Chủ Nhật, ngày 08 tháng 09 năm 2024

Phát triển giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng ​

Ngày phát hành: 06/10/2023 Lượt xem 2137


 

1. Đặt vấn đề

Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam. Nhiều công trình khoa học đã khẳng định giá trị to lớn về hiệu quả giáo dục trong giai đoạn “1.000 ngày đầu đời”, cho rằng lợi ích của giáo dục mầm non có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần của trẻ em trong các giai đoạn tiếp theo của cuộc đời. Chính vì vậy, giáo dục mầm non cho trẻ em giai đoạn 0 đến 6 tuổi giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ trong tương lai và được coi là “Giai đoạn vàng”, “Thời kỳ vàng” đối với phát triển của con người, tạo nền móng cho sự phát triển của trẻ em trong tương lai. Trẻ em được tiếp cận với giáo dục mầm non càng sớm, càng thúc đẩy quá trình học tập và phát triển của trẻ ở các cấp học tiếp theo. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non có mục tiêu phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp 1, đồng thời giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên tính cách, đặc biệt là sự phát triển của chính bản thân mỗi con người sau này.

 

Nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục mầm non đối với phát triển kinh tế-xã hội, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước và triển khai thực hiện chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu, trong nhiều năm qua, giáo dục mầm non đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Giáo dục mầm non đã hoàn thành một số mục tiêu của Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020: hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2017; đến năm 2020, có 80% trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm xuống dưới 10%; quy mô, mạng lưới trường, lớp mầm non được mở rộng, giáo dục mầm non công lập cơ bản phù hợp với tình hình địa phương, giáo dục mầm non ngoài công lập được tạo điều kiện phát triển góp phần đa dạng hóa các loại hình trường, lớp; giáo dục mầm non vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo, ven biển được quan tâm với nhiều chính sách hỗ trợ cho trẻ em mẫu giáo; trẻ em vùng dân tộc thiểu số được tăng cường tiếng Việt; tỷ lệ huy động trẻ đến trường tăng dần, góp phần tăng tỷ trẻ em được chăm sóc, giáo dục 2 buổi/ngày; nhiều chính sách hỗ trợ cho giáo viên mầm non góp phần ổn định đời sống, hỗ trợ, giúp giáo viên yên tâm công tác, gắn bó với nghề.

 

2. Một số kết quả đạt được của giáo dục mầm non thời gian qua

Trong những năm qua, giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những thuận lợi, khó khăn đan xen, trong đó xuất hiện nhiều diễn biến mới, phức tạp, khó lường; khó khăn, thách thức gay gắt, nặng nề hơn so với dự báo. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi về chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, cả nước vẫn phải tiếp tục đối diện với những khó khăn kép do hậu quả của đại dịch Covid-19 và những ảnh hưởng tiêu cực của tình hình thế giới, khu vực. Đến nay, năm học 2022-2023, cho thấy giáo dục mầm non đã được phục hồi một cách bình thường sau đại dịch Covid-19. Đây là điều đáng ghi nhận nhất, khi vừa phải tiếp tục khắc phục những tác động, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, vừa phải củng cố, nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục.

 

Nhìn nhận qua 10 năm triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đối với lĩnh vực giáo dục mầm non cho thấy, cấp học mầm non đã hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra: Hằng năm, có trên 5 triệu trẻ em tại cơ sở giáo dục mầm non được đảm bảo an toàn, chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ được nâng cao, trẻ em mẫu giáo 5 tuổi được chuẩn bị các điều kiện sẵn sàng vào lớp 1 bằng nhiều giải pháp cụ thể, thiết thực; chế độ, chính sách cho trẻ em được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tỉ lệ trẻ em nhà trẻ được học 2 buổi/ngày đạt 99.6%, tỉ lệ trẻ em nhà trẻ được tổ chức ăn bán trú đạt đạt 97.8%; Trẻ mẫu giáo được học 2 buổi/ngày đạt 99%, tỉ lệ trẻ mẫu giáo được tổ chức ăn bán trú đạt 94.1%. Trẻ em đến trường được cân, đo, kiểm tra sức khỏe và đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng biểu đồ tăng trưởng theo quy định; Tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở hầu hết các độ tuổi đáp ứng mục tiêu Quyết định số 1677/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ cụ thể: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở nhà trẻ còn 1,6%, mẫu giáo 1,4%; Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở nhà trẻ 2,4% và mẫu giáo 1,8%. Tỷ lệ trẻ nhà trẻ thừa cân, béo phì là 1,0% và mẫu giáo 2,5%. Chương trình được triển khai thực hiện ở 100% cơ sở giáo dục mầm non với định hướng phù hợp với khả năng, nhu cầu của trẻ em mầm non, điều kiện của nhà trường và văn hoá địa phương; các cơ sở giáo dục mầm non đã chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ được cải thiện, đảm bảo quyền trẻ em

Cụ thể, tính đến hết năm học 2022 - 2023, cả nước có 15.334 cơ sở giáo dục mầm non[3], 19.398 điểm trường lẻ[4]. Sĩ số trẻ/nhóm lớp đều tăng so với năm học trước (trẻ nhà trẻ bình quân 20,2 trẻ/nhóm, tăng 1,6 trẻ; mẫu giáo 26,9 trẻ/lớp, tăng 0,8 trẻ)[5]. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 56,9% (tăng 5,5% so với năm học 2021 - 2022). Tỷ lệ huy động trẻ mầm non đến trường đạt 70,4% (tăng 4,6% so với năm học trước), trong đó, tỷ lệ huy động nhà trẻ đạt 32,1% (tăng 3,8%); tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo đạt 93,1% (tăng 3,7%); tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường duy trì 99,7%. Tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,97; tỷ lệ kiên cố hóa đạt 79,5%; sỹ số học sinh trung bình/lớp là 25,47 học sinh mầm non.

Việc quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non ở khu công nghiệp, khu chế xuất đáp ứng nhu cầu của công nhân, người lao động được quan tâm, một số địa phương đã đầu tư xây dựng các trường mầm non công lập trên địa bàn khu công nghiệp; một số doanh nghiệp đã xây dựng trường mầm non hoạt động theo hình thức phi lợi nhuận, gắn với khu nhà ở tại các khu công nghiệp, khu chế xuất phục vụ con công nhân lao động...

 

Đội ngũ giáo viên mầm non phát triển về số lượng, từng bước khắc phục những bất cập về cơ cấu. Theo thống kê sơ bộ trên cơ sở dữ liệu ngành, tổng số giáo viên mầm non, phổ thông là 1.234.124 người (tăng 71.927 người so với năm học 2021-2022, trong đó công lập chiếm 88,57%, ngoài công lập chiếm 11,43%); 100.135 cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông (công lập chiếm 90,4%). Các địa phương trong cả nước tích cực triển khai công tác tuyển dụng giáo viên theo chỉ tiêu biên chế được giao; quan tâm, chăm lo, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; bố trí, sử dụng đội ngũ theo khung năng lực vị trí việc làm, chuyên môn đào tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; thực hiện các chế độ, chính sách cho đội ngũ theo quy định chung và tham mưu ban hành các chính sách đặc thù của địa phương nhằm động viên, thu hút đội ngũ yên tâm công tác. Thực hiện việc nâng chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo theo Luật Giáo dục 2019, các địa phương đã và đang phối hợp với các cơ sở đào tạo giáo viên để thực hiện nâng chuẩn trình độ đào tạo giáo viên theo lộ trình. Tỷ lệ đạt chuẩn được đào tạo theo Luật Giáo dục 2019 của cấp mầm non hiện nay là 86,3%. Năng lực sư phạm của phần lớn giáo viên được nâng lên, bước đầu đáp ứng được yêu cầu cơ bản về đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục mầm non có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, cơ bản đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo, quản lý ở các cơ sở giáo dục và các cơ quan quản lý giáo dục. Công tác đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý được các địa phương quan tâm thực hiện; thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý tham gia học tập chuyên môn, nghiệp vụ và lý luân chính trị; tham gia đào tạo nâng chuẩn trình độ; đồng thời thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu để đảm bảo đủ về cơ cấu, số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ; gắn với yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non.

 

 

Bên cạnh đó, để hỗ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, nhiều chính sách của Nhà nước được ban hành đã có tác động tích cực, động viên đội ngũ giáo viên mầm nôn yên tâm công tác, như Quyết định số 1609/QĐ-TTg về Chương trình phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn giai đoạn 2022-2030”; Nghị định số 105/2020/NĐ-CP của Chính phủ “Quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non”..[6]. Đến nay, toàn quốc có 56 tỉnh/thành phố ban hành nghị quyết hội đồng nhân dân quy định chi tiết chính sách đối với giáo dục mầm non của tỉnh/thành phố[7]. Đặc biệt, một số tỉnh/thành phố đã ban hành đầy đủ văn bản với các nhóm chính sách theo quy định tại Nghị định số 105/NĐ-CP và có mức hỗ trợ cao hơn mức quy định hoặc mở rộng đối tượng được hưởng chính sách[8], các địa phương đã thực hiện chính sách hỗ trợ đối với cơ sở giáo dục mầm non, trẻ em là con công nhân, giáo viên dạy lớp có trẻ em là con công nhân khu công nghiệp kịp thời theo quy định. Các địa phương đã tích cực triển khai hiệu quả Chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm giai đoạn 2021 - 2025” trong đó tập trung xây dựng môi trường xanh - an toàn - thân thiện và đổi mới phương pháp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm. Đồng thời, quan tâm tiếp tục triển khai Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025”[9] góp phần đổi mới hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non theo quan điểm giáo dục toàn diện, tích hợp, lấy trẻ làm trung tâm. Một số tỉnh/thành phố đã đẩy mạnh chính sách khuyến khích xã hội hoá giáo dục để thúc đẩy phát triển giáo dục mầm non ngoài công lập như: hỗ trợ 100% chi phí giải phóng mặt bằng trong ranh giới thực hiện dự án theo quy hoạch được duyệt, hỗ trợ tín dụng, cho thuê đất đã giải phóng mặt bằng để xây dựng trường mầm non, miễn thuế thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án, tạo môi trường thông thoáng để các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục mầm non[10].

 

Tuy nhiên, việc phát triển giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục vẫn còn gặp nhiều khó khăn, như (1). Công tác quy hoạch, đầu tư phát triển giáo dục mầm non tại nhiều địa phương chưa theo kịp nhu cầu phát triển và nhu cầu đưa trẻ đến trường của người dân; (2). Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ, trẻ mẫu giáo còn rất thấp, trong đó có một số tỉnh thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước[11], còn khoảng gần 500.000 trẻ em mẫu giáo 3-4 tuổi chưa được đến trường, chủ yếu ở vùng khó khăn, vùng núi cao, vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long; còn gần 800.000 trẻ em mầm non người dân tộc thiểu số chưa được tới trường, chưa được tiếp cận với giáo dục mầm non; (3). Còn có sự chênh lệch về cơ hội tiếp cận giáo dục và điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non giữa các địa phương và giữa các đối tượng; (4). Việc đảm bảo các quy chuẩn về đội ngũ, cơ sở vật chất, trường lớp để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em mầm non chưa đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ phòng học kiên cố cấp học mầm non bình quân cả nước mới đạt 82,2%, một số các địa phương có tỷ lệ kiên cố hóa dưới 40%[12], tỷ lệ giáo viên mầm non/lớp của toàn quốc đạt trung bình 1,86; trong đó có một số ít tỉnh đạt trên 2,0 giáo viên/lớp[13], còn nhiều địa phương mới chỉ đạt 1,5 giáo viên/lớp. Tỷ lệ thiết bị dạy học tối thiểu đáp ứng nhu cầu dạy học còn thấp, trung bình cả nước chỉ đáp ứng 47,9%; (5). Đại dịch Covid-19 bùng phát nhiều lần trong thời gian qua đã tác động nghiêm trọng đến giáo dục mầm non, trong đó trẻ nhà trẻ, mẫu giáo là những đối tượng chịu thiệt thòi, phần lớn thời gian trẻ không được đến trường, không có điều kiện giao tiếp, vận động, sinh hoạt theo yêu cầu phát triển của độ tuổi, chưa đủ điều kiện về thể chất để được tiêm phòng vắc xin đã ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non và việc chuẩn bị cho trẻ em 5 tuổi sẵn sàng vào lớp 1. Một số trẻ em thuộc hộ nghèo, trẻ dân tộc thiểu số (không được ăn trưa tại trường), trẻ khuyết tật học hòa nhập, trẻ em là con công nhân mất việc làm…có nguy cơ chậm phát triển. Cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập trong thời gian dài không có doanh thu, đời sống giáo viên hết sức khó khăn, nhiều giáo viên mầm non sau một thời gian nghỉ dịch đã bỏ nghề, chuyển sang các công việc khác.

 

 

Đặc biệt, việc sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập, tinh giản biên chế gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đang là một thách thức rất lớn đối với ngành giáo dục nói chung trong đó có giáo dục mầm non[14]. Tại nhiều địa phương, biên chế sự nghiệp giáo dục được giao bổ sung không đáp ứng được nhu cầu dạy học trong các cơ sở giáo dục. Tỷ lệ giáo viên/lớp ở các cơ sở giáo dục mầm non (chỉ tính giáo viên trong biên chế) còn thấp hơn so với quy định[15]. Tình trạng thiếu giáo viên mầm non đang diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương. Theo thống kê sơ bộ trên cơ sở dữ liệu ngành, hiện nay cả nước còn thiếu 118.253 giáo viên (mặc dù tăng thêm 11.308 người thiếu so với năm học 2021-2022: mầm non tăng 7.887 người; trong khi toàn quốc có hơn 19.300 giáo viên công lập nghỉ hưu và nghỉ việc (gồm 10.094 giáo viên nghỉ hưu và 9.295 giáo viên nghỉ việc[16]. Chất lượng giáo viên mầm non không đồng đều. Năng lực áp dụng các kỹ thuật và phương pháp giáo dục mới của một bộ phận đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non còn hạn chế. Chưa có nhiều giải pháp để thu hút và giữ chân đội ngũ giáo viên tại cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục ở địa bàn có khu công nghiệp, cụm công nghiệp, để đáp ứng được thù lao, công sức và sự vất vả của giáo viên mầm non. Việc thực hiện đào tạo nâng chuẩn ở các địa phương chưa đồng đều, một số nơi tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo theo Luật Giáo dục 2019 còn thấp (giáo viên mầm non cả nước đạt chuẩn trình độ đào tạo cao đẳng sư phạm là 87,3%; trên chuẩn đạt 65,1%; giáo viên chưa đạt chuẩn về trình độ đào tạo còn 12,7%; trong đó vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ đạt chuẩn của giáo viên là 75,4%). Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục mầm non không đồng đều, đặc biệt là ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, còn khoảng cách lớn so với các vùng thuận lợi.

 

Ví dụ như: chính sách tiền lương, tiền công của giáo viên mầm non chưa được quan tâm, đảm bảo, lương còn thấp, chưa tương xứng với công sức và cường độ lao động, còn có các rào cản khiến giáo viên mầm non khó tiếp cận với tuyển dụng vào ngành; bảng lương hiện hành không tạo động lực cho giáo viên yên tâm với nghề; giáo viên phải làm thêm giờ (đón trẻ sớm, trông trẻ trưa, trả trẻ muộn, dạy thay...); một số giáo viên dạy lớp ghép, dạy tăng cường tiếng Việt mặc dù đã được hỗ trợ, nhưng mức hỗ trợ còn thấp; thiếu nhà công vụ cho giáo viên cắm bản tại các điểm trường…dẫn đến nhiều giáo viên chuyển việc, nghỉ việc, phải làm thêm để có thêm thu nhập. Chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm mới chỉ hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt, đã làm giảm sức hút đối với học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông lựa chọn ngành học mầm non, từ đó dẫn đến nguồn tuyển giáo viên mầm non ở nhiều địa phương đều thiếu.

 

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên chủ yếu là do xuất phát điểm của giáo dục mầm non khá thấp so với các bậc học khác, một thời kỳ dài đất nước khó khăn về kinh tế, giáo dục mầm non không thuộc đối tượng ưu tiên, chưa được xem xét đầu tư đúng mức. Trong nhiều năm qua, cơ sở vật chất, thiết bị đã được chính phủ và các địa phương quan tâm đầu tư, tuy nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu; đặc biệt nhiều địa phương trong cả nước bị ảnh hưởng lớn của dịch bệnh Covid-19, dẫn đến nhiều cơ sở giáo dục mầm non bị giải thể và dừng hoạt động. Ngoài ra, nhận thức của một bộ phận xã hội về vị trí vai trò của giáo dục mầm non về sự cần thiết đưa trẻ em mầm non đến trường để tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non còn hạn chế.

 

3. Bối cảnh phát triển giáo dục trong tình hình mới

Chúng ta đang sống trong thời đại Cách mạng mềm - cuộc cách mạng tri thức, ta thường gọi là cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là cuộc cách mạng năng suất mới nhờ vào sự bùng nổ của Công nghệ thông tin, ở đó vạn vật kết nối, con người, máy móc và sản phẩm tự kết nối thông qua hệ thống Internet, trí tuệ nhân tạo. Cuộc cách mạng này diễn ra hết sức nhanh chóng, mau lẹ, khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ quốc gia giàu hay nghèo vì đây là sản phẩm của khoa học công nghệ có tính mở cao, mang tính tất yếu và không bị tác động bởi bất cứ sự áp đặt nào. Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mãnh mẽ đến sự phát triển đất nước, đến mọi khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội và thậm chí đến từng con người, bất kể họ đang sống ở đâu. Trong làn sóng công nghiệp hóa mới, hệ thống giáo dục phải tập trung phát triển phẩm chất và năng lực của người học bằng cách định hướng những con đường phù hợp nhất cho người học để giúp họ phát huy tiềm năng của mỗi cá nhân. Điều này nên được áp dụng ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, đề cao các giá trị đạo đức của con người lương thiện. Thực hiện giáo dục theo phương châm học tập suốt đời và lấy người học làm trung tâm. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất, tư duy sáng tạo của người học. Giáo dục là vì con người và hạnh phúc của con người.

 

4. Phương hướng, quan điểm phát triển giáo dục mầm non trong tình hình mới

4.1. Phương hướng

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương vô hạn cho các cháu thiếu niên và nhi đồng, Người khẳng định “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”. Theo Người, trẻ em cần phải được chăm sóc và giáo dục thật tốt về mọi mặt: sức khoẻ, học tập, vui chơi, giải trí và hoạt động đoàn thể để trở thành công dân có ích, gánh vác sứ mệnh đất nước sau này.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội”; “Phấn đấu duy trì chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm cao của thế giới (trên 0,7)”; “Tăng cường giáo dục, kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em. Tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi. Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em. Giảm tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 18,5%, dưới 1 tuổi xuống còn 12,5%. Thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm xuống 20%[17], được coi là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng, vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước.

 

Để thực hiện sứ mạng kỳ vọng của giáo dục, hoàn thành nhiệm vụ đặt nền móng phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu, động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước, điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc phát triển giáo dục mầm non trong tình hình mới là vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của xã hội, là nhu cầu, nguyện vọng của mỗi gia đình, cộng đồng và địa phương.

 

4.2. Quan điểm

Tiếp tục triển khai, thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và các văn bản của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về các mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức trách nhiệm cao với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc.

 

Đổi mới giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu mới, phù hợp với xu thế phát triển giáo dục mầm non của thế giới cần chú trọng phát triển theo hướng “chất lượng”, đặt chất lượng là trung tâm của quá trình phát triển với trọng tâm là hình thành hình thành nhân cách, kỹ năng sống và năng lực cho trẻ em; giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, mở rộng khả năng tiếp cận, cải thiện chất lượng chăm sóc, giáo dục cho trẻ em ở các lứa tuổi; chuẩn bị tốt nhất cho trẻ em 5 tuổi ở mọi vùng miền, đặc biệt là trẻ em vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo sẵn sàng vào tiểu học, góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục, liên thông với giáo dục phổ thông; đồng thời đề cao vai trò, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội và bản thân trẻ em trong quá trình giáo dục hình thành nhân cách, phẩm chất và năng lực cho trẻ em ngay từ cái nôi sinh ra và trưởng thành. Tăng cơ hội tiếp cận giáo dục mầm non có chất lượng cho trẻ em mầm non; đổi mới chương trình giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực dựa trên trục tình cảm- xã hội phù hợp với tâm sinh lý độ tuổi, phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, trí tuệ, thẩm mỹ, đặt nền móng để hình thành những giá trị cốt lõi của con người Việt Nam; đẩy mạnh giáo dục hoà nhập, quan tâm đối tượng yếu thế; ưu tiên đầu tư, hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn, khu công nghiệp, khu chế xuất, nơi tập trung đông dân cư

 

4.3. Mục tiêu

- Mục tiêu chung: Tiếp tục củng cố, phát triển mạng lưới trường, lớp mầm non đáp ứng nhu cầu đến trường của trẻ em, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục để trẻ em mầm non phát triển toàn diện tiếp cận theo phẩm chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục lòng biết ơn, tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc. Nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo hướng đạt chuẩn chất lượng giáo dục mầm non trong khu vực và quốc tế. Từng bước triển khai phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo, chuẩn bị tốt cho trẻ em vào học lớp một, phát triển giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi.

 

- Chỉ tiêu cụ thể: Phấn đấu 70% số tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo vào năm 2025 và 100% số tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo vào năm 2030; tỉ lệ huy động trẻ trong độ tuổi nhà trẻ đến cơ sở giáo dục mầm non hàng năm tăng từ 1% trở lên.

 

Đến năm 2030 có 99,5% nhóm, lớp mầm non được học 2 buổi/ngày; 60% trường đạt chuẩn quốc gia; các cơ sở giáo dục mầm non đủ giáo viên theo quy định, 100% giáo viên đáp ứng chuẩn đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục 2019.

 

Phấn đấu đến năm 2025, số cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập đạt 25% với số trẻ em theo học đạt 30%; đến 2030 tỷ lệ tương ứng mầm non đạt 30% và 35%; chất lượng chăm sóc, giáo dục được nâng cao, đảm bảo cho trẻ em có được nền tảng ban đầu của những phẩm chất và kỹ năng sống cơ bản; củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.

 

TS. Lê Thị Mai Hoa[1]; TS. Nguyễn Ngọc Linh[2]
 

[1] Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên Giáo Trung ương.

[2] Chuyên viên chính, Vụ Giáo dục, Ban Tuyên Giáo Trung ương.

[3] Trong đó, có 3.224 trường mầm non ngoài công lập (chiếm tỷ lệ 21,1%), giảm 29 trường so với năm học 2021-2022.

[4] Giảm được 1.249 điểm trường so với năm học trước, trong đó ở một số tỉnh/thành phố có số điểm trưởng lẻ giảm nhiều: Kiên Giang: -231, Gia Lai: -136, Thanh Hóa, Quảng Trị -86, Bình Đinh: -62, Hưng Yên: -61, Khánh Hòa: -58, Hà Nội, Sóc Trăng: -56, Bến Tre: -55, ....

[5] Một số địa phương có sĩ số bình quân trẻ nhà trẻ/nhóm còn rất cao như Lai Châu: 30,1 trẻ; Đồng Tháp: 29,2 trẻ; Lào Cai: 28,5 trẻ; Sỹ số bình quân trẻ mẫu giáo/lớp cao như Khánh Hòa: 38,4 trẻ; Gia Lai: 31,4 trẻ; Tiền Giang: 31,3 trẻ; Bến Tre: 30,9 trẻ; Lâm Đồng: 30,6 trẻ và Thái Bình: 30,3 trẻ.

[6] Nghị quyết số 103/NQ-CP, ngày 11/8/2022; Quyết định số 24//2022/QĐ-TTg, ngày 29/11/2022 quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học ngoài công lập gặp khó khăn do đại dịch Covid-19;

[7]Có 49 tỉnh/thành phố ban hành nghị quyết hội đồng nhân dân về chính sách đối với trẻ em con công nhân và giáo viên mầm non ở địa bàn có khu công nghiệp; 34 tỉnh/thành phố ban hành nghị quyết hội đồng nhân dân quy định danh mục các khoản thu, mức thu dịch vụ giáo dục mầm non ngoài học phí phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

[8] Lào Cai, Hòa Bình, Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Nam, Kon Tum, Bình Dương, Đồng Nai,…

[9] Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Điện Biên, Thái Nguyên, Lào Cai, Hải Dương, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Khánh Hoà, Bình Thuận, Đăk Nông, Kon Tum, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, Cà Mau, An Giang.

[10] Bắc Giang, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, …

[11] Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ: Cà Mau 6,0%; Trà Vinh: 7,1%; An Giang: 7,9%; Gia Lai: 9,1%; Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo: Cà Mau: 63,6%; Phú Yên: 65,2%; Ninh Thuận: 68,2%;....

[12] Cà Mau, Hậu Giang, Gia Lai.

[13] Lâm Đồng 2,32; Hà Nội 2,23; Hòa Bình; Phú Thọ 2,15; Thừa Thiên Huế 2,12; Lạng Sơn 2,06; Ninh Bình 2,05; Thái Nguyên 2,03.

[14] thực hiện chủ trương tinh giản 10% biên chế trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, hiện nay ở nhiều địa phương còn thực hiện một cách cơ học; một số địa phương không tuyển dụng mới giáo viên để thực hiện chủ trương tinh giản 10% biên chế…

[15] Cả nước tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 1,86, trong đó miền núi phía Bắc có tỷ lệ có tỷ lệ giáo viên mầm non/lớp là 1,6, thấp nhất cả nước.

[16] Trong năm học 2021-2022, cả nước có 16.265 giáo viên nghỉ việc, chuyển việc ra khỏi ngành giáo dục, trong đó, số giáo viên công lập nghỉ việc là 10.407 người, số giáo viên ngoài công lập nghỉ việc là 5.858 người.

[17] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quóc lần thứ XIII cúa Đảng, tập II, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, trang 128, 129, 139.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết