Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Một số yếu tố quốc tế tác động đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân giai đoạn 2021 - 2030

Ngày phát hành: 05/02/2022 Lượt xem 4273

 

Mở đầu

Nông nghiệp nông thôn, nông dân là những vấn đề “xưa như trái đất’ vì là cội nguồn của loài người và thế giới hiện đại. Vì vậy, nông nghiệp, nông thôn nông dân luôn mang tính toàn cầu, chịu sự chi phối của bối cảnh toàn cầu cả về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội. Vi vậy, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân không thể đặt ngoài bối cảnh toàn cầu.

 So với thời điểm các đây 10 -15 năm, bối cảnh toàn cầu đã có nhiều thay đổi, với những thông số mới như đại dịch Covid-19, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thức tư và biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh hơn, các chính sách và mô hình thích ứng cũng định hình rõ hơn. Điều này chắc chắn sẽ tác động đến tư duy, chính sách và thực tiễn nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong những thập kỷ sắp tới.

 

1. Xu hướng toàn cầu hóa hậu Covid-19

Nông nghiệp là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu. Trên thực tế, giá trị gia tăng toàn cầu do nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh bắt thủy sản tạo ra đã tăng 73% theo giá trị thực từ năm 2000 đến 2019, đạt 3,5 nghìn tỷ USD vào năm 2019. Không chỉ vậy, nông nghiệp còn cung cấp việc làm cho 874 triệu người vào năm 2020, tổng cộng 27%. của lực lượng lao động toàn cầu.

 

 

   Khi nói đến sản xuất, tổng sản lượng cây trồng chính tăng 53% từ năm 2000 đến năm 2019, đạt mức cao kỷ lục 9,4 tỷ tấn vào năm 2019. Một nửa sản lượng cây trồng chính trên toàn cầu chỉ được tạo ra từ bốn loại cây: mía, ngô, lúa mì và gạo. Sản lượng dầu thực vật đã tăng mạnh do nhu cầu dầu cọ tăng lên, với sản lượng tăng hơn gấp đôi từ năm 2000 đến năm 2018. Sản lượng thịt cũng tăng mạnh, tăng 44% trong giai đoạn 2000 đến 2019, đạt 337 triệu tấn. Bất chấp số lượng thực phẩm được sản xuất ngày càng tăng, mức độ phổ biến của tình trạng thiếu dinh dưỡng trên toàn cầu đã tăng mạnh từ năm 2019 đến năm 2020, dưới cái bóng của đại dịch COVID-19. Gần 10% dân số thế giới bị đói vào năm 2020, so với 8,4% vào năm 2019.

 

  Đại dịch covid-19 có ảnh hưởng tiêu cực lớn đến ngành nông nghiệp. An toàn vệ sinh thực phẩm bị đe dọa nghiêm trọng do hạn chế khả năng di chuyển, tương tác của người dân và sức mua của người dân giảm. Hầu hết các nhóm dân số dễ bị tổn thương nhất đã bị ảnh hưởng. 

 

Đại dịch Covid-19 không chỉ làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội phổ biến xung quanh người dân và sự khác biệt về khả năng chống chịu của các hệ thống nông nghiệp trên toàn thế giới mà còn cho thấy nhu cầu nâng cao mạng lưới xã hội phụ thuộc vào việc tạo thu nhập và ổn định của người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Vào tháng 8 năm 2020, Eric Kemp-Benedict và Sara Talebian, thuộc LeadIT[1] đã công bố một nghiên cứu Sự đổ vỡ trong toàn cầu hóa hay một thế giới cam kết bền vững? Năm kịch bản để khám phá thế giới hậu COVID-19.  Các tác giả đã trình bày năm kịch bản hậu đại dịch có thể nhìn xa hơn đến năm 2050 và theo các tác giả, những người ra quyết định có thể sử dụng để đánh giá lại và kiểm tra tính vững chắc của các kế hoạch, chiến lược và chính sách trong một loạt các tương lai có thể xảy ra.

 

  Giống như tất cả các cuộc khủng hoảng trong quá khứ, tình hình đại dịch hiện tại của COVID-19 đã bộc lộ một số lỗ hổng liên quan đến thương mại quốc tế (Aylor et al., 2020). Đại dịch cũng minh họa một sự thay đổi ngoại sinh lớn đối với hệ thống toàn cầu (Buckly, 2020). Các nhà hoạch định chính sách, viện sĩ và các nhà thực hành đã bắt đầu dự đoán tương lai của thương mại quốc tế mang tính khu vực hơn là toàn cầu, dự báo hiện tượng phi toàn cầu hóa. Họ cho rằng chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ thu hẹp và các quốc gia sẽ bắt đầu xây dựng khả năng phục hồi. Sự thịnh vượng kinh tế đối với một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào thương mại quốc tế.

 

   The Economist đã chỉ ra rằng Thế giới mới sẽ hoạt động theo cách khác. Toàn cầu hóa sẽ dẫn đến các liên kết sâu hơn trong các khối khu vực. Các chuỗi cung ứng ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á đang tìm nguồn cung ứng nhiều hơn từ gần nhà hơn. Ở châu Á và châu Âu, hầu hết thương mại đã là nội khối và tỷ trọng đã tăng kể từ năm 2011. The Financial Times cho rằng tương lai hợp lý không phải là trao đổi quốc tế sẽ chết. Tuy nhiên, nó có khả năng trở nên khu vực hơn và ảo hơn.

 

 Thương mại khu vực đã hoạt động trước đại dịch COVID-19. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, năm 2019 thương mại quốc tế đạt mức thấp nhất. Đồng thời, các nước láng giềng bắt đầu thương mại hàng hóa và dịch vụ tăng từ 10% lên 18% trong hai thập kỷ qua. Điều này mở ra một câu hỏi mới về tác động đến thương mại quốc tế do COVID-19 hay cuộc khủng hoảng trong quá khứ (Baldwin & Tomiura, 2020). Tổ chức Thương mại Thế giới giải thích rằng các hiệp định thương mại khu vực đã tăng từ dưới 100 lên 500.Dựa trên các hiệp định thương mại có đi có lại, các nước đối tác hiện đang giao dịch với nhau, điều này làm tăng tỷ trọng của thương mại khu vực.

 

 

2. Xu hướng phát triển nông nghiệp 4.0

 Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên sự xuất hiện và ứng dụng rộng rãi các tri thức và công nghệ mới: dữ liệu lớn, chuỗi khối, trí tuệ nhân tạo, robot, internet vạn vật, thưc tế ảo, thực tế tăng cường và nhiều thức nữa. Đây không chỉ là cuộc cách mạng công nghệ mà là cuộc cách mạng toàn diện cả về thể chế, xã hội, có tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra một thời đại mới. Nông nghiệp, nông thôn, nông dân không đứng ngoài dòng thác này, chịu sự tác động sâu sắc,toàn diện mà một trong những biểu hiện là chuyển sang nông nghiệp 4.0.

 

2.1. Khái niệm nông nghiệp 4.0

Năm 2017, Hiệp hội máy nông nghiệp châu Âu (European Agricultural Machinery) đã tổng kết các cuộc cách mạng nông nghiệp. Vào đầu thế kỷ XX, nông nghiệp 1.0 được vận hành chủ yếu sử dụng sức người với khoảng một phần ba dân số tham gia vào sản xuất nhưng năng suất thấp và không ổn định. Tiếp đó vào những năm 50 với sự khởi đầu của nền nông nghiệp 2.0 hay còn gọi là cuộc cách mạng xanh trên cơ sở sử dụng các giống mới và áp dụng cơ giới hóa, sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp. Cuộc cách mạng này chịu sự ảnh hưởng bởi công trình và quan điểm của Norman Borlaug, người được trao giải Nobel Hòa bình vì những đóng góp quan trọng của ông đối với sản xuất nông nghiệp. Với sự thay đổi này, nền sản xuất nông nghiệp đã tạo ra bước tiến mới về cơ bản đáp ứng được nhu cầu lương thực, thực phẩm của con người. Đến những năm 90, gần 40 năm sau cuộc cách mạng xanh, nông nghiệp 3.0 ra đời với chủ trương nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo giá trị lợi nhuận và gia tăng, chủ động nâng cao sản lượng và chất lượng. Trong thời điểm này, công nghệ định vị toàn cầu (GPS) đã bắt đầu được triển khai kết hợp với công nghệ cảm biến và điều khiển từ xa (remote sensing) và sau đó các ứng dụng không dây dần dần được áp dụng. Đến những năm gần đây, Đức là nước đầu tiên khởi phát cách mạng công nghiệp 4.0 từ đó các lĩnh vực khác cũng dần sử dụng khái niệm này để đặt ra mục tiêu hướng tới trong các bước phát triển để phù hợp với xu hướng và đòi hỏi tất yếu đổi mới công nghệ trong đó có nông nghiệp. Khái niệm nông nghiệp 4.0 với đặc trưng là nền nông nghiệp ứng dụng kỹ thuật số và kết nối các thiết bị để điều khiển tự động trong quá trình sản xuất.

 

  Nông nghiệp 4.0 là một quy trình khép kín bằng công nghệ mà con người không cần có mặt trực tiếp bao gồm tự động hóa từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển và chế biến; giống chất lượng cao, phân bón thông minh, thuốc trừ sâu thảo dược; canh tác chính xác; ứng dụng điện toán đám mây để truy xuất nguồn gốc nông sản... Bản chất của nông nghiệp 4.0 sẽ là kết nối internet suốt chuỗi giá trị, tạo ra nhiều sản phẩm mới, tối ưu hóa quy trình sản xuất, thay đổi phương thức quản trị để sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn.

 

Trong bối cảnh CMCN 4.0, phát triển nông nghiệp sẽ tập trung ứng dụng các công nghệ chính như: Công nghệ nhà kính là một trong những loại công nghệ được áp dụng phổ biến nhất trong nông nghiệp, giúp tránh được điều kiện khí hậu bất lợi, bảo đảm luôn giữ được môi trường ổn định cho cây trồng vật nuôi, chống côn trùng, bệnh tật lây lan. Công nghệ canh tác: trong đó các kỹ thuật trồng cây thủy canh dựa trên cơ sở cung cấp dinh dưỡng qua nước; kỹ thuật khí canh dựa trên cơ sở cung cấp dinh dưỡng dưới dạng phun sương mù và kỹ thuật trồng cây trên giá thể - dinh dưỡng chủ yếu được cung cấp chủ yếu ở dạng lỏng thông qua giá thể trơ (sỏi nhỏ, tro trấu, xơ dừa...). Công nghệ tưới với hệ thống tưới nhỏ giọt là biện pháp tưới tiêu tiết kiệm nước nhất, giảm đến 30-60% nước so với phương pháp tưới tiêu truyền thống. Công nghệ sinh học đã góp phần tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao hơn. Công nghệ bảo quản và chế biến nông sản đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và tổ chức sản xuất, góp phần quan trọng trong việc quản lý và tổ chức sản xuất, góp phần quản lý tốt hơn chất lượng nông sản, tăng giá trị nông sản. Công nghệ thông tin nhằm kiểm soát tự động hóa tất cả các khâu của quá trình sản xuất, làm tăng khả năng thích ứng và tiếp cận của nông dân trước những biến động về thời tiết và thị trường.

 

2.2. Các lĩnh vực nông nghiệp 4.0

Theo tổng kết của các tổ chức quốc tế, đến nay, nông nghiệp 4.0 tập trung vào các các lĩnh vực sau:

(1) Ứng dụng cảm biến kết nối vạn vật ở hầu hết các trang trại nông nghiệp (IOT Sensors). Các thiết bị cảm biến và thiết bị thông minh được kết nối và điều khiển tự động trong suốt quá trình sản xuất nông nghiệp, giúp ứng phó với biến đổi khí hậu, cải thiện vi khí hậu trong nhà kính.

(2) Công nghệ đèn LED sử dụng đồng bộ trong canh tác kỹ thuật cao để tối ưu hóa quá trình sinh trưởng, ứng dụng ở các quốc gia có quỹ đất nông nghiệp ít hoặc nông nghiệp đô thị.

(3) Canh tác trong nhà kính, nhà lưới, sử dụng công nghệ thủy canh, khí canh nhằm cách ly môi trường tự nhiên và chủ động ứng dụng đồng bộ công nghệ canh tác và thu hoạch.

(4) Ứng dụng tế bào quang điện (Solar cells) để sử dụng hiệu quả không gian, giảm chi phí năng lượng, hầu hết các thiết bị trong trang trại/doanh nghiệp được cấp điện mặt trời và các bộ pin điện mặt trời.

(5) Ứng dụng Robot thay cho việc chăm sóc cây trồng, vật nuôi ngày càng trở nên phổ biến, được ứng dụng tại các quốc gia già hóa dân số và có quy mô sản xuất lớn.

(6) Ứng dụng các thiết bị bay không người lái (Drones) và các vệ tinh (Satellites) để khảo sát thực trạng thu thập dữ liệu của các trang trại, từ đó phân tích khuyến nghị trên sơ sở dữ liệu cập nhật được để quản lý trang trại chính xác.

(7) Ứng dụng Internet, điện thoại di động, điện toán đám mây để nâng cao hiệu quả hoạt động của công nghệ tài chính phục vụ trang trại. Khi đó tất cả các hoạt động của trang trại được kết nối bên ngoài, nhằm đưa ra công thức quản trị trang trại có hiệu quả cao nhất.

 

 

3. Thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển nông nghiệp, thực phẩm bền vững và nông nghiệp thông minh với khí hậu. 

 

3.1. Tác động quan lại giữa nông nghiệp và biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu và nông nghiệp là những quá trình có mối quan hệ với nhau, cả hai đều diễn ra trên phạm vi toàn cầu, tác động xấu của biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nông nghiệp. Theo báo cáo IPCC AR5, phát thải khí nhà kính toàn cầu do các lĩnh vực kinh tế khác nhau gây ra. 3/4 lượng khí thải được sản xuất trực tiếp, trong khi 1/4 lượng khí thải được tạo ra từ sản xuất điện và nhiệt hỗ trợ cho lĩnh vực này.

 

 Tác động của nông nghiệp đến biến đổi khí hậu. Theo đánh giá của WB, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất chiếm khoảng 1/4 lượng phát thải khí nhà kính gây ra biến đổi khí hậu. Phát thải nông nghiệp lớn nhất đến từ việc chuyển đổi đất đai, chẳng hạn như phát quang rừng làm trang trại; mêtan từ chăn nuôi và sản xuất lúa gạo; và nitơ oxit từ việc sử dụng phân bón tổng hợp. 

Nông nghiệp cũng là ngành tiêu thụ đất và nước lớn nhất, có tác động đến rừng, đồng cỏ, đất ngập nước và đa dạng sinh học. Hệ thống sử dụng đất và thực phẩm tạo ra chi phí môi trường, sức khỏe và nghèo đói ước tính gần 12 nghìn tỷ đô la mỗi năm.

 

Điều này có thể diễn ra thông qua những thay đổi về nhiệt độ trung bình, lượng mưa và các khí hậu khắc nghiệt; thay đổi trong sâu bệnh và bệnh; thay đổi nồng độ carbon dioxide trong khí quyển và tầng ôzôn trên mặt đất; sự thay đổi chất lượng dinh dưỡng của một số loại thực phẩm; và những thay đổi trong mực nước biển.  Biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng đến nông nghiệp, với các tác động phân bổ không đồng đều trên toàn thế giới. Những thay đổi khí hậu trong tương lai rất có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất cây trồng ở các nước vĩ độ thấp, trong khi ảnh hưởng ở các nước vĩ độ bắc có thể là tích cực hoặc tiêu cực.  Chăn nuôi cũng góp phần chống lại biến đổi khí hậu thông qua phát thải khí nhà kính.

Nông nghiệp góp phần làm trái đất nóng lên thông qua phát thải khí nhà kính do con người gây ra và bằng cách chuyển đổi đất phi nông nghiệp như rừng thành đất nông nghiệp. Vào năm 2020, Cơ chế Tư vấn Khoa học của Liên minh Châu Âu ước tính rằng hệ thống lương thực nói chung đóng góp 37% tổng lượng phát thải khí nhà kính và con số này tất nhiên sẽ tăng 30–40% vào năm 2050 do dân số tăng trưởng và thay đổi chế độ ăn uống. 

 

 

Tác động của biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp

  Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) đã công bố một số báo cáo đánh giá tài liệu khoa học về biến đổi khí hậu. Vào năm 2019, Ủy ban này đã công bố các báo cáo trong đó nói rằng hàng triệu người đã bị mất an ninh lương thực do biến đổi khí hậu và dự đoán sản lượng cây trồng toàn cầu sẽ giảm từ 2% - 6% trong vòng 1 thập kỷ. Một nghiên cứu năm 2021 ước tính rằng, mức độ nghiêm trọng của tác động từ đợt nắng nóng và hạn hán đối với sản xuất cây trồng, đã tăng gấp ba lần trong vòng 50 năm qua ở châu Âu, từ mức thiệt hại từ -2,2% trong giai đoạn 1964 - 1990 lên -7,3% trong năm 1991-2015. 

 

Về lâu dài, sự thay đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến nông nghiệp theo một số cách:

- Năng suất, về số lượng và chất lượng cây trồng;

- Thực hành nông nghiệp, thông qua những thay đổi của việc sử dụng nước (tưới tiêu) và các đầu vào nông nghiệp như thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu và phân bón;

- Các tác động môi trường, đặc biệt là liên quan đến tần suất và cường độ thoát nước của đất (dẫn đến rửa trôi nitơ), xói mòn đất, giảm tính đa dạng của cây trồng;

- Không gian nông thôn, thông qua việc mất và tăng đất canh tác, đầu cơ đất đai, từ bỏ đất đai, và các công trình thủy lợi;

- Thích nghi, các sinh vật có thể trở nên cạnh tranh nhiều hơn hoặc kém hơn, cũng như con người có thể phát triển khẩn cấp để phát triển các sinh vật thích ứng mạnh hơn, chẳng hạn như các giống lúa kháng lũ hoặc chịu mặn.

 

  Hầu hết các nhà nông học tin rằng sản xuất nông nghiệp nói chung sẽ bị ảnh hưởng bởi mức độ nghiêm trọng và tốc độ của biến đổi khí hậu, nhưng ảnh hưởng không quá nhiều bởi các xu hướng biến đổi khí hậu từ từ. Nếu thay đổi từ từ, có thể có đủ thời gian để điều chỉnh quần thể sinh vật. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu nhanh chóng có thể gây hại cho nông nghiệp ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia vốn đã có điều kiện đất đai và khí hậu khá nghèo nàn, vì có ít thời gian hơn để chọn lọc và thích ứng tự nhiên một cách tối ưu.

 

  Theo báo cáo của Liên hợp quốc “Biến đổi khí hậu và đất đai: một báo cáo đặc biệt của IPCC về biến đổi khí hậu, sa mạc hóa, suy thoái đất, quản lý đất bền vững, an ninh lương thực và các luồng khí nhà kính trong các hệ sinh thái trên cạn”, giá lương thực sẽ tăng 80% vào năm 2050 có khả năng dẫn đến tình trạng thiếu lương thực. Một số tác giả cũng cho rằng tình trạng thiếu lương thực có thể sẽ ảnh hưởng đến những vùng nghèo trên thế giới nhiều hơn so những vùng giàu có.

 Các chuyên gia dự báo, trong những thập kỷ tới, biến đổi khí hậu sẽ tác động lớn đến an ninh lương thực, các mô hình phát triển cây trồng và việc xóa đói giảm nghèo.

 

 

An ninh lương thực: Biến đổi khí hậu rất có thể ảnh hưởng đến an ninh lương thực ở cấp độ toàn cầu, khu vực và địa phương. Biến đổi khí hậu có thể làm gián đoạn nguồn cung cấp lương thực, giảm khả năng tiếp cận thực phẩm và ảnh hưởng đến chất lượng thực phẩm.  Một báo cáo năm 2020 cho thấy gần 690 triệu người - hay 8,9% dân số toàn cầu - bị đói, tăng gần 60 triệu người trong vòng 5 năm.  Thách thức về an ninh lương thực sẽ chỉ trở nên khó khăn hơn, vì thế giới sẽ cần sản xuất thêm khoảng 70% lương thực vào năm 2050 để nuôi khoảng 9 tỷ người.

 

Các mô hình phát triển cây trồng: Để nghiên cứu sâu hơn ảnh hưởng của hiện tượng nóng lên toàn cầu đối với nông nghiệp , có thể sử dụng các loại mô hình khác, chẳng hạn như mô hình phát triển cây trồng , dự đoán năng suất, lượng nước hoặc phân bón tiêu thụ , có thể được sử dụng. Những mô hình như vậy cô đọng kiến thức tích lũy được về khí hậu, đất và những ảnh hưởng quan sát được từ các kết quả của các hoạt động nông nghiệp khác nhau. Do đó, họ có thể kiểm tra các chiến lược thích ứng với những thay đổi của môi trường.

 

Xoá đói giảm nghèo. Mức độ dễ bị tổn thương của người nghèo ở các nước đang phát triển trước các tác động ngắn hạn của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tần suất gia tăng và mức độ nghiêm trọng của các hiện tượng thời tiết bất lợi có thể gây ra tác động tiêu cực. Điều này cần được tính đến khi xác định chính sách nông nghiệp. 

 

3.2. Giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu ở các nước đang phát triển

 Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) đã báo cáo rằng nông nghiệp có trách nhiệm hơn một phần tư tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Do tỷ trọng của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu là khoảng 4%, những số liệu này cho thấy rằng các hoạt động nông nghiệp tạo ra lượng khí nhà kính cao. Công nghệ và thực hành nông nghiệp đổi mới có thể đóng một vai trò trong việc giảm thiểu biến đổi khí hậu và thích ứng. Tiềm năng thích ứng và giảm nhẹ này không ở đâu rõ rệt hơn ở các nước đang phát triển, nơi năng suất nông nghiệp còn thấp; tình trạng nghèo đói, dễ bị tổn thương và mất an ninh lương thực vẫn ở mức cao; và những tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu dự kiến sẽ đặc biệt khắc nghiệt. Việc tạo ra các công nghệ nông nghiệp cần thiết và khai thác chúng để cho phép các nước đang phát triển thích ứng với hệ thống nông nghiệp của họ với biến đổi khí hậu cũng sẽ đòi hỏi những đổi mới trong chính sách và thể chế.Trong bối cảnh này, thể chế và chính sách là quan trọng ở nhiều cấp độ.

 

Travis Lybbert và Daniel Sumner đề xuất sáu nguyên tắc chính sách: 

(1) Các phản ứng về thể chế và chính sách tốt nhất sẽ nâng cao các luồng thông tin, động lực và tính linh hoạt.

(2) Các chính sách và thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế và giảm nghèo thường sẽ cải thiện khả năng thích ứng của nông nghiệp và cũng có thể mở đường cho việc giảm thiểu biến đổi khí hậu hiệu quả hơn thông qua nông nghiệp.

(3) Kinh doanh như thường lệ của những người nghèo trên thế giới là không tương xứng.

(4) Các lựa chọn công nghệ hiện tại phải được cung cấp nhiều hơn và dễ tiếp cận hơn mà không bỏ qua năng lực và đầu tư bổ sung.

(5) Thích ứng và giảm nhẹ trong nông nghiệp sẽ đòi hỏi các phản ứng của địa phương, nhưng các phản ứng chính sách hiệu quả cũng phải phản ánh các tác động toàn cầu và các mối liên kết giữa các bên.

(6) Thương mại sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cả giảm thiểu và thích ứng, nhưng bản thân nó sẽ được định hình quan trọng bởi biến đổi khí hậu.

    Các dự án do nhà nước hoặc tổ chức phi chính phủ tài trợ có thể giúp nông dân chống chịu tốt hơn với biến đổi khí hậu, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng thủy lợi cung cấp nguồn nước đáng tin cậy khi mưa trở nên thất thường hơn. 

 

3.3. Phát triển nông nghiệp bền vững và hệ thống thực phẩm bền vững

Nông nghiệp bền vững là một chủ đề trong chính sách quốc tế liên quan đến tiềm năng giảm thiểu rủi ro môi trường, và là một xu thế trong thực hành nông nghiệp trên phạm vi toàn cầu. Những người thực hành nông nghiệp bền vững tìm cách tích hợp ba mục tiêu chính vào công việc của họ: một môi trường lành mạnh; lợi nhuận kinh tế; công bằng kinh tế và xã hội. Mọi người tham gia vào hệ thống thực phẩm - người trồng trọt, chế biến thực phẩm, nhà phân phối, nhà bán lẻ, người tiêu dùng và người quản lý chất thải - đều có thể đóng một vai trò trong việc đảm bảo một hệ thống nông nghiệp bền vững. Có nhiều phương pháp thường được sử dụng bởi những người làm nông nghiệp bền vững và hệ thống lương thực bền vững. Tuy nhiên, nông nghiệp bền vững không chỉ là một tập hợp các thực hành. Nó cũng là quá trình thương lượng: sự thúc đẩy và kéo giữa những lợi ích, đôi khi cạnh tranh của một cá nhân nông dân hoặc của những người trong cộng đồng, khi họ làm việc để giải quyết các vấn đề phức tạp về cách chúng ta trồng thực phẩm và chất xơ…

 

Trong Hội nghị về Biến đổi Khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021, 45 quốc gia đã cam kết tài trợ hơn 4 tỷ đô la để chuyển đổi sang nông nghiệp bền vững. 

 Gắn liền với nông nghiệp bền vững, xây dựng Hệ thống thực phẩm bền vững cũng là một xu hướng đang được các quốc gia và tổ chức quốc tế quan tâm thúc đẩy…

 

Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc mô tả một hệ thống lương thực bền vững như sau:  Hệ thống lương thực bền vững (SFS) là hệ thống lương thực mang lại an ninh lương thực và dinh dưỡng cho tất cả mọi người theo cách mà các cơ sở kinh tế, xã hội và môi trường để tạo ra an ninh lương thực và dinh dưỡng cho các thế hệ tương lai không bị tổn hại. Điều này có nghĩa rằng:

- Nó mang lại lợi nhuận xuyên suốt (bền vững về kinh tế);

- Nó có lợi ích trên diện rộng cho xã hội (tính bền vững của xã hội);

- Nó có tác động tích cực hoặc trung tính đến môi trường tự nhiên (tính bền vững của môi trường).

Hệ thống lương thực bền vững bắt đầu bằng việc phát triển các phương pháp canh tác nông nghiệp bền vững, phát triển các hệ thống phân phối thực phẩm bền vững hơn, tạo ra chế độ ăn bền vững và giảm lãng phí thực phẩm trong toàn hệ thống. Hệ thống lương thực bền vững đã được cho là trọng tâm của nhiều, hoặc tất cả 17 Mục tiêu Phát triển bền vững. Chuyển sang các hệ thống lương thực bền vững là một thành phần quan trọng để giải quyết các nguyên nhân của biến đổi khí hậu. Hệ thống lương thực bền vững thường là trung tâm của các chương trình, chính sách tập trung vào tính bền vững.

 

3.4. Nông nghiệp thông minh với khí hậu

Nông nghiệp thông minh với khí hậu (CSA) là một cách tiếp cận tổng hợp để quản lý cảnh quan để giúp thích ứng các phương pháp nông nghiệp, vật nuôi và cây trồng, với sự thay đổi khí hậu đang diễn ra do con người gây ra và, nếu có thể, chống lại nó bằng cách giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời tính toán đến dân số thế giới ngày càng tăng, để đảm bảo an ninh lương thực. Vì vậy, không chỉ nhấn mạnh vào nông nghiệp bền vững, mà còn là tăng năng suất nông nghiệp. “CSA ... phù hợp với tầm nhìn của FAO về nông nghiệp và lương thực bền vững và hỗ trợ mục tiêu của FAO là làm cho nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có năng suất cao hơn và bền vững hơn”.

 

CSA có ba trụ cột: (1) Tăng năng suất và thu nhập nông nghiệp; (2) Thích ứng và xây dựng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu; (3) Giảm và / hoặc loại bỏ phát thải khí nhà kính.

 

  CSA liệt kê các hành động khác nhau để đối phó với những thách thức trong tương lai đối với cây trồng và thực vật. Liên quan đến nhiệt độ tăng và căng thẳng nóng, ví dụ như CSA khuyến nghị sản xuất các giống cây trồng chịu nhiệt , lớp phủ , quản lý nước , nhà che bóng, cây ranh giới và nhà ở và khoảng cách thích hợp cho gia súc. Cần phải lồng ghép CSA vào các chính sách cốt lõi của chính phủ, các khung chi tiêu và lập kế hoạch. Để các chính sách CSA có hiệu quả, chúng phải có khả năng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nói chung, các mục tiêu phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo. Chúng cũng phải được tích hợp với các chiến lược, hành động quản lý rủi ro thiên tai và các chương trình mạng lưới an toàn xã hội.

 

Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG) hiện đang mở rộng quy mô nông nghiệp thông minh với khí hậu. Trong Kế hoạch hành động về biến đổi khí hậu đầu tiên (2016-2020), cũng như bản cập nhật sắp tới áp dụng cho giai đoạn 2021-2025, Ngân hàng Thế giới cam kết làm việc với các quốc gia để cung cấp nền nông nghiệp thông minh với khí hậu nhằm đạt được ba thắng lợi là tăng năng suất, nâng cao khả năng phục hồi, và giảm lượng khí thải.

 

Kết luận:

Trên đây chỉ là phác họa sơ lược mang tính thông tin về quang cảnh toàn cầu trong những thấp kỷ tới khi bàn về nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Bối cảnh và những xu hướng đó vừa mang lại thời cơ, nhưng đặt ra rất nhiều thách thức cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Trong số các thách thức, thách thức lớn nhất là thể chế và nguồn lực để chuyển đổi nền nông nghiệp, phát triển nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững. Vì theo quy luật phát triển, cơ hội là đồng đều, nhưng khả năng nắm bắt cơ hội và khả năng vượt qua thách thức là không đồng đều. Những rủi ro phát triển, trong đó có sự phân hóa trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân là khó tránh khỏi. Trên thực tế, những xu hướng nêu trên đã và đang tác động ngày càng rõ nét, việc phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn sẽ mang lại những luận cứ xác thực cho việc xác định quan điểm, chủ trương, chính sách trong giai đoạn tới mà trong tham luận nay chưa đề cập.

 

PGS. TS Lê Bộ Lĩnh

Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.

 

 

 

 


 

 



[1] Nhóm Lãnh đạo Chuyển đổi Công nghiệp, tập hợp các quốc gia và công ty cam kết hành động để đạt được Thỏa thuận Paris. Nó được đưa ra bởi chính phủ Thụy Điển và Ấn Độ tại Hội nghị thượng đỉnh về hành động khí hậu của Liên hợp quốc vào tháng 9 năm 2019 và được hỗ trợ bởi Diễn đàn Kinh tế Thế giới.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết