn thương của lao động như trong bối cảnh đại dịch covid-19 vừa qua.

 

Trong đột phá về nhân lực, phải thúc đẩy phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn thực hiện vai trò “bà đỡ” để đưa vốn, thị trường, tri thức, kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại và chuỗi giá trị. Đồng thời, phải coi trọng thúc đẩy các mô hình liên kết, hợp tác sản xuất theo Luật Hợp tác xã năm 2012, theo chuỗi giá trị, phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao bảo đảm tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm để kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Số lượng, quy mô, chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, của các hình thức liên kết, hợp tác theo hướng hiện đại và chuỗi giá trị sẽ là nhân tố cơ bản, quan trọng trong tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta theo mô hình “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”.

 

Thứ năm, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở nông thôn, nhất là năng lực quản lý nhà nước về phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới[16]; tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cần chú trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh toàn diện, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong điều kiện mới. Tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cư dân nông thôn, trước hết là chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai, quy hoạch, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, đổi mới, sáng tạo, hướng nghiệp, dạy nghề, vật tư nông nghiệp, giống cây trồng, vật nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, phát triển các loại thị trường, tín dụng… Mọi tổ chức, cá nhân vi phạm chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đều phải bị xử lý, trừng trị nghiêm minh, kịp thời.

 

PGS.TS Lê Văn Lợi

Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 



[1] Nguyễn Xuân Cường: Những điểm sáng của ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020, tại rang: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/821042/nhung-diem-sang-cua-nganh-nong-nghiep-viet-nam-giai-doan-2016---2020.aspx.

[2] Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 -2020: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.

[3]Nguồn:https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/09/xay-dung-nong-thon-moi-dat-ket-qua-to-lon-toan-dien-va-mang-tinh-lich-su/

[4] Nguồn: https://dangcongsan.vn/kinh-te/ca-nuoc-da-co-64-63-so-xa-dat-chuan-nong-thon-moi-585817.html

[5] Ban Truyền thông Tập đoàn Điện lực Việt Nam: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn – từ Nghị quyết đến cuộc sống, tại trang: https://www.evn.com.vn/d6/news/Nong-nghiep-nong-dan-nong-thon-tu-nghi-quyet-den-cuoc-song-142-203-29490.aspx.

[6] Nguyễn Xuân Cường: Những điểm sáng của ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020, tại rang: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/821042/nhung-diem-sang-cua-nganh-nong-nghiep-viet-nam-giai-doan-2016---2020.aspx.

[8] Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 -2020: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020.

[9] Nguyễn Thị Ánh: Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững ở nước ta, tại trang: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/819844/phat-trien-nong-nghiep%2C-nong-thon-ben-vung-o-nuoc-ta.aspx.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr 124.

[12] Xem thêm Quyết định số: 255/QĐ-TTg ngày 15 tháng 02 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025.

[13] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr 261.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr 166-167.

[15] Xem Trần Quốc Toản – Phùng Hữu Phú – Tạ Ngọc Tấn: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển đất nước: Hiện trạng – vấn đề đặt ra – định hướng trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr 439-442.

[16] Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu: Đến năm 2025, tối thiểu có 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; Đến năm 2030, có ít nhất 90% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; có trên 70% số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới, trong đó 35% số đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

* Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết