I. Quan điểm của Đảng ta về kinh tế số và phát triển kinh tế số
Thứ nhất về khái niệm kinh tế số:
Thuật ngữ “Kinh tế số” (digital economy) đã xuất hiện trước khái niệm Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện của CMCN 4.0, xu hướng số hóa hay công cuộc chuyển đổi số thực sự xuất hiện mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực, bởi bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là dựa trên cách mạng kỹ thuật số. Một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số là biểu hiện rõ nhất của nền kinh tế số. Ở Việt Nam thuật ngữ kinh tế số mới chỉ được chính thức đề cập trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước gần đây. Chẳng hạn, trong Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã xác định: “nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số”. Tinh thần này được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội XIII: “Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”[1]. Trong các văn kiện của Đảng và nhà nước cũng đã xác định rõ: Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế[2].
Thứ hai, về vai trò, vị trí kinh tế số:
Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị xác định: Phát triển kinh tế số là trụ cột, nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia những năm tiếp theo và đề ra mục tiêu vào năm 2025 kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% tổng sản phẩm quốc nội và tăng lên 30% vào năm 2030. Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 14-1-2020, của Thủ tướng Chính phủ “Về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam” đã khẳng định: Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet vạn vật...), chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát triển mới - kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển đang bắt đầu quá trình chuyển đổi số. Trong Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế số và xã hội số được đặt ở mức ưu tiên cao trong các chiến lược phát triển Quốc gia.
Thứ ba, về cấu phần kinh tế số:
Kinh tế số là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam. Thúc đẩy phát triển kinh tế số với trọng tâm là phát triển doanh nghiệp công nghệ số, chuyển dịch từ lắp ráp, gia công về công nghệ thông tin sang làm sản phẩm công nghệ số, công nghiệp 4.0, phát triển nội dung số, công nghiệp sáng tạo, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử và sản xuất thông minh. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Trong đó xác định 8 lĩnh vực ưu tiên thúc đẩy chuyển đổi số bao gồm: Nông nghiệp; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Y tế; Giáo dục; Tài nguyên và Môi trường; Xây dựng; Giao thông vận tải; Công Thương. Kinh tế số bao gồm: Kinh tế số ICT là công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ viễn thông; kinh tế số nền tảng là hoạt động kinh tế của các nền tảng số, các hệ thống trực tuyến kết nối giữa cung và cầu và các dịch vụ trực tuyến trên mạng; kinh tế số ngành là hoạt động kinh tế số trong các ngành, lĩnh vực.
Thứ tư, về quan điểm và định hướng phát triển
Về quan điểm phát triển kinh tế số, Đảng đã xác định rõ lộ trình và với quan điểm: “từng bước phát triển kinh tế số”, “phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”, phấn đấu đến năm 2025, kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP và năm 2030, kinh tế số chiếm trên 30% GDP.
Quyết định chỉ rõ, trong quá trình phát triển, với những mô hình đã chín muồi, đã chứng minh được hiệu quả thực tiễn thì nhanh chóng nhân rộng, đẩy mạnh triển khai. Với những mô hình mới chưa có quy định rõ ràng thì cho phép thí điểm, vừa làm vừa hoàn thiện mô hình trước khi triển khai nhân rộng. Cùng với đó, cần tập trung phát triển toàn diện các yếu tố nền móng cho kinh tế số, xã hội số và xác định một số ngành, lĩnh vực trọng tâm cần tập trung triển khai. Phát triển kinh tế số và xã hội số phải gắn liền với xây dựng và củng cố chủ quyền số quốc gia. Chủ động hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường cân đối với phát triển sản xuất trong nước, thu hút nguồn lực đầu tư một cách chọn lọc, phù hợp với chiến lược quốc gia. Quản lý rủi ro trong quá trình chuyển đổi lên môi trường số, phát triển kinh tế số và xã hội số an toàn. Bảo vệ người dân, doanh nghiệp trước những nguy cơ, rủi ro, tác nhân xấu xâm hại tới lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân, doanh nghiệp đồng thời chú trọng bảo vệ trẻ em và các đối tượng yếu thế trên môi trường mạng[3].
II. Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam
Một là, kinh tế số ở Việt Nam trong những năm qua có bước phát triển nhanh
Ở Việt Nam, nếu xét các cấu phần kinh tế số, có thể nói kinh tế số xuất hiện từ khi có máy tính, đặc biệt là khi có máy tính cá nhân vào cuối những năm 80 và bắt đầu phát triển mạnh mẽ kể từ thời điểm cuối những năm 90 của thế kỷ trước, khoảng thời gian Internet bắt đầu có mặt tại Việt Nam. Kinh tế số ở Việt Nam phát triển mạnh cả về nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh, đặc biệt Internet đã trở thành một phần thiết yếu của các ngành thương mại dịch vụ như ngân hàng, giao thông, y tế... Quy mô nền kinh tế số tại Việt Nam từ 3 tỷ USD năm 2015 đã tăng lên 12 tỷ USD vào năm 2019 và 14 tỷ USD năm 2020. Dự kiến đến năm 2025 bứt phá lên 52 tỷ USD. Việt Nam đứng thứ hai ASEAN về tốc độ tăng trưởng kinh tế số (sau Indonesia). Việt Nam là quốc gia có tỷ trọng tổng giá trị hàng hóa kinh tế số lớn nhất trong khu vực, đạt 4% GDP; đứng thứ 2 là Singapore 3,2% GDP; Indonesia 2,9% GDP; Thái Lan và Malaysia 2,7% GDP; Philippines 1,6% GDP (năm 2020).
Thứ hai, các lĩnh vực kinh tế số khá đa dạng
Các công nghệ số đã được ứng dụng trong dịch vụ gọi xe, giao-nhận hàng, đặt vé máy bay, đặt đồ ăn, thuê phòng lưu trú, thuê gia sư, thuê giúp việc, thuê dịch vụ sửa chữa các thiết bị trong gia đình... thậm chí người dùng cũng có thể kết nối bác sĩ chăm sóc sức khỏe tại nhà. Hoạt động đào tạo trực tuyến được triển khai rộng rãi[4]. Cùng với đó nhiều phương thức trực tuyến trong điều hành, làm việc, đào tạo của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, trường học... được triển khai, nhất là việc đẩy mạnh số hóa trong lưu trữ, xử lý dữ liệu từ sản xuất đến đưa sản phẩm ra thị trường.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử
Thương mại điện tử (MĐT), là sự mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử như Internet và các mạng máy tính. TMĐT dựa trên một số công nghệ như chuyển tiền điện tử, quản lý chuỗi dây chuyền cung ứng, tiếp thị Internet, quá trình giao dịch trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), các hệ thống quản lý hàng tồn kho và các hệ thống tự động thu thập dữ liệu. TMĐT hiện đại thường sử dụng mạng World Wide Web là một điểm ít nhất phải có trong chu trình giao dịch, mặc dù nó có thể bao gồm một phạm vi lớn hơn về mặt công nghệ như email, các thiết bị di động cũng như điện thoại.
Bảng . Tổng quan nền kinh tế số Việt Nam giai đoạn 2014 – 2019
Nguồn: MCI Data 2020, Báo cáo TMĐT 2020, Bộ Thông tin và Truyền thông, GII 2014-2019,
Sách trắng CNTT-TT Việt Nam.
Nhờ hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện, thị trường TMĐT ngày càng rộng mở với nhiều mô hình, chủ thể tham gia, các chuỗi cung ứng cũng đang dần thay đổi theo hướng hiện đại hơn khi có sự hỗ trợ từ số hóa và công nghệ thông tin. Tốc độ tăng trưởng của TMĐT trong giai đoạn 2013 – 2019 luôn ở mức cao, trên 20%/năm. Nhờ vậy, từ xuất phát điểm thấp 2,2 tỷ USD vào năm 2013, quy mô thị trường TMĐT lên đến khoảng 10,08 tỷ USD vào năm 2019 và dự kiến quy mô thị trường đạt 23 tỷ USD vào năm 2025. Khi đó, Việt Nam sẽ trở thành nước có quy mô TMĐT lớn thứ hai Đông Nam Á, sau Indonesia (82 tỷ USD).
III. Phát triển kinh tế số- giải pháp trước nguy cơ tụt hậu
Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển, năng động. Trong những năm đổi mới vừa qua với những chính sách phát triển hợp lý đã từng bước khơi thông các nguồn lực cho phát triển, đưa Việt Nam từ nước nghèo trở thành nước có thu nhập trung bình của thế giới. Số liệu từ Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy GDP bình quân đầu người năm 2021 của Việt Nam đạt 3.694,02 đô la. Năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 3.425,09 đô la, sau đó tăng lên 3.526,27 đô la vào năm 2020 và đạt 3.694,02 đô la vào năm 2021. Trên thực tế, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng mạnh kể từ khoảng năm 2005. Theo dự đoán của IHS Market, GDP của Việt Nam sẽ tăng từ mức 270 tỷ USD trong năm 2020 lên mức 433 tỷ USD trong năm 2025 và 687 tỷ USD vào năm 2030. Điều đó có nghĩa GDP đầu người sẽ tăng rất nhanh, từ mức 2.785 USD trong năm 2020 lên 4.280 USD vào năm 2025 và 6.600 USD vào năm 2030
Tuy nhiên, công cuộc đổi mới cần được tiếp tục đẩy mạnh, cần tao lập những động lực tăng trưởng mới để tránh nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới. Nhận định của Đảng về nguy cơ tụt hậu, hay bẫy thu nhập trung bình trong phát triển kinh tế vẫn đang là thách thức với sự phát triển của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn ở khoảng cách khá xa so với các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới trong nhiều lĩnh vực. Trong đó riêng về thu nhập bình quân đầu người Việt Nam đứng khá thấp so với các nước trong khu vực chỉ bằng 1/3 Thái Lan, 1/5 so với Malaisia. Để có thể bắt kịp với các quốc gia khác trên thế giới Việt Nam cần duy trì tăng trưởng cao. Nhiều ý kiến của các chuyên gia cho thấy, nếu Việt Nam muốn bắt kịp những nền kinh tế như Hàn Quốc, Đài Loan thì cần duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 9%/năm trong 20 năm tới. Nếu chỉ tăng trưởng trung bình 5-6%/năm, Việt Nam sẽ nằm trong bẫy thu nhập trung bình. Trong hai thập niên gần đây kinh tế Việt Nam chỉ tăng trưởng trung bình 5,7%/năm. Nguy cơ tụt hậu kinh tế Việt Nam so với các nước phát triển trong khu vực ASEAN là hiện hữu.
Thực tiễn phát triển của thế giới cho thấy, để vượt lên tránh tụt hậu trong phát triển không có con đường nào khác phải chớp thời cơ do sự phát triển của khoa học công nghệ đưa lại. Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghệ cũng chính là những lần thay đổi tương quan so sánh về tiềm lực kinh tế giữa các quốc gia gắn với khả năng nắm bắt và ứng dụng công nghệ mới. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư cũng chính là thời cơ cho sự phát triển nếu như tranh thủ được cơ hội. Cuộc cách mạng công nghệ lần này yếu tố cốt lõi là công nghệ số với đặc trưng: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.
Với việc phát triển kinh tế dựa trên nền tảng công nghệ số đã đưa lại động lực tăng trưởng mới. Hiện nay kinh tế số đang là xu thế phát triển của tương lại. Thực tiễn phát triển kinh tế trên thế giới đã và đang khẳng định kinh tế số là một động lực cốt lõi của tăng trưởng toàn cầu; kinh tế số giúp tăng trưởng bền vững hơn, do công nghệ mang lại những giải pháp tốt, hiệu quả hơn đối với việc sử dụng tài nguyên, xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường…Nhiều quốc gia đang triển khai chiến lược chuyển đổi cấu trúc kinh tế truyền thống sang thúc đẩy phát triển kinh tế số, trong đó nổi bật là nhóm các nước có nền kinh tế phát triển G7 và các nền kinh tế mới nổi. Ngay bản thân nền kinh tế của một số quốc gia Đông Nam Á cũng nhanh chóng thích ứng, chuyển đổi phát triển mạnh kinh tế số khá thành công, chẳng hạn Indonesia kinh tế số tăng trưởng mạnh từ 41 tỷ USD năm 2019 lên 77 tỷ USD vào năm 2022 và dự kiến sẽ tăng lên 130 tỷ USD vào năm 2025, lên 330 tỷ USD vào năm 2030, công nghệ số có tiềm năng tạo ra 20 triệu đến 45 triệu việc làm mới cho lao động ở nước này[5].
Kinh tế số phát triển, sản xuất được tự động hoá trên nền tảng công nghệ số. Khi nền kinh tế số phát triển làm chu kỳ sản xuất được rút ngắn. Đồng thời, chất lượng và mức độ tin cậy cũng được cải thiện, khâu phân phối trung gian được giảm xuống, liên kết cung – cầu diễn ra ngay trên các nền tảng kỹ thuật số. Nhờ vậy năng suất tăng lên, hiệu quả sản xuất cũng được nâng cao. Thông qua phát triển kinh tế số, tham gia vào quá trình hội nhập sẽ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp buộc phải đổi mới quy trình sản xuất – kinh doanh truyền thống sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng và điều này sẽ làm tăng năng suất cũng như hiệu quả lao động. Nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) được xem là hạt nhân của chuyển đổi số, được đánh giá là phần quan trọng nhất của nền kinh tế số lõi. Việc phát triển tốt nền tảng này sẽ góp phần giúp Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, làm cơ sở cho vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
IV. Thách thức và giải pháp cho phát triển kinh tế ở Việt Nam
Phát triển kinh tế số trở thành xu thế tất yếu và là phương thức để thực hiện phát triển nhanh, bền vững tiến tới hiện thực hoá mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Việt Nam đang có lợi thế nhất định, với môi trường chính trị, xã hội ổn định, cùng với nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố vững chắc, có dân số trẻ, nhanh nhạy trong nắm bắt công nghệ, nằm trong tốp đầu các quốc gia có tốc độ tăng trưởng về số người dùng Internet, điện thoại thông minh, và sử dụng mạng xã hội; tính cách người Việt Nam thích ứng nhanh với sự thay đổi, thích sử dụng công nghệ. Hiện có khoảng 72% dân số đang sử dụng điện thoại thông minh, 68% số người Việt Nam xem video và nghe nhạc mỗi ngày trên thiết bị di động, có 70% số thuê bao di động đang sử dụng 3G hoặc 4G… Ngành viễn thông công nghệ thông tin đã tạo ra hạ tầng viễn thông 3G, 4G phủ 95% cả nước, hiện đang bắt đầu triển khai 5G, đây là một nền tảng quan trọng của nền kinh tế số ở Việt Nam. Cùng với đó quyết tâm chính trị, nền tảng thể chế và công nghệ được đánh gía ở mức khá tích cực so với khu vực, chính là những cơ sở để Việt Nam thúc đẩy chuyển đổi thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, bên cạnh điều kiện ban đầu như trên, Việt Nam cũng đang gặp không ít thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế số.
Trước hết, đó là nhận thức về kinh tế số trong cộng đồng, cả đối với nhà quản lý, doanh nghiệp và người dân còn hạn chế và không đồng đều, làm cho việc chuyển đổi số gặp khó khăn. Báo cáo kinh tế Việt Nam thường niên do Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (2019) công bố đã chỉ ra, có tới 85% doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vẫn nằm ngoài nền kinh tế số và chỉ có 13% ở cấp độ mới bắt đầu. Do vậy, để phát triển kinh tế số, giải pháp đầu tiên cần chú trọng tuyên truyền, nâng cao hiểu biết về kinh tế số, tạo sự đồng thuận xã hội trong quyết tâm chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.
Thứ hai, đó là thách thức về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế số. Nền kinh tế số dựa trên sự phát triển của khoa học công nghệ, đòi hỏi nguồn lực chất lượng cao. Đây được xem là điểm hạn chế chung của những nước đang phát triển. Mặc dù Việt Nam có sự đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân lực song vẫn chưa theo kịp xu thế phát triển nhanh chóng của kinh tế số. Riêng về lĩnh vực công nghệ thông tin mới chỉ đáp ứng được hơn 20 % nhu cầu. Chính vì thách thức này, cần đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó cần cập nhật, bổ sung các chương trình đào tạo về công nghệ số, nền tảng số, từ mã hóa đến tư duy thiết kế và các kỹ năng số cần thiết cho tương lai trong nhà trường. Việc đào tạo cần gắn với nhu cầu thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển. Đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động nguồn lực cho đào tạo. Thực hiện các chính sách ưu đãi phù hợp để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Thứ ba, hệ thống thể chế cho phát triển kinh tế số chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ. Kinh tế số có các đặc trưng vận hành với các quy luật mới, tốc độ thay đổi nhanh chóng, tính kết nối lớn (hệ sinh thái), tính chia sẻ mạnh; dữ liệu là tài sản, tài nguyên, vốn...nên cần có hệ thống quy định mới cho phù hợp, bảo đảm lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và người dân, có vậy mới thúc đẩy kinh tế số phát triển. Định hướng và chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam cũng đã được xác định rõ ràng, vấn đề là thể chế hoá thành các luật và các quy định đồng bộ.
Thứ tư, hạn chế về nguồn lực đầu tư cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số. Các dự án chuyển đổi số có thể tốn rất nhiều kinh phí đầu tư, trong khi năng lực tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khá hạn chế. Theo khảo sát từ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2020, có đến 55,6% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng chi phí ứng dụng công nghệ là hạn chế lớn nhất. Chi phí thay đổi quy trình, đào tạo nhân sự để thích ứng với quy trình mới; chi phí đầu tư cho hệ thống công nghệ thông tin như việc phải triển khai một số hệ thống công nghệ thông tin sẽ dẫn tới việc tăng đầu tư và các chi phí vận hành hệ thống. Do vậy, cần hợp tác huy động các nguồn lực, trong đó nhà nước cần có các chương trình hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp về điều kiện tài chính cũng như tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ hiện đại nước ngoài.
.
Thứ năm, sự phát triền chênh lệch vùng miền, khu vực kinh tế dẫn đến việc triển khai ứng dụng công nghệ số cũng thiếu đồng bộ, nhất là việc tạo lập cơ sở dữ liệu còn thiếu sự gắn kết, đồng bộ. Đây là một thách thức lớn cho việc xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu chung của quốc gia. Hiện một số bộ, ngành đã tự xây dựng cơ sở dữ liệu cho mình nhưng khả năng liên thông chúng với nhau vẫn còn hạn chế. Nút thắt quan trọng cần phải giải quyết, bởi việc có được nguồn dữ liệu đầu vào tốt là nền tảng căn bản để tạo lợi thế cho các doanh nghiệp công nghệ trong nước, từ đó giúp họ có thể tìm ra lời giải cho bài toán Việt Nam và cạnh tranh sòng phẳng với các dịch vụ công nghệ xuyên biên giới.
Thứ sáu: Vấn đề an ninh mạng, bảo mật, an toàn thông tin ngày càng gặp khó khăn. Kinh tế số dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, internet chứa đựng nguy cơ lớn về bảo mật, an toàn thông tin, tài chính và tính riêng tư của dữ liệu, của các chủ thể kinh tế số… Cùng với ban hành các quy định bảo đảm an toàn, an ninh mạng, nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển hạ tầng số, đồng thời nâng cao ý thức của người dân và doanh nghiệp trong tự bảo vệ khi hoạt động trên môi trường mạng.
Thứ bảy, một trong những thách thức đối với phát triển kinh tế số đó là sự biến chuyển khó lượng của bối cảnh khu vực và quốc tế, cùng với cạnh tranh gay gắt trong phát triển. Có thể thấy sự thay đổi của môi trường quốc tế, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng, nhất là liên quan đến dòng chảy vốn và công nghệ cao, gắn trực tiếp đến phát triển kinh tế số đặt ra thách thức không nhỏ với các quốc gia, nhất là các quốc gia phụ thuộc nhiều vào nguồn công nghệ cao như Việt Nam. Khắc phục thách thức này, Việt Nam cần nâng cao hiệu quả hợp tác thông qua các hiệp định thương mại và đầu tư, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các đối tác có trình độ phát triển cao. Bên cạnh đó cần khuyến khích các doanh nghiệp cập nhật thông tin, thành tựu mới công nghệ, thu hút trí tuệ, kinh nghiệm… của các chuyên gia giỏi, nhân viên có kinh nghiệm từ bên ngoài để thực hiện kế hoạch đổi mới công nghệ. Đây cũng là cơ sở để có thể tiếp nhận công nghệ chuyển giao từ bên ngoài và từ đó đầu tư nghiên cứu phát triển, từng bước tự chủ công nghệ nguồn, tham gia vào thị trường công nghệ số thế giới vừa bảo đảm cơ sở vững chắc cho phát triển kinh tế số vừa gia tăng nguồn thu từ trao đổi công nghệ.
PGS.TS. Vũ Văn Hà, Thư ký khoa học HĐLLTW
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.46
[2] Quyết định số 411/QĐ-TTg của Thủ tướng, ngày 31/3/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
[3] Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm, sớm có nhiều chủ trương, giải pháp thực hiện Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi sang nền kinh tế số. Các chủ trương này được thể hiện trong các văn bản như: Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 26/5/2016 về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0. Tháng 8/2018, Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử được thành lập do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Chủ tịch Ủy ban; Nghị quyết số 52/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; Quyết định số 749/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Quyết định số 411/QĐ-TTg của Thủ tướng, ngày 31/3/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Như vậy có thể thấy, Việt Nam thuộc nhóm ít các nước trên thế giới sớm ban hành chiến lược chuyển đổi số quốc gia, chiến lược về một quốc gia số và phát triển kinh tế số.
[4] Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông học trực tuyến chiếm 79,7%, cao hơn 67,5% so với mức trung bình của các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
[5] Nam Việt: Indonesia thúc đẩy nền kinh tế số, baoquangnam.vn, ngày 21/12/2022.