Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Nhận diện về trí thức, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng tới việc xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức

Ngày phát hành: 13/11/2022 Lượt xem 2855

 


 

1. Nhận diện trí thức

 

Trong mọi thời đại và trong mọi xã hội trí thức luôn là nền tảng của tiến bộ xã hội, là nhân tố duy trì, tiếp nối và pháp triển nền văn hiến của dân tộc, của quốc gia. Trong thời đại ngày nay, giá trị của trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức đang được xem là một nguồn lực đặc biệt quan trọng cho phát triển nền kinh tế trí thức và xã hội số, là một trong những chỉ số cơ bản xác định sức mạnh cạnh tranh quốc gia trong thế giớ toàn cầu hóa. Tuy nhiên câu hỏi: thế nào là người trí thức? vẫn còn khá nhiều ý kiến khác nhau. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đang có nhiều cách tiếp cận khác nhau về trí thức, người trí thức. Điều này cho thấy khái niệm về trí thức vẫn là một khái niệm mở mà nội hàm của khái niệm này tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu của mỗi người, mỗi trường phái. Việc xác định nội hàm của khái niệm trí thức có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng thái độ ứng xử, chế độ, chính sách về trí thức của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, Đảng ta quan niệm: Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu kiến thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội[1]. Theo quan điểm của Đảng việc nhận diện trí thức cần căn cứ vào các tiêu chí:

- Lao động trí óc

- Có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định

- Có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo truyền bá và làm giàu kiến thức

- Tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.

 

Như vậy một trí thức về cơ bản phải đáp ứng đầy đủ cả bốn tiêu chí nêu trên, nếu thiếu dù chỉ một tiêu chí trong các tiêu chí này không thể xem là một trí thức đúng nghĩa.

 

Thật ra cũng cần thấy rằng mỗi một tiêu chí nhận diện trí thức cũng không có nội hàm tuyệt đối, tính chất của các tiêu chí còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thời đại và bối cảnh phát triển của đất nước trong các điều kiện lịch sử cụ thể.

Lao động trí óc là một tiêu chí quan trọng của trí thức, nhưng cũng cần làm rõ thế nào là lao động trí óc. Bởi không thể có lao động nào thuần túy là trí óc và cũng không có lao động nào là thuần túy chân tay. Sự phân biệt lao động trí óc và lao động chân tay cần được xác định ở mức độ phức tạp của công việc đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao trong thực hiện công việc ấy. Người lao động trí óc là người không chỉ có kiến thức mà còn phải biết vận dụng khả năng tư duy của mình để phân tích, phát triển các kiến thức đó trong xử lý công việc chuyên môn của bản thân. Lao động trí óc luôn là lao động sáng tạo, chuyển hóa các thông tin được thu nhận thành kiến thức để phát triển lên một tầm cao mới của nhận thức để đáp ứng các tiêu chí quan trọng khác của người trí thức. Do vậy, những người lao động trí óc chỉ có thể duy trì vị trí, công việc của mình khi liên tục biết chuyển hóa các thông tin thu nhận được thành kiến thức, phát triển chúng thành những kiến thức mới, thúc đẩy sự phát triển. Thực tiễn cho thấy không ít người mang danh là người lao động trí óc, nhưng kiến thức của họ không được cập nhật và chỉ dừng lại ở mức độ được đào tạo trước đó, thiếu sự chuyển hóa thông tin thành kiến thức mới để vận dụng sáng tạo vào công việc, họ trở nên xơ cứng, máy móc trong công việc, bảo thủ và trì trệ. Trong trường hợp này họ không thể trở thành trí thức.

 

Tiêu chí có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định là một tiêu chí quan trọng để xác định danh xưng trí thức. Trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định được hình thành thông qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển liên tục thông qua tự đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Vấn đề đặt ra là cần xác định trình độ học vấn ở cấp độ nào được xem là cao? Trong quan niệm trước đây, người có bằng cao đẳng đã được xem là người có trình độ học vấn cao. Nhưng ngày nay với trình độ phát triển cao của khoa học, công nghệ và yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, xuất phát điểm của trình độ cao chắc không thể bắt đầu từ trình độ cao đẳng, mà phải từ trình độ đại học trở lên. Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là chất lượng thật sự của một số người có bằng cấp nhưng lại không phản ảnh đúng trình độ thật của họ. Bằng cấp là sự ghi nhận kết quả đào tạo của một con người, xác lập một trình độ học vấn về lĩnh vực chuyên môn nhất định. Do vậy, bằng cấp nhất thiết phản ánh đúng trình độ thật sự của người được cấp bằng. Tuy nhiên vẫn còn không ít vấn đề trong giáo dục - đào tạo đang tạo ra những “thật, giả” trong bằng cấp chuyên môn. Tình trạng gian lận và tiêu cực trong thi cử chậm được phát hiện và xử lý đã để loạt một số người không đủ trình độ và tiêu chuẩn vào các cơ sở đào tạo đại học, sau đại học, tình trạng mua bằng, bán danh, dùng bằng giả để tiến thân đang tạo ra không ít hoài nghi về thực học, thực tài của một số cá nhân có bằng cấp cao, làm bức xức dư luận xã hội, ảnh hưởng đến hình ảnh của trí thức.

 

Tiêu chí có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo truyền bá và làm giàu kiến thức có ý nghĩa quan trọng xác lập năng lực và phẩm giá của người trí thức. Năng lực tư duy độc lập luôn là giá trị cốt lõi của người trí thức, chỉ có tư duy độc lập người trí thức mới có khả năng sáng tạo để tạo ra tri thức mới, để thực hiện phản biện xã hội, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Để có tư duy độc lập người trí thức rất cần có tự do và quý trọng tự do. “Trí thức nói chung, nhất là những người tài quý trọng lao động và giá trị sáng tạo, là những nhân cách tự trọng cao về phẩm giá làm người nên họ coi trọng đạo lý và chân lý. Họ có sự mẫn cảm, nhạy cảm đặc biệt, có đời sống nội tâm và thế giới tinh thần phong phú, dễ bị tổn thương, dễ bị dằn vặt trước những nỗi đau khổ, bất công, ngang trái, những diễn biến phức tạp của thời thế và nhân thế cũng như nhân tình thế thái ở đời. Cả trí thức khoa học lẫn nghệ sĩ sáng tạo đều có đòi hỏi và khát vọng lớn về tự do, tức là làm chủ. Giác ngộ cái tất yếu và tự do trước hết là sự giác ngộ của trí tuệ, hiểu biết để mà tin, hoài nghi [hoài nghi khoa học] để mà tin, không tin một cách mù quáng và dễ dãi, không tự đánh mất mình. Tự do là lực đẩy của sáng tạo, đạo đức và nhân cách đảm bảo cho sự sáng tạo hướng vào xã hội, vì sự nghiệp chung, biết hi sinh và dâng hiến cho lý tưởng phụng sự Tổ quốc và Nhân dân”[2].

 

 Người trí thức có sứ mệnh phụng sự tiến bộ xã hội, có trách nhiệm tạo ra các sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Người trí thức thông qua lao động trí óc, sử dụng trí tuệ của mình không chỉ để mưu sinh, tạo kế sinh nhai cho bản thân và gia đình mà còn vượt lên các nhu cầu của đời sống của bản thân để tạo ra các sản phẩm tinh thần và vật chất thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Gíá trị vật chất và tinh thần của các sản phẩm người trí thức tạo ra luôn là thước đo cụ thể về vai trò, sự đóng góp của người trí thức đối với xã hội. Khác với sản phẩm của người thợ, sản phẩm của người trí thức được thể hiện trong những ý tưởng, những phát minh, sáng chế, những công trình khoa học công nghệ, các giải pháp kỹ thuật công nghệ, các tác phẩm văn học, nghệ thuật… có giá trị dẫn dắt, định hướng, mở đường cho sự sáng tạo tri thức mới, sản phẩm mới đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của xã hội. Để có được các sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị đối với xã hội, đòi hỏi người trí thức phải không ngừng học tập tiếp cận và cập nhật những tri thức mới không ngừng sáng tạo, không ngừng khát vọng vươn lên ở tầm cao mới của trí tuệ để cống hiến cho sự phát triển của xã hội. Vì lẽ đó người trí thức luôn phải hội đủ ba yếu tố: nhiều ý tưởng mới; giá trị và tự nguyện dấn thân để làm cho xã hội lúc nào cũng thức tỉnh[3].

 

Việt Nam là một quốc gia văn hiến đã nhận thức rất rõ vai trò to lớn của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vào thế kỷ 15, học giả nổi tiếng Thân Nhân Trung vâng lệnh Vua soạn văn bia cho tiến sĩ khóa Nhâm Tuất đã viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”[4].

 

Kế thừa, phát huy truyền thống trọng dụng trí thức trong lịch sử dân tộc Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Trí thức Việt nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế trí thức, phát triển văn hóa Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”[5].

 

Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức Việt nam không ngừng lớn mạnh, tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng, đóng góp trực tiếp cùng toàn dân giành thắng lợi trong các cuộc khánh chiến chống kẻ thù xâm lược, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước và đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới.

 

2. Một số đặc điểm của đội ngũ trí thức nước ta hiện nay

 

Nhìn lại quá trình xây dựng, phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, có thể nhận thấy đội ngũ trí thức nước ta có những đặc điểm chung sau:

 

(1) Kế thừa truyền thống từ ngàn xưa của tầng lớp kẻ sĩ, sĩ phu, của những trí thức cách mạng tiền bối, đội ngũ trí thức Việt nam luôn gắn bó với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử.

Tinh thần yêu nước, thương nòi luôn là một mạch nguồn xuyên suốt tâm hồn, trí tuệ và khí phách của trí thức Việt Nam, là điểm tương đồng để đoàn kết trí thức trong cuộc đồng hành cùng dân tộc ở mọi giai đoạn lịch sử. Vượt lên sự khác biệt về thế giới quan có thể có ở một số trí thức, về cơ bản đội ngũ trí thức luôn là đại diện xứng đáng cho nền văn hiến nước nhà, là những người tiên phong trong giữ gìn, phát huy nền văn hóa Việt nam đậm đà bản sắc dân tộc. Trí thức Việt Nam trong lịch sử và trong hiện tại luôn tràn đầy khát vọng cống hiến, đem trí tuệ, tài năng và lòng nhiệt huyết của mình phụng sự dân tộc, đất nước, họ tự nguyện dấn thân để làm tốt nhất có thể sứ mệnh thức tỉnh xã hội.

 

(2) Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ giai cấp công nhân, giai cấp nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới.

Đa phần trí thức Việt Nam xuất thân từ những những giai cấp lao động, con em của những người lao động. Hơn ai hết họ gắn bó trực tiếp với những người lao động, hiểu rõ tâm tư, tình cảm, mong muốn của họ, thấu hiểu hoàn cảnh cuộc sống của người lao động. Chính vì vậy người trí thức nhận rõ hơn trách nhiệm to lớn của mình trong phụng sự cuộc sống vật chất và tinh thần của những giai cấp lao động. Bằng lao động trí tuệ của mình họ tạo ra những điều kiện, phương tiện giúp giảm nhẹ lao động, nâng cao năng xuất và chất lượng lao động, cải thiện đồi sống vật chất và tinh thần của người lao động. Trưởng thành trong xã hội mới, được Đảng chăm lo giáo dục và rèn luyện, đội ngũ trí thức mới luôn có phẩm chất chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, khiêm tốn, tích cực học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, khát vọng vươn tới các đỉnh cao của tri thức nhân loại. Xuất thân cơ bản từ công, nông gắn bó mật thiết với công, nông, tầng lớp trí thức luôn là một nhân tố quan trọng trong liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

(3) Trí thức Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

 Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mà nòng cốt là đội ngũ trí thức luôn là nhiệm vụ chiến lược, được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Ngay trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, công tác giáo dục, đào tạo vẫn được duy trì và phát triển. Một hệ thống các trường cao đẳng, đại học từng bước được xây dựng và phát triển đã đào tạo ra hàng triệu trí thức, với nhiều thế hệ kế tiếp nhau, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo thống kê đến 2020-2021, cả nước có tổng số 242 trường đại học, học viện đang đào tạo ở hầu hết các chuyên ngành chuyên môn ở trình độ đại học và sau đại học. Tính đến 2017, cả nước ước tính có khoảng 6,5 triệu người có trình độ cao đẳng và đại học trở lên. Cùng với đào tạo trong nước, Việt Nam cũng tích cực gửi các sinh viên ưu tú ra đào tạo tại các nước có nền giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Trong những thời kỳ trước đây, đã có hàng chục nghìn sinh viên, cán bộ được đào tạo tại Liên Xô và các nước XHCN Đông âu [cũ], Trung Quốc và Cu Ba trở về phục vụ đất nước và có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp cách mạng. Trong những năm gần đây Đề án 322 “Đề án đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” đã tuyển và cử được 5.833 người đi học trong đó 2.951 tiến sĩ, 1.603 thạc sĩ, 260 thực tập sinh và 1.019 đại học. Cùng với nguồn đào tạo từ ngân sách nhà nước, hàng nghìn sinh viên, nghiên cứu sinh du học nước ngoài bằng kinh phí tự túc tại các nước phát triển đã và đang trở về nước, bổ sung lực lượng và làm phong phú thêm đội ngũ trí thức Việt Nam. Đặc biệt trí thức Việt kiều yêu nước là một bộ phận hữu cơ của đội ngũ trí thức Việt Nam. Theo ước tính hiện có khoảng 400.000 trí thức Việt kiều, trong đó có khoảng 600 tiến sĩ và hàng trăm trí thức nổi tiếng trong số hơn 4 triệu kiều bào tại gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các trí thức Việt kiều yêu nước luôn hướng về Tổ quốc, bằng nhiều cách khác nhau, giúp đỡ, hổ trợ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ trong nước. Theo Uỷ ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, hàng năm có khoảng hơn 300 lượt trí thức Việt kiều về nước làm việc, tham gia các chương trình nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ và đào tạo.

 

Được hình thành từ các nguồn đào tạo khác nhau cả trong và ngoài nước đã mang lại cho đội ngũ trí thức Việt Nam sự phong phú, đa dạng không chỉ về nguồn đào tạo mà cả về vốn tri thức, về phương pháp nghiên cứu nghiên cứu, kỹ năng ứng dụng và phát triển trí thức được đào tạo vào thực tiễn công tác. Chính sự đa dạng, phong phú các nguồn đào tạo trí thức đã và đang tạo ra sự tương tác tri thức, hỗ trợ và học hỏi lẫn nhau giữa các trí thức thuộc các nguồn đào tạo khác nhau, từ đó tạo ra những sáng tạo mới trong kho tàng tri thức Việt Nam. Vấn đề cốt lõi đặt ra là cần tạo dựng môi trường thuận lợi và điều kiện phù hợp để tạo dựng sự hợp tác, sự tin tưởng, tôn trọng và học hỏi lẫn nhau giữa các trí thức thuộc các thế hệ và nguồn đào tạo, cùng nhau đưa trí tuệ Việt Nam lên những tầm cao mới.

 

Trí thức luôn có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển xã hội. Trong thời đại Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vai trò của trí thức lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Nghị quết số 27-NQ/TW “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã xác định “Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định”.

 

3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức

 

Để xây dựng và phát huy vai trò của trí thức trong giai đoạn mới cần nhận diện rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng nhiệm vụ hệ trọng này. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức khá đa dạng, phức tạp có mức độ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp ở những mức độ khác nhau, khó có thể nhận diện đầy đủ và toàn diện. Trong một mức độ nhất định có thể nêu một số yếu tố sau:

 

(1) Truyền thống tôn trọng trí thức, đề cao hiền tài và tâm lý xã hội

Nền văn hiến Việt Nam được xây dựng, gìn giữ, bồi đắp và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước bởi bao thế hệ người Việt luôn là hành trang quý giá, nâng đỡ, cổ vũ, dẫn dắt trí thức Việt Nam trong mọi giai đoạn và trong mọi hoàn cảnh phát triển của dân tộc. Tư tưởng, quan điểm “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” qua bao thăng trầm của thời cuộc vẫn là quan điểm xuyên suốt lịch sử, định hướng, nhắc nhở hậu thế quán triệt và hành động để không ngừng tăng cường nguyên khí quốc gia, chăm lo phát hiện và bồi dưỡng hiền tài.

 

Trí thức trong quan niệm xưa và nay luôn là sự quy tụ, kết tinh những tinh hoa của dân tộc, của đất nước. Họ không chỉ tiêu biểu cho trí tuệ, tư tưởng, cho sức sáng tạo mà còn tiêu biểu cho đạo đức, đạo lý, văn hóa của dân tộc. Năng lực tinh thần, tiềm lực văn hóa, sức sống bền bỉ của một dân tộc về cơ bản được biểu hiện qua đội ngũ trí thức. Do vậy chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức, đủ tầm, đủ tâm đại diện cho nền văn hiến dân tộc phải luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước trong các nỗ lực chấn hưng đất nước.

 

Truyền thống hiếu học, trọng thầy, đề cao kẻ sĩ luôn được tiếp nối và phát huy từ thế hệ này đến thế hệ khác đã và đang tác động lớn đến chính sách của Nhà nước đối với việc xây dụng và phát huy đội ngũ trí thức trong các tiến trình lịch sử. Ngày nay, truyền thống văn hiến của dân tộc đang cung cấp cho chúng ta nhiều kinh nghiệm, nhiều bài học quý giá trong xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức.

 

Tuy nhiên bên cạnh các tác động tích cực của truyền thống đề cao kẻ sĩ, cũng cần lưu ý đến một số biểu hiện không còn phù hợp với thời đại mới còn sót lại từ tâm lý xã hội liên quan đến mục đích của sự học và sùng bái bằng cấp.

Từ xưa đã tồn tại quan niệm mục đích của việc học là để làm quan, do vậy nhiều kẻ sĩ lấy việc tiến thân chốn quan trường làm mục tiêu cho việc học hành, khoa bảng. Cũng vì mục tiêu học để làm quan, trong xã hội tồn tại khuynh hướng đề cao bằng cấp [thậm chí sùng bái], bằng cấp càng cao, cơ hội thăng quan tiến chức trong bộ máy công quyền càng lớn. Tâm lý này đã làm cho một bộ phận lớn kẻ sĩ dấn thân vào quan trường, ít quan tâm đến hoạt động sáng tạo truyền bá kiến thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị cho xã hội. Để xây dựng được một đội ngũ trí thức mới, cần xóa bỏ tâm lý học để làm quan, tệ sùng bái bằng cấp trong một bộ phận trí thức, tạo môi trường lành mạnh để trí thức thực hiện đúng thiên chức của mình là phụng sự xã hội, phụng sự Nhân dân bằng lao động sáng tạo của mình.

 

(2) Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc - nền tảng tinh thần của đội ngũ trí thức  

 Trí thức trong bất luận một xã hội nào cũng là sản phẩm của một nền văn hóa, họ chịu ảnh hưởng sâu sắc của các giá trị văn hóa, tiếp thu các giá trị văn hóa của dân tộc và của nhân loại, phát triển và truyền bá các giá trị văn hóa, để rồi trở thành đại diện văn hóa cho dân tộc mình. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã sáng tạo ra một nền văn hóa đặc sắc thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, cốt cách và tâm hồn người Việt, tạo nên sức mạnh nội sinh giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, đứng vững và chiến thắng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã xác định các giá trị văn hóa tinh hoa và bền vững của các dân tộc Việt Nam bao gồm: lòng yêu nức nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lối sống. Những giá trị văn hóa này tác động trực tiếp đến đội ngũ trí thức, tạo nên cốt cách và tâm hồn mỗi người trí thức, góp phần hình thành nhân sinh quan của trí thức về chân, thiện, mỹ. Văn hóa dân tộc, định hướng các giá trị đạo đức và nhân văn cho giới trí thức trong trong hoạt động sáng tạo, làm ra các sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị với xã hội. Người trí thức khi biết đắm mình trong văn hóa dân tộc, biết trân quý, tiếp thu, và phát triển các giá trị văn hóa ấy sẽ biết cách tạo ra những sản phẩm có giá trị lớn cho dân tộc mình, đất nước mình. Chính vì vậy trong quá trình xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức cần đặc biệt coi trọng các nhân tố văn hóa, tăng cường nhận thức của đội ngũ trí thức về nền văn hóa dân tộc, ý thức trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy và quảng bá các giá trị ấy trong hoạt động sáng tạo của mỗi người.

 

(3) Giáo dục, đào tạo - nhân tố quyết định chất lượng đầu vào của đội ngũ trí thức

Để trở thành trí thức thực thụ, người trí thức phải trải qua những giai đoạn giáo dục, đào tạo từ các bậc học phổ thông đến đại học, sau đại học. Mỗi một bậc học đều để lại những dấu ấn quan trọng trong việc hình thành nhân cách, đạo đức, trí tuệ và năng lực hành động của người trí thức. Do vậy, mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo, phẩm chất, năng lực của người thầy, môi trường giáo dục, điều kiện đảm bảo các hoạt động giáo dục, đào tạo đều là những yếu tố tác động trực tiếp đến thành, bại của một nền giáo dục, quyết định chất lượng đầu vào của đội ngũ trí thức. Thực hiện tốt khẩu hiệu của một nền giáo dục phổ thông “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Học để làm người trước khi làm nghề” sẽ góp phần quan trọng trong việc hình thành được một đội ngũ trí thức giàu nhân cách, có đạo đức, trung thực, nhân nghĩa, trách nhiệm, gắn bó với dân tộc, trung thành với Tổ quốc và nhân dân. Một chương trình giáo dục khoa học, hợp lý kết hợp hài hòa tri thức từ nền văn hóa dân tộc và tri thức nhân loại, thích ứng với từng đối tượng học tập, tất yếu hình thành đội ngũ trí thức có trí tuệ cao, đủ năng lực tiếp cận và sáng tạo trong hoạt động chuyên môn. Năng lực và phẩm giá của đội ngũ giáo viên luôn ảnh hưởng lớn đến hình thành nhân cách của học sinh, của những người trí thức tương lai. Một môi trường giáo dục - đào tạo nhân văn, dân chủ, kỷ cương luôn đề cao, tôn vinh Người Thầy, tôn trọng học sinh, sinh viên là điều kiện cần thiết tạo sự gắn bó, nuôi dưỡng tâm hồn, cảm hứng học tập, thúc đẩy sáng tạo trong nhà trường.

 

Dưới chế độ ta, giáo dục - đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, Đảng, Nhà nước đã ban hành và lãnh đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách lớn phát triển giáo dục, đào tạo theo quan điểm “Giáo dục - đào tạo là quốc sách hành đầu”. Thực tiễn cho thấy, bất chấp mọi khó khăn, thách thức trong kháng chiến, kiến quốc, nền giáo dục, đào tạo nước nhà đã không ngừng phát triển, đạt nhiều thành tựu to lớn, góp phần xây dựng nên một đội ngũ trí thức cách mạng có nhiều đóng góp quan trọng trong các cuộc kháng chiến và trong xây dựng đất nước. Có thể nói một nền giáo dục mới, cách mạng đã đặt nền móng vững chắc cho xây dựng, phát triển, phát huy đội ngũ trí thức cách mạng gắn bó với Nhân dân, dân tộc có phẩm chất chính trị, đạo đức vững vàng, có trí tuệ, bản lĩnh và tràn đầy khát vọng cống hiến.

 

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng trong những năm gần đây trong giáo dục, đào tạo đang có không ít bất cập gây bức xúc xã hội. Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đảm bảo tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương pháp giáo dục và đào tạo. Nội dung giáo dục và đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng của người học. Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ…”[6]. Những bất cập như vậy đang tác động tiêu cực đến chất lượng đội ngũ trí thức trong tương lai, nếu không có các giải pháp khắc phục quyết liệt. 

 

(4) Tác động của kinh tế thị trường đến việc xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức

Nền kinh tế thị trường luôn là yếu tố tác động, chi phối mạnh mẽ đến đội ngũ trí thức, tạo ra nhiều khả năng và không ít áp lực đối với việc xây dụng, phát huy đội ngũ trí thức. Đặc biệt khi kinh tế thị trường bước vào phát triển kinh tế trí thức, kinh tế số trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư, rất cần thiết phải gia tăng mạnh mẽ số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức trong nền kinh tế quốc gia. Nhu cầu lớn, đòi hỏi cao của kinh tế thị trường đối với đội ngũ trí thức tạo ra nhiều thay đổi trong cách tiếp cận của Nhà nước và xã hội đối với bài toán nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, Nhà nước huy động cộng đồng doanh nghiệp tham gia tích cực vào việc xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức, thu hút các nguồn đầu tư, chia sẻ trách nhiệm trong đào tạo, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh, bảo vệ và phát triển trí thức. Kinh tế thị trường tạo ra nhiều cơ hội cho trí thức phát triển tài năng, sáng tạo của mình, vươn lên làm chủ khoa học, công nghệ, phát triển công nghệ mới, không ngừng cải tiến và đổi mới sáng tạo, góp phần làm ra nhiều sản phẩm, hàng hóa có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường cũng tạo ra áp lực cạnh tranh cao giữa các trí thức và không ít nguy cơ, thách thức đối với trí thức. Vì lợi nhuận, một số doanh nghiệp có thể bất chấp đạo lý kinh doanh, tiến hành nhiều hành vi kinh doanh trái pháp luật, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, lừa đảo hoặc đưa ra những sản phẩm độc hại cho xã hội. Để đạt được lợi nhuận bất chính, họ đẩy một bộ phận trí thức vào con đường tha hóa đạo đức, bán mình cho tiền bạc, tiếp tay cho tội phạm, làm ảnh hưởng xấu đến những tri thức chân chính. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trừng định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề đạo đức của đội ngũ trí thức cần được thường xuyên quan tâm, bồi đắp để họ không bị tiền bạc chi phối, luôn giữ vững phẩm giá của kẻ sĩ và thiên chức phụng sự tiến bộ xã hội.

 

(5) Môi trường lao động sáng tạo của người tri thức

Môi trường làm việc của trí thức là một nhân tố trực tiếp tác động đến năng lực làm việc, sức sáng tạo và khát vọng cống hiến của người tri thức. Như một lẽ tất nhiên, môi trường nào tạo ra trí thức ấy. Một môi trường làm việc dân chủ, tôn trọng trí tuệ, tài năng, tự do tư tưởng, công khai, minh bạch, đoàn kết, hỗ trợ và chia sẻ tất yếu sẽ sản sinh ra những trí thức nhiệt huyết, sáng tạo có trách nhiệm, trung thực và sẵn sàng cống hiến cho cơ quan, tổ chức và xã hội. Ngược lại, một môi trường thiếu dân chủ, tự do, thiếu tôn trọng tri thức khó có thể thu hút được trí thức, giữ chân trí thức ở lại làm việc và cống hiến. Nếu vì lý do nào đó mà người trí thức chưa thể, hoặc không thể rời đi, buộc phải ở lại làm việc trong môi trường không tương thích với tự do, sáng tạo ấy, họ sẽ trở nên thụ động, an phận thủ thường, làm việc đối phó. Cũng cần nhận thấy là môi trường làm việc trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị cụ thể tác động trực tiếp đến từng cá nhân trí thức cụ thể. Nhưng nhìn rộng ra, môi trường xã hội lại tác động mạnh mẽ đến toàn bộ đội ngũ trí thức của một dân tộc, một quốc gia. Tình trạng vi phạm bản quyền, cùng các tiêu cực xã hội như nạn chạy chức, chạy quyền, chạy việc làm, chạy bằng cấp, chạy danh hiệu, tình trạng tham nhũng, lãng phí, các quan hệ xã hội bị biến tướng theo kiểu: “nhất quan hệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ” chậm được khắc phục đang tác động không tốt đến tâm lý và thái độ của không ít trí thức. Nhận thức rõ tác động, ảnh hưởng to lớn của môi trường làm việc đối với đội ngũ trí thức, Đảng ta đã xác định một trong ba quan điểm chỉ đạo cần được quán triệt là: “Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”[7].

 

Như vậy trong thực tiễn, việc xây dựng và phát huy đội ngũ trí thức, chịu sự tác động, chi phối của rất nhiều yếu tố cả các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Việc nhận diện các yếu tố này rất quan trọng để xây dựng một chiến lược phát triển trí thức phù hợp, thực tế và khả thi ở nước ta trong điều kiện tiếp tục đổi mới đất nước thời kỳ cách mạng 4.0. Về vấn đề này cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng đã được xác trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của đội ngũ trí thức”[8].

 

PGS.TS. Lê Minh Thông

Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương


 



[1] Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) “Về xây dụng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

[2] GS.TS. Hoàng Chí Bảo: “Nhân tài với phát triển bền vững”, Kỷ yếu hội thảo “Công tác nhân tài - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Ban Tổ chức Trung ương (2012).

[3] GS. Nguyễn Văn Tuấn - Đại học New South Wales: “Trí thức là ai?”, VnExpress, 14/01/2022.

[4] Trần Hưng: Than Nhân Trung và câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, https://trithucvn.org/.

[5] Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) “Về xây dụng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.1, tr.82.

[7] Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) “Về xây dụng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

[8] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, T.1, tr.167.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết