Sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của Nhân dân không ngừng được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Cùng với phát triển kinh tế, việc thực hiện các chính sách xã hội cũng được chú trọng hoàn thiện, từng bước nâng cao chất lượng, mức hỗ trợ và mở rộng diện bao phủ theo hướng công bằng, tiến bộ, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, cơ bản bảo đảm an sinh của người dân theo quy định của Hiến pháp.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao” đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng toàn diện, hiệu quả, bền vững. Đồng thời, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, cần thiết phải mở rộng độ bao phủ của an sinh xã hội đến mọi nhóm dân cư, đặc biệt là người nghèo, người dễ bị tổn thương, nhất là đối với các nhóm như phụ nữ và trẻ em gái nghèo, dân tộc thiểu số, di cư.
1. Kết quả thực hiện chính sách xã hội và những vấn đề đặt ra
1.1. Thành tựu
Trong 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, quan điểm của Đảng về phát triển lĩnh vực xã hội là một quá trình cập nhật, bổ sung và phát triển chính sách xã hội. Trải qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII, quan điểm về chính sách xã hội dần được hoàn thiện và trở thành một hệ thống quan điểm về chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới, đó là: Tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, bám sát tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Quá trình đổi mới nhận thức về chính sách xã hội của Đảng ta là một bước tiến dài mang tính lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được lan tỏa và chuyển biến nhận thức rõ rệt trong hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân. Bảo đảm an sinh xã hội đã có bước chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang đảm bảo quyền an sinh của công dân”.
Tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc trong từng thời kỳ phát triển để mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả của phát triển và thực hiện công bằng xã hội; chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng xã hội hóa, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, hướng đến đảm bảo an sinh xã hội toàn dân.
Những chuyển hướng về tư tưởng, nhận thức và hành động trên đã tạo thành động lực to lớn để đưa Việt Nam “cất cánh”, hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững. Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trường kinh tế tương đối cao (đạt 4,4%/năm giai đoạn 1986-1990, 7%/năm giai đoạn 1996-2000, 6,8%/năm giai đoạn 2006-2019), chất lượng tăng trưởng được nâng cao (năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng 45,2%, mục tiêu đề ra là 30 đến 35%). Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng nước nghèo và trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp (từ năm 2010, thu nhập bình quân đầu người đạt 1168USD)[1] và đạt 4.110 USD năm 2022, bằng 48 lần so với năm 1986 và 3,5 lần so với năm 2010. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 3,65 USD/ngày, theo PPP năm 2017) giảm còn hơn 14% năm 2010 và 3,8% năm 2020.
Trong giai đoạn 10 năm gần đây, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và hài hòa hơn. Các chính sách xã hội cũng không ngừng được hoàn thiện, từng bước nâng cao chất lượng, mức hỗ trợ và mở rộng diện bao phủ theo hướng công bằng, tiến bộ, tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, cơ bản bảo đảm an sinh của người dân theo quy định của Hiến pháp. Nguồn lực đầu tư cho thực hiện chính sách xã hội ngày càng lớn, tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội tăng dần trong các năm qua, từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010 và 4,67% GDP năm 2011 và khoảng 6,7% GDP năm 2021. Mặc dù đây vẫn là mức thấp so với quốc tế, song cũng là một nỗ lực rất lớn của nhà nước Việt Nam. Việc triển khai có hiệu quả các chính sách xã hội đã góp phần đem lại niềm tin và sự hài lòng của Nhân dân, nhất là trong đại dịch Covid-19 vừa qua. Chỉ số phát triển con người có sự cải thiện vượt bậc, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có chỉ số phát triển con người cao (Chỉ số HDI của Việt Nam năm 2021 là 0,703; cải thiện thứ hạng từ vị trí 127/187 năm 2012 lên vị trí 115/191 năm 2021 trong bảng xếp hạng của Liên Hợp Quốc )[2].
Một số kết quả nổi bật đạt được trong lĩnh vực xã hội:
Thứ nhất, chính sách ưu đãi người có công được quan tâm đặc biệt và thực hiện tốt, phong trào đền ơn đáp nghĩa được triển khai sâu rộng, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công với cách mạng và thân nhân người có công với cách mạng, trên 1,1 triệu người hưởng ưu đãi hàng tháng, cơ bản hỗ trợ dứt điểm đối với hộ người có công gặp khó khăn về nhà ở (có 339.116 hộ người có công được hỗ trợ, đạt tỷ lệ 96,7% số hộ cần hỗ trợ sau rà soát); 99,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; giải quyết căn bản hồ sơ tồn đọng; thực hiện tốt quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính liệt sĩ, tu bổ, nâng cấp nghĩa trang và công trình ghi công liệt sĩ.
Thứ hai, thể chế thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp cơ bản tạo việc làm bền vững. Việt Nam luôn đảm bảo tỷ lệ dân số có việc làm thuộc nhóm cao trên thế giới, đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp dưới 3% trong giai đoạn 2011-2020, ngay cả trong bối cảnh đại dịch COVID-19 cũng chỉ tăng nhẹ lên 3,22% năm 2021. Thị trường lao động đang phát triển theo hướng hiện đại, cơ cấu lao động dịch chuyển theo hướng tích cực - tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 67% năm 2022; tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm nhanh, từ 48,3% năm 2011 xuống còn 40,16% năm 2017 và 27,54% năm 2022; tỷ trọng lao động trong khu vực có quan hệ lao động tăng nhanh, từ 35% năm 2011 lên gần 43% năm 2017 và 53,81% năm 2022; thu nhập của người lao động đã dần được cải thiện - tiền lương bình quân thực tế theo tháng của người lao động làm công hưởng lương có tốc độ tăng khá nhanh, đạt 12,15% giai đoạn 2011-2022.
Phương thức quản lý nhà nước về quan hệ lao động có sự chuyển đổi rõ rệt, quan hệ lao động được cải thiện[3]. Thực tiễn áp dụng các quy định về an toàn vệ sinh lao động cũng được nâng lên đáng kể, việc trang bị phương tiện bảo hộ cá nhân cho người lao động và tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động được các doanh nghiệp thực hiện tương đối tốt.
Thứ ba, chính sách bảo hiểm xã hội đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Đặc biệt, triển khai Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội[4], trong đó đã chú trọng phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện và các gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn, linh hoạt. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng - Tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng từ 9,5 triệu người năm 2010 lên 17,5 triệu người năm 2022; tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tăng từ 18,7% năm 2010 lên 38,08% năm 2022. Cùng với đó, bảo hiểm thất nghiệp cũng đã trở thành giá đỡ quan trọng, hỗ trợ hiệu quả cả doanh nghiệp và người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, bị mất việc làm tạm thời. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng đều hàng năm, từ 14,2% năm 2010 lên 30,5% năm 2022.
Thứ tư, chính sách trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh khó khăn, từng bước chuyển sang hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, lấy con người là trung tâm góp phần ổn định cuộc sống cho các đối tượng yếu thế. Chính sách trợ giúp xã hội được mở rộng về đối tượng, tăng mức hưởng, thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng và đạt hiệu quả. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng lên hàng năm, đạt 3,042 triệu người (bao phủ hơn 3% dân số) năm 2020; đạt 3,2 triệu người (3,2% dân số) năm 2021, trong đó trên 55% là người cao tuổi.
Đặc biệt, trước những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra trong các năm 2020, 2021 và tác động kéo dài sang năm 2022, Đảng, Nhà nước đã đặc biệt quan tâm và tập trung nguồn lực để chăm lo cho người dân, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, trật tự, an toàn xã hội và ổn định đời sống nhân dân, là tiền đề để vượt qua dịch bệnh và phục hồi kinh tế. Năm 2020 đã hỗ trợ trên 10 triệu người có công với cách mạng, hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và các lao động tự do với tổng kinh phí thực hiện là 12.293 tỷ đồng; năm 2021 hỗ trợ gần 37,06 triệu lượt đối tượng lao động có hoàn cảnh khó khăn với tổng kinh phí thực hiện là 42.740 tỷ đồng. Giai đoạn 2020 - 2022, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng ban hành 04 gói chính sách lớn hỗ trợ người dân, người lao động và doanh nghiệp (Nghị quyết số 42/NQ-CP[5], Nghị quyết số 68/NQ-CP[6], Nghị quyết số 116/NQ-CP[7] và Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg[8]). Theo đó, đã hỗ trợ cho trên 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,43 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác với tổng kinh phí trên 120 nghìn tỷ đồng. Những trợ giúp đó không chỉ tạo điều kiện cho những hoàn cảnh khó khăn vượt qua đại dịch mà còn tạo nên sự công bằng tương đối trong cộng đồng lúc hoạn nạn, thể hiện tính tương thân của dân tộc, tính ưu việt của chế độ.
Thứ năm, hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư, phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng, đã cơ bản đảm bảo công bằng hơn trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin cho người dân, góp phần từng bước nâng cao phúc lợi, đảm bảo cuộc sống an toàn và hạnh phúc của nhân dân. Mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển nhanh, phổ cập giáo dục từ cấp mầm non đến trung học cơ sở hoàn thành trước thời hạn; trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%. Đến năm 2022 đã thực hiện thành công bảo hiểm y tế toàn dân, với độ bao phủ 92% dân số; tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 90%, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân còn 10,8%; tỷ lệ dân số mắc bệnh lao còn khoảng 176/100.000 người (năm 2021). Nhà ở và điều kiện ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học sinh, sinh viên từng bước được cải thiện[9]. Đến cuối năm 2021, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90%, trong đó, 54% sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn. Từ năm 2016 đã hoàn thành mục tiêu 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo được phủ sóng phát thanh mặt đất và truyền hình mặt đất; đến năm 2020, 100% các xã có đài truyền thanh xã.
Thứ sáu, giảm nghèo tiếp tục là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong gần 40 năm đổi mới, Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói được hoàn thành[10]; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ khoảng trên 60% những năm cuối thập kỷ 90 xuống còn khoảng 8% hộ nghèo, cận nghèo vào cuối năm 2020 theo chuẩn mới; các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao giảm 4 %/năm. Công tác giảm nghèo theo hướng đa chiều được triển khai quyết liệt, đồng bộ, đổi mới về phương thức, giải pháp thực hiện, tập trung vào các đối tượng nghèo nhất với nhiều mô hình mới, cách làm hay, gắn kết giữa tạo sinh kế, việc làm, đào tạo nghề và xuất khẩu lao động; nhiều địa phương ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ người dân chủ động vươn lên thoát nghèo.
1.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội còn bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Đó là, thị trường lao động chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và việc làm thấp, thiếu tính bền vững. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ mới chỉ đạt 26,44% năm 2022, lao động Việt Nam còn yếu và thiếu về các kỹ năng làm việc cốt lõi trong bối cảnh tăng cường hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0; tỷ trọng lao động có việc làm phi chính thức còn lớn (65,44% năm 2022); mục tiêu xây dựng quan hệ lao động hài hòa còn khó khăn, thiếu cơ sở vững chắc để xây dựng quan hệ lao động lành mạnh và bền vững; hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động còn hạn chế; chất lượng giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động. Độ bao phủ của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp còn thấp (tương ứng chiếm 38,08% và 31,18% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2022).
Phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chưa đạt được so với tiềm năng của nhóm dân số mục tiêu, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa thực sự hấp dẫn người lao động tham gia, dẫn đến nguy cơ một tỷ lệ lớn người cao tuổi không có lương hưu trong bối cảnh già hoá dân số đang diễn ra nhanh chóng; chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa bao phủ tới lao động trong khu vực phi chính thức; tình trạng rút bảo hiểm xã hội một lần có xu hướng tăng; chậm và trốn đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn; lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn diễn biến phức tạp. Phạm vi bao phủ của trợ giúp xã hội còn hẹp, trợ cấp hưu trí xã hội mới áp dụng cho người từ 80 tuổi trở lên và người từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn. Trong khi đó, vẫn còn một nhóm dân số dưới 80 tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, chưa được hưởng chính sách an sinh. Mức trợ giúp cơ bản hiện hành còn thấp so với nhu cầu sống tối thiểu và chậm điều chỉnh (trong giai đoạn 2011-2023, mức chuẩn trợ cấp được điều chỉnh 5 lần, song đến nay mới ở mức 360 nghìn đồng/người/tháng[11], chỉ bằng 24% mức sống tối thiểu khu vực nông thôn và 18% mức sống tối thiểu khu vực thành thị năm 2021). Thiếu cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân nói chung và người lao động ứng phó với các cú sốc trên diện rộng khi xảy ra khủng hoảng như dịch bệnh, thiên tai, ứng dụng công nghệ cao - tự động hóa, v.v…
Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội chưa đáp ứng được các yêu cầu về đổi mới theo hướng chuyên nghiệp hóa. Hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em chưa được quan tâm đầu tư thỏa đáng. Chất lượng và năng lực y tế cơ sở chưa đáp ứng tốt yêu cầu; y tế dự phòng còn yếu, đặc biệt là trong ứng phó với rủi ro dịch bệnh lớn; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện, nhất là ở trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất cao. Bạo lực gia đình, bạo hành, đuối nước, xâm hại trẻ em diễn biến phức tạp, gây bức xúc xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế. Tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia còn thấp. Nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, các đô thị, lao động di cư, người có thu nhập thấp chưa được đảm bảo (chương trình phát triển nhà ở xã hội mới đạt 41% so với mục tiêu đến năm 2020). Số lượng và chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, còn nhiều khó khăn cho người dân tiếp cận và thụ hưởng.
Kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, đời sống của một bộ phận người dân, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị thiên tai còn khó khăn; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng miền còn lớn. Bất bình đẳng về thu nhập (mức sống) có xu hướng giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao giữa các nhóm dân cư, các địa bàn, giữa các nhóm người nghèo và không nghèo (thu nhập bình quân đầu người của dân tộc thiểu số chỉ bằng khoảng 30% so với bình quân chung cả nước năm 2019[12]). Trong khi đó, bất bình đẳng xã hội (phi thu nhập) có chiều hướng gia tăng, nhất là bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, tiếp cận thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, dân tộc thiểu số.
Nhìn chung, hệ thống chính sách xã hội còn thiếu tính bao trùm, liên kết trong hỗ trợ đối tượng và chưa bao phủ hết đối tượng, chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách (bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, giảm nghèo, phát triển kỹ năng và việc làm) trong tổ chức thực hiện. Tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm nhưng đầu tư cho chính sách xã hội chưa tương xứng, tỷ lệ chi cho chính sách xã hội trên GDP còn thấp (tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội mới chỉ đạt 6,7% GDP năm 2021)[13]. Các trụ cột chính sách được thiết kế và triển khai thực hiện hầu hết theo ngành dọc, chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung cấp dịch vụ; thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích khu vực ngoài nhà nước tham gia vào cung cấp dịch vụ công.
2. Định hướng giải pháp đổi mới chính sách xã hội góp phần phát triển toàn diện đất nước trong giai đoạn mới
2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), triển vọng kinh tế toàn cầu đến năm 2030 và những năm tiếp theo có nhiều bất ổn, dự báo tăng trưởng GDP nền kinh tế toàn cầu sẽ chậm lại trên diện rộng và nếu không đảo ngược quá trình này, sẽ tác động sâu sắc đến khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm đói nghèo; làm gia tăng lo ngại về năng suất chậm lại, yếu tố cần thiết cho tăng trưởng thu nhập và tiền lương. Trong thời gian tới, tuy nền kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro và suy giảm tăng trưởng kinh tế, Việt Nam vẫn sẽ có những cơ hội tốt để duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý trong ngắn hạn và tăng trưởng cao hơn trong dài hạn nhờ vào vị thế địa kinh tế và địa chính trị của mình. Trong đó, việc gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các hiệp định thương mại tự do khác[14] sẽ có tác động tích cực đến thương mại và đầu tư, có tác động tích cực đối với dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, từ khu vực phi chính thức sang chính thức và từ việc làm có thu nhập thấp sang việc làm có thu nhập cao trong khu vực chính thức.
Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam gắn với đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đô thị hóa, chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn,v.v… sẽ có tác động tích cực trong dài hạn, song trong ngắn hạn sẽ có một số tác động bất lợi, ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, đặc biệt là người nghèo và lao động kỹ năng thấp, chưa qua đào tạo… dẫn đến yêu cầu đầu tư để phân bổ lại lao động và các giải pháp an sinh xã hội cho những người bị tác động. Đồng thời, đặt ra không ít vấn đề xã hội khác như nhà ở, ô nhiễm môi trường, quá tải hạ tầng, tình trạng thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng về mức sống và cơ hội phát triển, vẫn có xu hướng gia tăng, nhất là gia tăng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, khả năng tiếp cận các cơ hội việc làm tốt, khả năng tiếp cận tài nguyên đất và về các thủ tục hành chính, tiếng nói và tầm ảnh hưởng, chứa đựng những “tiềm ẩn” của xung đột xã hội, đòi hỏi cần có những chính sách xã hội kịp thời và cơ chế, chính sách quản lý phát triển xã hội phù hợp.
Vấn đề già hoá dân số nhanh[15], sự gia tăng tầng lớp trung lưu, tỷ trọng việc làm trong khu vực phi chính thức cao, ...là những thách thức lớn cho hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam, cũng như hệ thống chính sách xã hội chủ động, thích ứng với già hóa dân số nhanh (bao gồm cả vấn đề bảo hiểm hưu trí, chăm sóc y tế, chăm sóc xã hội và trợ giúp xã hội…).
Biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh phi truyền thống đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân. Đặc biệt, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng mạnh của biến đổi khí hậu, tình trạng sạt đất và thay đổi môi trường nước làm mất kế sinh nhai, những rủi ro do thiên tai làm mất khả năng lao động… Biến đổi khí hậu đang làm giảm hoặc mất đi các nguồn lực, điều kiện để phát triển bình thường; là nguyên nhân gia tăng xung đột xã hội, thúc đẩy biến đổi xã hội theo chiều hướng tiêu cực, rất cần tăng cường quản lý phát triển xã hội theo hướng đa tầng, bao trùm, hiệu quả để bảo đảm quyền an sinh, an ninh cho người dân.
2.2. Một số giải pháp đổi mới chính sách xã hội góp phần phát triển toàn diện đất nước trong giai đoạn mới
Thứ nhất, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền, người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp cần thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội; tuyên truyền, vận động để hội viên, đoàn viên và nhân dân nắm chắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phối hợp tổ chức vận động nguồn lực, phát triển các loại hình cung cấp dịch vụ xã hội.
Các bộ, ngành, tổ chức liên quan phát huy vai trò, chủ động trong xây dựng, thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền tăng cường hiệu lực hiệu quả trong quản lý và thực hiện; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để người dân tích cực tham gia và giám sát thực hiện chính xã hội tại cộng đồng, cơ sở.
Hai là, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong giai đoạn mới. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhận thức đúng, đầy đủ về chính sách xã hội. Khẳng định quyết tâm xây dựng và thực hiện chính sách xã hội toàn diện, hiện đại, bao trùm và bền vững, dựa trên quyền con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể; phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Xây dựng nội dung và phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với từng đối tượng, bảo đảm thiết thực và hiệu quả, hình thức đa dạng, phong phú; kịp thời khen thưởng, tôn vinh các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt các chính sách xã hội và tuyên truyền, phổ biến các mô hình tốt, cách làm hay, các điển hình tiên tiến.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chính sách xã hội. Xây dựng hệ thống quản trị hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân trong tổ chức thực hiện; tăng cường cải cách hành chính, minh bạch trong quản lý nhà nước về chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về chính sách xã hội tập trung, thống nhất, xuyên suốt trong chỉ đạo điều hành từ trung ương đến địa phương.
Hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về chính sách xã hội các cấp; số hóa các quy trình quản lý và triển khai thực hiện chính sách; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành đảm bảo liên thông và kết nối để chia sẻ và xác thực dữ liệu tự động, an toàn, bảo mật. Nhà nước thực hiện chức năng giám sát và quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ xã hội thông qua cơ chế quản lý, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu và thông tin đối tượng trên nền tảng số; từng bước xã hội hóa hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số.
Hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực thực hiện chính sách xã hội linh hoạt, hiệu quả. Nhà nước có chiến lược huy động hợp lý nguồn lực tài chính từ xã hội, bên cạnh nguồn lực của nhà nước là chủ đạo để thực hiện chính sách xã hội và phúc lợi xã hội; tăng cường xã hội hóa và hợp tác công tư trong thực hiện chính sách xã hội.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm bền vững và phát triển thị trường lao động. Nâng cao chất lượng dân số, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, chủ động thích ứng với già hóa dân số và dân số già; chuyển trọng tâm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Tạo đột phá đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, bảo đảm người lao động được đào tạo ngành nghề phù hợp, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập; xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ; xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn kỹ năng nghề cho các ngành, nghề trong xã hội. Giải quyết việc làm bền vững cho lực lượng lao động; tăng cường chính sách, cơ chế hỗ trợ vốn vay tạo việc làm và sinh kế cho các nhóm đối tượng yếu thế và triển khai hiệu quả chính sách việc làm công.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau. Thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế, chính sách an sinh xã hội theo hướng chủ động, tích hợp, có sự điều phối và liên kết giữa các hợp phần bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và việc làm, nhằm hướng tới bao phủ toàn dân và chuẩn bị tốt hơn trong trường hợp xảy ra các cú sốc kinh tế và các cú sốc khác.
Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng tiếp tục được quan tâm và ưu tiên cao nhất trong thực hiện các chính sách xã hội; điều chỉnh mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; hỗ trợ nhà ở, giáo dục, đào tạo, việc làm, phát triển sản xuất và tiếp cận các dịch vụ xã hội cho người có công và thân nhân; bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú.
Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế bao phủ toàn bộ lực lượng lao động; đẩy mạnh cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội, mở rộng, gia tăng quyền lợi của đối tượng, thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện; hỗ trợ lao động nghèo, lao động nông nghiệp và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và quản lý, đầu tư phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội; ban hành cơ chế, chính sách phù hợp khắc phục có hiệu quả việc rút bảo hiểm xã hội một lần. Phát huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm bền vững cho người lao động, chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp; chú trọng đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm cho lao động thất nghiệp.
Sáu là, hoàn thiện hệ thống trợ giúp xã hội, hỗ trợ người dân kịp thời khắc phục khó khăn trước các tác động của khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh và các rủi ro khác. Bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, không để ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, người cao tuổi, người khuyết tật, người di cư và gia đình có trẻ em; có chính sách bảo trợ xã hội đối với người không có khả năng lao động. Nghiên cứu, xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy và nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy. Phát triển mạng lưới dịch vụ trợ giúp xã hội giải quyết vấn đề bạo lực, bạo hành gia đình, phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi; đổi mới công tác huy động nguồn lực xã hội, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp xã hội, cứu trợ khẩn cấp; xây dựng các quỹ cứu trợ xã hội từ thiện nhiều cấp độ, quản lý các hoạt động từ thiện, nhân đạo công khai, minh bạch, hiệu quả.
Phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp, phát hiện và can thiệp sớm các vấn đề của người dân; hỗ trợ người dân tự giải quyết các vấn đề và phát triển cộng đồng bền vững, toàn diện. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi; có giải pháp phù hợp ứng phó với vấn đề già hóa dân số, phát huy vai trò của người cao tuổi trong phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu, khả năng của người cao tuổi; phát triển hệ thống cơ sở dịch vụ chăm sóc đối với người cao tuổi; tăng cường huy động các hội, đoàn thể, khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi.
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản đối với người nghèo; hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế và từng bước nâng cao thu nhập của các hộ nghèo, cận nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm ổn định đời sống lâu dài cho người dân; triển khai cơ chế thí điểm phân cấp trọn gói thực hiện 3 Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bảy là, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở; nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cho trẻ dưới 5 tuổi; xây dựng xã hội học tập và thúc đẩy học tập suốt đời; chú trọng phát triển mạng lưới trường lớp và nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo; tăng cường giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân; chú trọng phát triển mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng; chú trọng chăm sóc sức khoẻ tâm thần; chăm sóc sức khoẻ phụ nữ mang thai, bà mẹ và trẻ em. Nâng cao chất lượng dự báo, giám sát, ngăn ngừa và khống chế dịch bệnh; phát triển y học gia đình; quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử và khám sức khỏe định kỳ cho Nhân dân.
Tám là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội. Phát triển hệ thống dịch vụ xã hội (dịch vụ công tác xã hội, dịch vụ về việc làm, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục, chăm sóc người cao tuổi) đa dạng, liên thông, liên tục, theo hướng chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu và khả năng tiếp cận của các nhóm dân cư, nhất là hỗ trợ công nhân lao động, đối tượng yếu thế, người di cư và dân tộc thiểu số. Tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội có chất lượng và không bị giới hạn bởi tình trạng hộ khẩu. Mở rộng hợp tác công - tư trong cung cấp dịch vụ xã hội cho người dân và tạo cơ chế để khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công; cải cách phương thức tài chính cho dịch vụ công; xây dựng dịch vụ công chất lượng cao đối với một số nhóm xã hội có khả năng thanh toán. Phân định lại chức năng rõ ràng giữa an sinh xã hội với cung cấp các dịch vụ cơ bản.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, nguồn tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật của các nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế cho thực hiện chính sách xã hội; chú trọng phát triển nguồn nhân lực cạnh tranh trong khu vực và thế giới; xây dựng và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn lao động, tiêu chuẩn nghề nghiệp tương thích, cạnh tranh quốc tế; khuyến khích huy động nguồn lực quốc tế hỗ trợ, đầu tư phát triển các dịch vụ xã hội đáp ứng nhu cầu của người dân; hợp tác quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng, chống dịch bệnh, ô nhiễm môi trường xuyên biên giới./.
TS. Nguyễn Văn Hồi
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Tài liệu tham khảo
Bộ LĐ-TB&XH (2023), Dự thảo Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
Bộ LĐ-TB&XH (2023), Tổng kết 40 năm “đổi mới” các lĩnh vực lao động, người có công và xã hội
Chính phủ (2021), Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội
Hội đồng lý luận Trung ương (2023), Báo cáo Đánh giá quá trình phát triển quan điểm về chính sách xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam
Ngân hàng Thế giới (2021a), Báo cáo Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam: tầm nhìn đến 2030
Ngân hàng Thế giới (2021), Báo cáo Việt Nam thích ứng với xã hội già hóa. https://documents1.worldbank.org/
Ngân hàng Thế giới (2023), Báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu
Nuno Cunha – chuyên gia cấp cao về ASXH của ILO (2022), Hướng đến một hệ thống An sinh xã hội toàn diện ở Việt Nam
Tổng cục Thống kê (2021), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019: Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam.
Tổng cục Thống kê (2020), Tổng điều tra kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019
UNDP (2023), Báo cáo Phát triển Con người (HDR) toàn cầu 2021/22.
UNFPA và TCTK (2021), Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2022-2069
[1] Các quốc gia được phân chia thành bốn nhóm: (1) Nước thu nhập thấp có thu nhập bình quân đầu người từ 1025 USD/năm trở xuống; (2) Nước có thu nhập trung bình thấp từ 1026 USD/năm - 4.035 USD/năm; (3) Nước có thu nhập trung bình cao từ 4.036 USD/năm - 12.475 USD/năm; (4) Nước có thu nhập cao từ 12.476 USD/năm trở lên.
[2] Theo phân loại của UNDP, Chỉ số phát triển con người (HDI) có giá trị trên 0,800 là rất cao, giữa 0,700 và 0,799 là cao, giữa 0,550 và 0,699 là trung bình và dưới 0,550 là thấp.
[3] Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2022): Về phương thức quản lý quan hệ lao động, từ chỗ tập trung nhiều cho các hoạt động can thiệp trực tiếp để xử lý các vấn đề vướng mắc, tranh chấp lao động, đình công phát sinh trong doanh nghiệp, công tác quản trị chuyển sang tập trung vào các giải pháp phòng ngừa, thúc đẩy phát triển QHLĐ theo đúng nguyên tắc QHLĐ trong cơ chế thị trường, lấy hoàn thiện hệ thống pháp luật QHLĐ làm nhiệm vụ trọng tâm để tạo lập, dẫn dắt hai bên tự xây dựng QHLĐ; tập trung vào củng cố tổ chức bộ máy, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra và hỗ trợ các bên thực hiện các hoạt động đối thoại, thương lượng thỏa thuận để xác lập các điều kiện lao động một cách thực chất, phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh, lấy mục tiêu giải quyết hài hòa lợi ích các bên để phát triển QHLĐ hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp.
[4] Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 23/5/2018.
[5] Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 9/4/2020 của Chính phủ: Về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19
[6] Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19
[7] Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ Về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
[8] Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động
[9]Đến hết năm 2020, đã hỗ trợ chỗ ở cho 648.000 hộ nghèo nông thôn, trên 18.000 nghìn hộ phòng, tránh bão, lũ lụt khu vực miền Trung, 52.000 hộ dân vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, 323.000 căn nhà cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn.
[10] Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói vào năm 2006, về đích trước 10 năm so với thời hạn (năm 2015).
[11] Theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, có hiệu lực từ ngày 1/7/2021.
[12] Kết quả Điều tra 53 dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2019.
[13] Theo ILO (2022), tại thời điểm so sánh, tỷ trọng mức chi cho an sinh xã hội (trừ y tế) trong GDP của Việt Nam là 4% so với mức chung của quốc tế là 13% (Châu á – TBD là 8%; Châu Âu và Trung Á là 17%; Nhật Bản là 16%; Hàn Quốc là 6%; Trung Quốc là 7%; Australia là 9%).
[14]Đến nay, Việt Nam đã tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA)
[15] Theo dự báo của UNFPA và TCTK (2021), thời gian quá độ từ già hóa dân số sang dân số già của Việt Nam khoảng 26 năm, từ năm 2011 đến năm 2036 (tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên chạm ngưỡng dân số già vào năm 2036 với tỷ lệ 14,17% ) - đây là khoảng thời gian ngắn, ngắn hơn rất nhiều so với các quốc gia có trình độ phát triển cao (các nước phát triển phải trải qua nhiều thập kỷ thì mới bước từ giai đoạn dân số già hóa sang dân số già, như Pháp 115 năm; Thụy Điển 85 năm; Hoa Kỳ 70 năm; Nhật Bản 26 năm). Theo Ngân hàng Thế giới (2021a), Việt Nam hiện nằm trong nhóm đang già hóa nhanh nhất thế giới, trong bối cảnh mức thu nhập thấp hơn nhiều so với các nước khác, đồng nghĩa với nguy cơ rất cao “chưa giàu đã già” trong thời gian tới nếu không kịp thời có những biện pháp ứng phó hữu hiệu đối với vấn đề già hóa dân số nhanh.