Thứ Năm, ngày 21 tháng 11 năm 2024

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Ngày phát hành: 08/11/2022 Lượt xem 16407


I. Một số vấn đề lý luận về Dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam                                                

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay Nhân dân, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân …”[1]. Tuân theo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Trong các giai đoạn phát triển của đất nước từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay tư tưởng Hồ Chí Minh “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân “luôn là cơ sở quan trọng, là kim chỉ nam cho việc hoạch định và thực thi mọi đường lối, chủ trương, chính sách trong xây dựng và bảo vệ đất nước.”

 

Trong quá trình đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về quyền làm chủ của nhân dân luôn được quán triệt và phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Đại hội VI của Đảng [1986] - Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đất nước, nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Đại hội đã rút ra bài học “lấy dân làm gốc “là sự thể hiện cô đọng tư tưởng dân chủ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng [1991] thông qua đã xác định “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân …Toàn bộ tổ chức và hoạt động của Hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

 

Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội và phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền con người, quyền công dân, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”[2].

Đại hội VIII của Đảng đã bổ sung một nội hàm mới trong phạm trù dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: cơ chề dân chủ ở cơ sở với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

 

Đại hội IX của Đảng đã rút ra bốn bài học, trong đó bài học thứ hai là “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn,luôn luôn sáng tạo “và đã bổ sung nội dung “dân chủ” vào mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam “Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là :độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[3].

Đại hội X khẳng định: dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội xác định xây dựng một xã hội trong đó cán bộ, đảng viên, công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.

 

Quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân trong Cương lĩnh 1991 tiếp tục được khẳng định và phát triển trong các văn kiện Đại hội Đảng tiếp theo, đặc biệt trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự pháT triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện[4].

 

Đại hội lần thứ XII của Đảng [2016] chỉ rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện[5]. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng [2021] vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa có bước phát triển mới  “Đề cao vai trò chủ thể,vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước ,phát huy tính tích cực chính trị - xã hội và trách nhiệm của nhân dan tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội …Có cơ chế giải phóng mọi tiềm năng ,sức mạnh, khả năng sáng tạo, động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội. Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân[6].

 Có thể thấy rằng xây dựng và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân là quan điểm nhất quán, là mục tiêu xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua mỗi kỳ đại hội quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa liên tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển.

 

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhan dân được cụ thể hóa trong các nội dung chủ yếu sau:

 

1. Bản chất và nội hàm của nền dân chủ xã hội nghĩa; quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam được thể hiện qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”

Cơ chế này được đề ra từ Đại hội lần thứ V của Đảng và được Đại hội VI xác định là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quá trính xây dựng và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là những điều kiện tiên quyết đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân. Trong mối quan hệ này, Đảng xác định, Nhân dân luôn ở vị trí trung tâm, ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân là trước hết, trên hết, là mục tiêu hướng tới của mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình”[7]. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ được xác định là “một trong 10 mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng… cần được nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả”[8].

 

2. Nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Đảng cộng sản Việt Nam xác định “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”[9].

 

Thể chế hóa quan điểm của Đảng về trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp 2013 đã quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân… Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 3 và Điều 8 Hiến pháp 2013).

 

3. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là giải phóng con người khỏi mọi hình thức bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội nơi con người được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc đúng với phẩm giá con người. Do vậy vấn đề tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Đảng ta quan niệm: “quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ tự nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại… Giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất. Trong chủ nghĩa xã hội, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Chúng ta coi trọng bảo đảm lợi ích của cá nhân, của con người vì đó là mục tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội. Đồng thời bảo đảm lợi ích của tập thể, của cả cộng đồng xã hội”[10].

 

Bước vào công cuộc đổi mới vấn đề tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người luôn được khẳng định trong các văn kiện đại hội Đảng, trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [1991 Bổ sung, phát triển năm 2011] nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”[11].

 

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần Hiến pháp 2013…hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân… Bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới”[12].

Đại hội XIII đã xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Theo đó Quốc hội tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hòa thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… Xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền… Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân[13].

 

4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để xây dựng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân

Trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu; tổ chức quản lý và phân phối.

 

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển… Mỗi chính sách kinh tế phải đều hướng tới mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, khuyến khích làm giầu hợp pháp, phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn[14].

 

Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang tạo ra nhiều điều kiện để các tầng lớp nhân dân vươn lên làm chủ trong đời sống kinh tế; phát huy các nguồn lực và khả năng sáng tạo để thực hiện quyền “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”.

Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển bền vững các ngành nghề kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Trong những năm qua, bất chấp các khó khăn, thách thức nền kinh tế đất nước tiếp tục phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, tạo lập nền tảng vật chất quan trọng để xây dựng, và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách thực chất, đảm bảo cho người dân không chỉ bình đẳng về quyền mà còn bình đẳng về điều kiện, cơ hội để làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội.

 

5. Xây dựng, không ngừng tăng cường, cũng cố đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nội dung, vừa là yêu cầu quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Ngay từ khi mới thành lập cho đến ngày nay Đảng Cộng sản Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng, tăng cường, củng cố sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em, cùng chung sống hòa thuận trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo đã tập hợp, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất đấu tranh giành độc lập cho đất nước trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước. Trong công cuộc đổi mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được phát huy, nhân lên mạnh mẽ, góp phần quan trọng trong việc đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập ,thống nhất toàn vẹn lãnh thổ “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của Quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc[15].    

 

Đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt, thống nhất trong đa dạng là cách tiếp cận nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc mà còn là những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 

6. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.

Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung vào các mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý tốt để thực hiện thành công các định hướng lớn, bao quát những vấn đề quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, đó là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đây là mối quan hệ quan trọng quyết định hiệu quả của thực hành dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó các thể chế dân chủ, các thiết chế dân chủ, quy trình, thủ tục thực hiện dân chủ phải được quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Việc tuân thủ nghiêm minh các quy định của Hiến pháp và pháp luật về dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của toàn dân. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố, kỷ luật, kỷ cương xã hội, tạo môi trường ổn định, an toàn, thuận lợi cho thực hành dân chủ luôn đưọc Đảng, Nhà nước quan tâm. Đảng luôn nhấn mạnh “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội”[16].

 

7. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhiều hình thức với nhiều cơ chế phù hợp với thực tiễn Việt Nam

Cương lĩnh xây dựng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi [Bổ sung, phát triển năm 2011] đã xác định “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[17].

 

Nét đặc sắc trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hình thức dân chủ đại diện được thực hiện bằng cả hệ thống chính trị và thông qua hoạt động của hệ thống chính trị bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ.

Song song với mục tiêu tăng cường hiệu qủa dân chủ đại diện, Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm phát huy dân chủ trực tiếp của Nhân dân.

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, dân chủ trực tiếp của Nhân dân được thực hiện thông qua các cơ chế chủ yếu sau:

- Thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri.

- Tham gia trưng cầu ý dân khi Nhà nước tổ chức theo quy định của pháp luật.

- Tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.

- Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

 

II. Thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong quá trình đổi mới đất nước.

 

Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử… Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[18]. Cùng với những thành tựu to lớn ấy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục có những phát triển quan trọng.

 

Quan điểm “Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước đã và đang được quán triệt trên mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, và việc phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn đã tạo động lực quan trọng, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước đã được xác định trong các văn kiện đại hội của Đảng.

Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ tiếp tục được hoàn thiện, có nhiều đổi mới phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày càng gắn bó, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được tăng cường và nâng cao. Thông qua việc thực hiện cơ chế này, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân… phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đảng”[19].

Sự nghiệp “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[20]. Hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng hiệu quả, công khai, minh bạch, phục vụ người dân. Công tác tiếp công dân, trách nhiệm giải trình được đẩy mạnh, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân ngày càng được chú trọng, theo quy định của pháp luật. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, giải quyết ngày càng tốt hơn các công việc của người dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.

 

Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ hơn các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội[21].

 

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân… phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vân động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước[22].

 

Các quy định pháp luật về dân chủ trực tiếp của nhân dân, tiếp tục được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân bầu ra được các đại biểu thật sự tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng của mình. Luật trung cầu ý dân được Quốc hội thông qua 2015 đã tạo khuôn khổ pháp luật phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí của mình về các vấn đề Nhà nước trung cầu khi Quốc hội quyết định Hệ thống các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tạo nhiều quy trình, thủ tục thuận lợi để nhân dân tích cực tham gia quản lý nhà nước, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, trị trấn có nhiều tiến bộ[23].

 

Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế[24]. Thành tựu trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ bảo đảm các quyền kinh tế, dân sự của con người mà còn tạo ra những điều kiện và khả năng to lớn cho xây dựng, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.

 

Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân vẫn đang đặt ra không ít vấn đề cần quan tâm giải quyết.

- Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế.

- Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi.

- Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm.

- Có lúc, có nơi việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

- Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ.

- Không ít cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong xã hội[25].

 

III. Định hướng và giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 với nhiều nội dung quan trọng. Việc thực hiện thắng lợi các định hướng phát triển mà Đại hội đã đề ra không chỉ đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao mà còn đưa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lên một bước phát triển mới. Liên quan trực tiếp đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới Đảng đã xác định các định hướng lớn sau:

 

1. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

 

2. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.

 

3. Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả…

 

4. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn… trong đó có các mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội[26].

 

Để thực hiện thành công các định hướng liên quan đến dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng xác định một số giải pháp chủ yếu sau:

- Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.       

- Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội.

- Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.

- Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức.

- Động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng; xây dựng và quản lý, thụ hưởng văn hóa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân.

- Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân[27].

 

Qua hơn 35 năm đổi mới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang tạo ra những nguồn lực mới cho việc tiếp tục tăng cường, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong giai đoạn mới.

 

PGS.TS. Lê Minh Thông

Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

 

Tài liệu tham khảo

  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5. NXB Chính tri quốc gia.HN, 1995.
  2. Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. NXB Chính trị quốc gia. HN, 1992.
  3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. NXB Chính trị quốc gia. HN, 2005.
  4. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI NXB Chính trị quốc gia.HN, 2011.
  5. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị quốc gia. HN, 2016.
  6. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị quốc gia.HN, 2021.
  7. Chỉ thị số 12-CT/TW1992 của Ban Bí Thư về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của ta”.
  8. Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013.
  9. GS. TS. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. T5. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995. tr 698.

[2] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 1992. tr 19.

[3] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ Đổi Mới. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2005. tr 631.

[4] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2011. tr 85.

[5] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2016. tr 169.

[6] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 1, tr 51.

[7] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2011. tr 47-48.

[8] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 1, tr 39.

[9] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2011. Tr 85-86.

[10] Chỉ thị số 12_CT/TW1992 của ban Bí Thư về vấn đề quyền con người và quan điểm chủ trương của ta.

[11] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2011. tr 76.

[12] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2016. tr 169.

[13] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. tr 175-177.

[14] GS.TS. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Link: tapchicongsan.org.vn, đăng ngày 16/05/2021.

[15] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2016. tr 158-159.

[16] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 1, tr 48.

[17] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2011. tr 85.

[18] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 1, tr 103-104.

[19] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 2, tr 202.

[20] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 1, tr 71. 

[21] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2016. tr 167. 

[22] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2016. tr 157. 

[23] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2016. tr 167. 

[24] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 1, tr 59-60.  

[25] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2016. tr 168.

[26] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 2, tr 332-333.

[27] Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị Quốc Gia. Hà Nội, 2021. Tập 1, tr 172-173. 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết