Thứ Năm, ngày 21 tháng 11 năm 2024

Phát huy vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện nay

Ngày phát hành: 23/10/2024 Lượt xem 201

 

Thiết chế văn hóa có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển văn hóa. Thiết chế văn hóa được biết đến là nơi dành cho các hoạt động văn hóa; nơi diễn ra các hoạt động sáng tạo, thực hành, hưởng thụ và trao truyền văn hóa; nơi bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa… Tuy nhiên, các thiết chế văn hóa truyền thống chưa được nhìn nhận và ứng xử như là thiết chế văn hóa. Bài viết làm rõ đặc điểm, vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống; từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

 

 

1. Sự hình thành của thiết chế văn hóa

Thiết chế văn hóa được hình thành và phát triển từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, có thể nói là từ khi con người bắt đầu xây dựng các cộng đồng và phát triển những hoạt động văn hóa, xã hội. Tuy nhiên khó có thể nói chinh xác thời điểm ra đời và phát triển của thiết chế văn hóa vì nó phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử, địa lý và đặc điểm văn hóa của mỗi cộng đồng dân cư và mỗi nền văn minh.

 

Qua mỗi thời kỳ lịch sử của nhân loại, thiết chế văn hóa lại được củng cố, phát triển.

 

Thời kỳ nguyên thủy: Những hình thức đầu tiên của thiết chế văn hóa có thể được tìm thấy trong các nhóm người đầu tiên, gắn với các hoạt động mang tính nghi lễ, tín ngưỡng, lễ hội và các hoạt động nghệ thuật sơ khai đầu tiên của người dân chủ yếu để duy trì sự sống và bảo vệ nhóm.

 

Ngôn ngữ xuất hiện giúp con người giao tiếp, tạo điều kiện cho việc truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm giữa các thế hệ. Sự phát triển của nông nghiệp dẫn đến việc định cư, hình thành các cộng đồng lớn hơn và phức tạp hơn, từ đó tạo ra các mối quan hệ xã hội phong phú hơn.

 

 

Thời kỳ cổ đại: Cùng với sự xuất hiện và phát triển của các nền văn minh lớn trên thế giới, các hệ thống tôn giáo ra đời cung cấp những giải thích về vũ trụ và đạo đức. Tôn giáo trở thành một yếu tố quan trọng trong việc quy định hành vi và tạo ra các lễ hội, nghi lễ. Cùng với đó là sự hình thành các nhà nước cổ đại và hệ thống pháp luật, các thiết chế quản lý và kiểm soát xã hội, các thiết chế văn hóa như đền thờ, sân khấu biểu diễn nghệ thuật, thư viện đã bắt đầu xuất hiện.

 

Thời kỳ trung đại: Các thiết chế văn hóa thời kỳ này gắn bó chặt chẽ với sự ra đời và phát triển của các tôn giáo. Nghệ thuật, triết học và văn hóa phát triển mạnh mẽ, các thiết chế như học viện, thư viện, các cơ sở tôn giáo, tin ngưỡng trở thành trung tâm văn hóa quan trọng. Thương mại và các cuộc chiến tranh dẫn đến sự giao lưu văn hóa giữa các nền văn minh khác nhau.

 

Thời kỳ hiện đại: Từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng công nghiệp đã mang đến những thay đổi lớn trong cấu trúc xã hội dẫn đến sự hình thành các thiết chế công nghiệp và đô thị hóa. Các thiết chế văn hóa ngày càng phong phú và đa dạng hơn với sự ra đời của các trung tâm văn hóa, rạp chiếu phim, bảo tàng và các hoạt động văn hóa mới…

 

Đến thế kỷ 20-21, giao lưu văn hóa trên quy mô toàn cầu diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến các thiết chế văn hóa truyền thống. Các giá trị văn hóa và phong tục tập quán chịu sự tác động có thể biến đổi hoặc bị thay thế bởi những giá trị mới của nền văn hóa hiện đại. Công nghệ thông tin và truyền thông làm thay đổi cách thức con người tương tác và tiếp cận văn hóa. Điều này dẫn đến sự ra đời của các thiết chế văn hóa hiện đại như mạng xã hội.

Như vậy, thiết chế văn hóa không có một thời điểm ra đời cụ thể mà là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài và liên tục của nhân loại.

 

2. Khái niệm thiết chế văn hóa

 

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố: Cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, hệ thống biện pháp hoạt động và kinh phí hoạt động cho thiết chế đó[2].

 

Theo Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày 11-11-2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030, mạng lưới thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở được chia thành bốn hệ thống, bao gồm: 1) Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở phục vụ cộng đồng thuộc ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý; 2) Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở phục vụ thanh, thiếu niên và nhi đồng; 3) Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở phục vụ công nhân viên chức, người lao động; 4) Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở thuộc các bộ, ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang; các thiết chế văn hóa, thể thao được đầu tư bằng nguồn vốn xã hội hóa[3].

 

Gần đây nhất, trong phát biểu tại Hội thảo “Chính sách và nguồn lực cho phát triển thiết chế văn hóa, thể thao” được tổ chức tại Quảng Ninh (ngày 12-5-2024), GS, TS. Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhận định: Các thiết chế văn hóa có thể được coi là hạ tầng cho các hoạt động văn hóa, thể thao phát triển; nơi diễn ra các hoạt động sáng tạo, phổ biến, thực hành và hưởng thụ các giá trị văn hóa; nơi rèn luyện thể chất, nâng cao thể lực và phát triển toàn diện con người Việt Nam, nơi bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa đặc sắc, các hoạt động thể thao truyền thống có lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc[4].

 

Tuy nhiên, có thể thấy, các nhận định nêu trên về thiết chế văn hóa đều chỉ phù hợp với các thiết chế văn hóa mới xuất hiện vào thời hiện đại chứ không phù hợp với hệ thống các thiết chế văn hóa truyền thống. Thực tế hiện nay cho thấy, các thiết chế văn hóa truyền thống hiện đại cùng tồn tại. Như trên đã đề cập, thiết chế văn hóa là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài và liên tục của nhân loại. Trước khi các thiết chế văn hóa hiện đại xuất hiện thì các thiết chế văn hóa truyền thống đã tồn tại. Không thể không ghi nhận, thiết chế văn hóa truyền thống là một bộ phận và là một giai đoạn phát triển của thiết chế văn hóa, khi hệ thống các thiết chế văn hóa hiện đại chưa xuất hiện và phát triển thì hệ thống các thiết chế văn hóa truyền thống đã tồn tại và phát huy vai trò của mình trong đời sống văn hóa của người dân. Do đó, không nên chỉ nhìn nhận hệ thống thiết chế văn hóa truyền thống dưới góc độ di sản văn hóa. Tuy nhiên, các thiết chế văn hóa gắn với đời sống sinh hoạt văn hóa truyền thống, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo từ ngàn đời của nhân dân như: Miếu, đền, đình, chùa, nhà thờ đối với người Kinh; chùa của người Khmer; đền, tháp của người Chăm; nhà Rông, nhà Gươl... của các dân tộc thiểu số khu vực Trường Sơn, Tây Nguyên… chưa được xem là thiết chế văn hóa.

 

Như vậy, có thể hiểu, thiết chế văn hóa truyền thống là những tổ chức, cơ sở, hoặc không gian thực hành văn hóa được hình thành và phát triển trong cộng đồng qua nhiều thế hệ, thường mang tính chất bền vững và gắn liền với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, và bản sắc văn hóa đặc trưng của cộng đồng. Các thiết chế này không chỉ là nơi gìn giữ và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì bản sắc văn hóa của một dân tộc, là nơi thờ cúng, thực hành nghi lễ tín ngưỡng, nơi tổ chức các lễ hội, sự kiện văn hóa quan trọng của cộng đồng.

 

Thiết chế văn hóa hiện đại là những cơ sở, tổ chức hoặc mô hình hoạt động văn hóa được hình thành và phát triển trong bối cảnh xã hội hiện đại, thường gắn với sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Các thiết chế văn hóa hiện đại thường có tính chất đa dạng, linh hoạt và mở rộng hơn so với các thiết chế văn hóa truyền thống như: Nhà hát, rạp chiếu phim, thư viện, bảo tàng, trung tâm triển lãm v.v…

 

Các thiết chế văn hóa là tác nhân quan trọng trong việc thúc đẩy hiểu biết văn hóa, đối thoại liên văn hóa và đa dạng văn hóa, cũng như trong truyền tải văn hóa qua các thế hệ. Để có thể nhìn nhận được đầy đủ hơn về vai trò của hệ thống thiết chế văn hóa cần phải thừa nhận sự tồn tại của các thiết chế văn hóa truyền thống trong hệ thống thiết chế văn hóa hiện nay.

 

 

3. Vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống

 

Theo báo cáo của Cục Văn hóa cơ sở, tính đến hết tháng 3-2024, cả nước có: 66 thiết chế văn hóa cấp tỉnh (trung tâm văn hóa, trung tâm văn hóa nghệ thuật, trung tâm văn hóa - điện ảnh…); 689/705 quận, huyện có trung tâm văn hóa - thể thao hoặc nhà văn hóa, đạt tỷ lệ khoảng 97,7%; 8.207/10.598 xã, phường, thị trấn có trung tâm văn hóa - thể thao, đạt tỷ lệ 77,4%, trong đó có 5.625 trung tâm văn hóa - thể thao đạt chuẩn (đạt tỷ lệ 53%); 69.070/90.508 làng, thôn, bản, ấp… có nhà văn hóa, đạt tỷ lệ khoảng 76,3%, trong đó có 44.836 nhà văn hóa đạt chuẩn (đạt tỷ lệ 49,5%)[5].

 

Bên cạnh hệ thống các thiết chế văn hóa hiện đại là sự có mặt của hệ thống các thiết chế văn hóa truyền thống. Theo số liệu thống kê từ Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Hội nghị thường niên tháng 7 năm 2020, cả nước hiện có 18.491 ngôi chùa, tịnh xá, thiền viện, tịnh thất, niệm Phật đường, tu viện[6]. Ngoài ra, còn có một số lượng lớn hệ thống đình, đền, miếu (đối với người Kinh), đền, tháp (của người Chăm)… chưa được thống kê đầy đủ. Có thể thấy, đình làng gắn với văn hóa Việt Nam từ ngàn đời, trước đây hầu như làng quê nào của người Kinh cũng có đình hoặc đền, có nơi có cả đình và đền.

 

Khác với các thiết chế văn hóa hiện đại, đa số các thiết chế văn hóa truyền thống của người Kinh và của các dân tộc thiểu số đều gắn với đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng… Không chỉ thuần túy là nơi sinh hoạt cộng đồng, hệ thống các thiết chế văn hóa truyền thống còn là nơi có vị trí đặc biệt trong sáng tạo, thực hành và trao truyền văn hóa từ đời này sang đời khác. Đó là nơi để cộng đồng cùng thực hành tín ngưỡng, cùng diễn xướng… trong những dịp lễ Thành hoàng, cúng thần, cúng giàng, nơi gặp nhau họp bàn việc làng/buôn… Dấu ấn văn hóa, lịch sử của thiết chế văn hóa truyền thống còn được thể hiện qua vật liệu, phong cách kiến trúc và hoa văn chạm khắc… của các công trình này. Trải qua thời gian, những thiết chế văn hóa này đã trở thành di sản, biểu tượng văn hóa, thể hiện bản sắc văn hóa, là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh của một cộng đồng, một vùng miền như: Đình, đền, chùa của người Kinh; nhà Rông của người Xơđăng, Bana, nhà Gươl của người Cơtu, chùa của người Khmer...

 

Thực tiễn cho thấy, từ xưa đến nay, các thiết chế văn hóa truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc định hình bản sắc văn hóa và tạo ra môi trường sống phong phú cho cộng đồng góp phần  xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam, đó là:

Một là, gìn giữ bản sắc văn hóa. Thiết chế văn hóa, đặc biệt là các thiết chế văn hóa truyền thống, là nơi bảo tồn các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, từ đó góp phần xây dựng, bảo vệ, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa, các di sản văn hóa, đề cao văn hóa của từng tộc người và trao truyền cho các thế hệ sau.

 

Hai là, giáo dục, truyền bá văn hóa và nâng cao nhận thức. Các thiết chế văn hóa là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động giáo dục, truyền bá giá trị văn hóa cho thế hệ trẻ, giúp họ hiểu và tự hào về nguồn cội; góp phần giáo dục cộng đồng về văn hóa, nghệ thuật và lịch sử, nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống của Nhân dân.

 

Ba là, gắn kết cộng đồng, tăng cường tính kết nối và giao lưu. Các hoạt động văn hóa diễn ra tại các thiết chế văn hóa tạo điều kiện cho người dân gặp gỡ, giao lưu và kết nối với nhau; từ đó, xây dựng tình đoàn kết và sự gắn bó trong cộng đồng. Người dân trong cộng đồng cùng nhau tham gia vào các hoạt động ở đình, đền, chùa, nhà rông, nhà gươi… vào các dịp lễ, tiết, cùng chung một vị thần để thờ cúng, cùng tham gia vào các trò chơi dân gian như bịt mắt bắt dê, leo cột mỡ, đi cầu kiều, đấu võ, vật cầu… Do đó, các thiết chế văn hóa truyền thống được coi là nơi “cộng mệnh, cộng cảm” của cộng đồng cư dân, là nơi gắn kết, phát huy tinh thần đoàn kết của Nhân dân, tăng tình làng nghĩa xóm, tình yêu quê hương, đất nước.

 

Bốn là, khuyến khích du lịch văn hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Các lễ hội, sự kiện văn hóa được tổ chức tại những thiết chế văn hóa truyền thống có thể thu hút đông đảo khách du lịch, tạo cơ hội cho các hoạt động kinh doanh, phát triển kinh tế và hạ tầng văn hóa ở địa phương.

 

Năm là, thực hành nghệ thuật, thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới. Thiết chế văn hóa truyền thống cũng là nơi để các nghệ nhân thể hiện và phát huy nghệ thuật truyền thống của dân tộc với các trò diễn dân gian (trò “con đĩ đánh bồng” trong các lễ hội truyền thống, trò “đánh hổ” trong hội làng La…), các điệu múa dân gian (xòe của người Thái, xoang của người Bana…), làn điệu dân ca (sli, lượn của người Tày, Nùng…), hay trình diễn các nhạc cụ và âm nhạc dân gian v.v.. tạo ra không gian cho sự sáng tạo, khuyến khích nghệ thuật và ý tưởng mới, làm phong phú thêm đời sống văn hóa.

Sáu là, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng. Các thiết chế văn hóa phục vụ đa dạng đối tượng và sở thích, từ nghệ thuật đến văn hóa truyền thống.

 

Thiết chế văn hóa truyền thống không chỉ là những điểm đến của cộng đồng mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa, góp phần hình thành bản sắc và sự đoàn kết trong cộng đồng, đồng thời tạo ra môi trường văn hóa độc đáo và phong phú. Chúng còn phản ánh sự phát triển của xã hội, giúp kết nối các thế hệ, các nền văn hóa khác nhau, đồng thời góp phần khẳng định bản sắc văn hóa, tạo sự khác biệt của cộng đồng quốc gia dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Chúng tạo ra những cơ hội mới cho sự giao lưu và hợp tác, đồng thời đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của xã hội hiện đại.

 

 

4. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống

 

Thực tế cho thấy, các thiết chế văn hóa đã gắn bó với đời sống văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân cư Việt Nam từ rất sớm. Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của hệ thống thiết chế văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm, ưu tiên dành những nguồn lực cần thiết để xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (ngày 16-7-1998) đã đề ra nhiệm vụ: Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật; xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở[7]. Tại Đại hội XIII, Đảng đã đặt ra mục tiêu: Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc “Đổi mới, hoàn thiện các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm hiệu quả”[8].

 

Trong phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, xây dựng các thiết chế văn hóa tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp văn hóa và hội nhập quốc tế trên cơ sở xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư[9]. Qua đó, vai trò và tầm quan trọng của hệ thống thiết chế văn hóa ngày càng được khẳng định và là một trong 19 tiêu chí xét và công nhận “xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”[10].

 

Tuy nhiên, khi nói đến việc xây dựng và phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa hiện mới chỉ đề cập đến các thiết chế văn hóa hiện đại, chưa đề cập đến việc phát huy vai trò và giá trị của các thiết chế văn hóa truyền thống. Chức năng và vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống và thiết chế văn hóa hiện đại không hoàn toàn giống nhau. Nhà văn hóa thôn/làng là nơi tập thể dục, họp hành, sinh hoạt văn hóa của thôn/làng, thuần túy có chức năng hành chính. Ở vùng đồng bằng, nhà văn hóa thôn/làng được xây dựng và vận hành riêng biệt với các thiết chế văn hóa truyền thống mang tính tâm linh như: Đình, đền, chùa… Ở vùng Tây Nguyên và một số địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhà văn hóa, bên cạnh chức năng hành chính, còn được gán cho cả chức năng tâm linh, ví dụ như nhà Rông. Những ngôi nhà này không thu hút được cộng đồng, không phát huy tốt vai trò của thiết chế văn hóa cả truyền thống lẫn hiện đại.

 

Những năm gần đây, một số địa phương đã chủ động phát huy vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống, như: Tỉnh Quảng Nam có chủ trương khôi phục nhà truyền thống của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh từ năm 2000, trong đó có nhà Gươl của người Cơtu; tỉnh Bắc Ninh khi thực hiện bảo vệ và phát huy di sản dân ca quan họ đã tiến hành phục dựng Nhà chứa Quan họ (là một thiết chế văn hóa truyền thống của người quan họ) tại những làng quan họ cổ[11]. Đến nay, các thiết chế này đã phát huy tốt vai trò trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa địa phương cũng như quảng bá, trao truyền cho các thế hệ sau.

 

Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của con người không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Bên cạnh đó là những tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, giao lưu và ảnh hưởng văn hóa. Thiết chế văn hóa truyền thống ở Việt Nam đang đứng trước một số vấn đề như:

 

Một là, thiếu sự phối hợp giữa các cấp: Việc liên kết giữa các thiết chế văn hóa, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội và người dân chưa chặt chẽ, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong quản lý và phát huy giá trị văn hóa.

 

Hai là, thiếu nguồn lực: Đầu tư cho các thiết chế văn hóa truyền thống còn hạn chế, dẫn đến tình trạng xuống cấp, hư hỏng. Điều này dẫn đến sự suy giảm sức hút của các thiết chế văn hóa truyền thống đối với người dân.

 

Ba là, áp lực từ đô thị hóa và công nghiệp hóa: Sự phát triển đô thị nhanh chóng và quá trình công nghiệp hóa đã dẫn đến tình trạng xói mòn bản sắc văn hóa truyền thống. Các thiết chế văn hóa truyền thống gặp khó khăn trong việc duy trì vai trò của mình trong bối cảnh thay đổi này.

 

Bốn là, biến đổi văn hóa:  Một số lễ hội truyền thống và phong tục tập quán đang bị mai một hoặc biến tướng do sự giao thoa văn hóa, sự hội nhập với các yếu tố văn hóa khác, cũng như ảnh hưởng của lối sống hiện đại.

 

Năm là, khó khăn trong việc thu hút thế hệ trẻ: Sự phát triển của công nghệ thông tin và phương tiện truyền thông hiện đại đã thu hút sự chú ý của thanh thiếu niên, làm giảm sự quan tâm đến các hoạt động văn hóa truyền thống. Nhiều người trẻ không có hứng thú tham gia vào các hoạt động tại thiết chế văn hóa truyền thống.

 

Sáu là, ý thức cộng đồng: Mặc dù nhiều người dân ý thức được vai trò quan trọng của thiết chế văn hóa truyền thống, nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đủ quan tâm hoặc tham gia tích cực vào các hoạt động này.

 

Bẩy là, suy giảm hoạt động: Nhiều thiết chế văn hóa truyền thống như câu lạc bộ nghệ thuật, hay các lò truyền nghề đang gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động do thiếu kinh phí, nhân lực, và sự quan tâm của cộng đồng.

 

Tám là, chưa phát huy hiệu quả tiềm năng du lịch: Mặc dù có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa dựa trên các thiết chế văn hóa truyền thống, nhưng việc khai thác còn hạn chế, nhiều điểm đến không được đầu tư đúng mức.

 

Trong bối cảnh đó, để phát huy hơn nữa vai trò của các thiết chế văn hóa truyền thống cần thực hiện thống nhất, đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

 

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về tôn tạo, xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa truyền thống từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, cần nhìn nhận đúng hơn vai trò của thiết chế văn hóa truyền thống trong hệ thống các thiết chế văn hóa chứ không chỉ là “di sản văn hóa cần bảo tồn và phát huy”.

 

Thứ hai, đầu tư cơ sở hạ tầng, bảo tồn và phát triển thiết chế văn hóa truyền thống như: Nhà thờ, đình, đền, chùa và các thiết chế văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động văn hóa truyền thống.

 

Hỗ trợ kinh phí, kỹ thuật và nhân lực để bảo trì hạ tầng cơ sở và các giá trị văn hóa. Cần có nghiên cứu, quy hoạch, và phục dựng các thiết chế văn hóa truyền thống phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng và văn hóa của cộng đồng cư dân bản địa. Tránh tình trạng xây dựng theo một mô hình chung giống nhau cho tất cả các cộng đồng dân cư ở miền núi, đồng bằng, miền biển, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vì mỗi cộng đồng dân cư có nếp sống, phong tục, tập quán khác nhau.

 

Thứ ba, tăng cường nhận thức, tuyên truyền giáo dục. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xây dựng các chương trình giáo dục để người dân và đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu rõ vai trò và giá trị của các thiết chế văn hóa truyền thống trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, cũng như ý thức xây dựng và bảo vệ các thiết chế văn hóa truyền thống.

 

Thứ , đào tạo nguồn nhân lực. Đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa có trình độ chuyên môn cao, nhiệt huyết để thực hiện các kế hoạch phát triển văn hóa có hiệu quả.

 

Thứ năm, tổ chức sự kiện văn hóa truyền thống, khuyến khích sự sáng tạo, tạo ra không gian sinh hoạt văn hóa. Thường xuyên tổ chức các sự kiện, festival, chương trình văn nghệ, triển lãm… nhất là các sự kiện, lễ hội truyền thống để thúc đẩy lòng tự hào về bản sắc văn hóa Việt Nam, tạo không khí văn hóa sôi nổi và thu hút sự tham gia của cộng đồng.

Thiết lập, xây dựng và quảng bá các chương trình, không gian sinh hoạt văn hóa tạo điều kiện cho người dân có thể giao lưu, học hỏi, trải nghiệm và sáng tạo văn hóa, duy trì sự cố kết cộng đồng.

 

Thứ sáu, khuyến khích sự tham gia của đông đảo người dân vào các hoạt động văn hóa truyền thống. Tạo điều kiện cho người dân tham gia vào các hoạt động văn hóa, từ đó phát huy tài năng, sở thích cá nhân và xây dựng cộng đồng văn hóa. Điều này cũng giúp mối quan hệ giữa cộng đồng và thiết chế văn hóa truyền thống, giữa các cá nhân trong cộng đồng và khu vực ngày càng gắn kết với nhau chặt chẽ hơn.

 

Tóm lại, thiết chế văn hóa truyền thống không đơn thuần là cơ sở vật chất, trang thiết bị, mà còn là nơi để Nhân dân sáng tạo, thụ hưởng và trao truyền các giá trị văn hóa, là nơi bảo tồn và phát huy văn hóa, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa các thế hệ và các cộng đồng. Hơn hết, đó là nơi tăng cường sức mạnh, sự cố kết cộng đồng dân cư và cao hơn là cộng đồng quốc gia dân tộc. Phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện nay là góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa./.

 

TS. Vũ Tú Quyên[1]

 



[1] Hội đòng Lý luận Trung ương.

[2] Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, t.4, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005, tr.230.

[3] Xem: Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày 11-11-2013 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030, Điều 1.

[4] Xem: Hoàn thiện hệ thống luật pháp, thúc đẩy sự nghiệp phát triển nền văn hóa, thể thao trong giai đoạn mới, https://daibieunhandan.vn, ngày 12-5-2024.

[5] Xem: Cục Văn hóa cơ sở, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao các cấp, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “50 năm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Hội đồng Lý luận Trung ương và Thành ủy Hà Nội tổ chức, Hà Nội, 2024, tr.474-485..

[6] Xem: Thiện Minh, “Có bao nhiêu ngôi chùa ở Việt Nam?”, Có bao nhiêu ngôi chùa ở Việt Nam? (phatgiao.org.vn)

[7] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.59-60.

[8] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.61-62.

Xem: Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, https://moit.gov.vn, ngày 24-11-2021. 

[10] Xem: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tư số 17/2011/TT-BVHTTDL ngày 2-12-2011 quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục và công nhận “xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”.

[11] Xem: Thanh Thương, Nhà chứa Quan họ: Không gian sinh hoạt văn hóa độc đáo, https://dangcongsan.vn, ngày 17-2-2018.

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết