Thứ Bảy, ngày 27 tháng 07 năm 2024

Vai trò, vị thế của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua gần 40 năm đổi mới

Ngày phát hành: 27/09/2023 Lượt xem 2337

Bác Hồ với giới công thương năm 1946. Ảnh: VOV

 

1. Khái quát quan điểm của Đảng về sự hình thành, phát triển của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

 

Trước đổi mới, nhận thức chưa đầy đủ về nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng việc xác định chưa đúng vị trí của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã dẫn tới sự đồng nhất kinh tế tư nhân, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường với những điều kiện của bóc lột, do đó, các hoạt động kinh doanh đặc trưng trong kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường cũng như các chủ thể của hoạt động đó đã bị kỳ thị, trở thành đối tượng cần xóa bỏ càng nhanh càng tốt trong thực tiễn cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở nghiên cứu tổng kết lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội Đại hội VI của Đảng với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”[1], đã không những chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước là “chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết… nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa…chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”[2], từ đó bài học quan trọng là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan…Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao”[3].

Trên cơ sở đó, Đại hội VI đã “xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[4], trong đó, nhiệm vụ quan trọng về quan hệ sản xuất là phải: “Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa … Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác… Nhà nước cho phép những nhà tư sản nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và quản lý của họ để tổ chức sản xuất, kinh doanh trong một số ngành, nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết trong cả nước”[5]. Từ nhận thức: “Quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá” Đảng đã khẳng định: “Việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan”[6].

 

Nhận thức về tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã tạo cơ sở cho sự đổi mới từng bước nhận thức về kinh tế tư nhân trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kinh tế tư nhân là đơn vị kinh tế do những người có vốn, có tài sản lập ra, gồm các hộ cá thể, tiểu chủ, xí nghiệp tư bản sản xuất công nghiệp được sản xuất kinh doanh theo pháp luật[7]. Theo đó, sự hiện diện và hoạt động kinh doanh của các nhà tư sản dân tộc được chính thức thừa nhận với tư cách là tầng lớp xã hội mới[8], được đánh giá là “góp phần làm cho hoạt động kinh tế khởi sắc, sống động, bước đầu khai thác được nhiều tiềm năng…  là một nhân tố tích cực trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá”[9].

 

Việc triển khai thực hiện tinh thần của Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991): “Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định”[10] đã đặt ra yêu cầu: “Không có thái độ kỳ thị đối với các loại hình kinh tế tư doanh cá thể, tôn trọng lợi ích hợp pháp và địa vị xã hội bình đẳng của người chủ sở hữu tư nhân”[11], khuyến khích các chủ doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước thực hiện chế độ cổ phần với công nhân[12], “khuyến khích giới chủ doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật nhà nước, tạo thêm nhiều việc làm, làm giàu cho mình và cho Tổ quốc, có vị trí xứng đáng trong cộng đồng dân tộc”[13], theo đó, đã từng bước hình thành đội ngũ doanh nhân với tư cách là tầng lớp xã hội mới, chủ thể quan trọng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chuyển hóa kinh tế kế hoạch hóa mệnh lệnh sang kinh tế hàng hóa, phát triển kinh tế hàng hóa thành kinh tế thị trường nói riêng.

 

Thuật ngữ doanh nhân lần đầu được Đảng sử dụng trong Báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII Số 48/TLHN (1997), trong đó nhấn mạnh: “Mọi loại hình kinh doanh có lợi cho quốc kế dân sinh, mọi doanh nhân và nhà quản lý doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật và đối xử tốt với người lao động đều được Nhà nước và xã hội tôn vinh, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, được hưởng chính sách ưu đãi trong những lĩnh vực được khuyến khích”[14]. Kể từ đó đến nay, thuật ngữ doanh nhân ngày càng được sử dụng rộng rãi.

 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, số 14-NQ/TW, ngày 18 tháng 3 năm 2002 đã khẳng định phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó cần “tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam… Cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh nhân … kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước”[15]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX số 23-NQ/TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 khẳng định phải: “coi trọng vai trò của các doanh nhân trong phát triển kinh tế - xã hội”[16]. Ban Bí thư đã có ý kiến chỉ đạo Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam phải: “Xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, có nhận thức tư tưởng đúng đắn, có năng lực và đạo đức kinh doanh, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Nhà nước, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[17], từ đó phải “Tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích nhân dân tự đầu tư làm cho các doanh nhân thông thoáng về tư tưởng để đầu tư lớn … làm cho các doanh nhân yên tâm về tư tưởng đem hết sức mình phát triển sản xuất, kinh doanh”[18].

 

Báo cáo tóm tắt tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới trình Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX khẳng định: “Cơ cấu xã hội nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ. Cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức cũng đã hình thành đội ngũ doanh nhân tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước”[19]. Trong Chỉ thị của Bộ Chính trị Số 09-CT/TW, ngày 26 tháng 1 năm 2007 Về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII đã nêu ra yêu cầu: “Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, coi trọng tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực và điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, cần có cơ cấu hợp lý về thành phần đại biểu Quốc hội; có tỷ lệ thích đáng là … đại biểu xuất thân từ …doanh nhân tiêu biểu thuộc các thành phần kinh tế”[20].

 

Như vậy, sự hình thành, phát triển của đội ngũ doanh nhân Việt Nam gắn liền với quá trình khôi phục, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ đổi mới với tư cách là chủ thể quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước và cần được chú trọng phát triển.

 

 

2. Vị thế của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

 

Trong những năm gần đây, trên các phương tiện thông tin và bài nghiên cứu đã có những phân tích đánh giá về đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Để xác định rõ vị thế, vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trước hết cần làm rõ khái niệm doanh nhân, đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Trong các bài nghiên cứu đã được công bố, hầu hết các tác giả đều gắn khái niệm doanh nhân với nghề kinh doanh, đồng thời cụ thể hóa đội ngũ doanh nhân Việt Nam gồm các chủ thể là người Việt Nam đang sở hữu, lãnh đạo, quản lý, hoạt động nghiệp vụ kinh doanh trong các đơn vị kinh tế như hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong và ngoài nước[21]. Quan niệm về doanh nhân kể trên nhìn chung có nội hàm rất rộng, chủ yếu xuất phát từ thực tiễn với hàm ý gắn khái niệm doanh nhân với chủ thể của những yếu tố chủ yếu của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, Thực tiễn 35 năm đổi mới cho thấy, khái niệm doanh nhân không những gắn với kinh tế tư nhân cùng các yếu tố liên quan, mà còn phản ánh yếu tố cốt lõi, chủ thể quyết định sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Trên cơ sở quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể xác định doanh nhân là chủ thể chủ yếu của nền kinh tế thị trường. Có nhiều chủ thể tham gia vào phát triển nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, song bằng sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học C.Mác đã bóc tách được chủ thể quan trọng nhất, có tính quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa của, đó là các nhà tư bản. Bằng phân tích logic C.Mác đã chỉ ra rằng, ban đầu chức năng sở hữu, kinh doanh và phân phối được tập trung trong tay chủ thể chủ yếu là nhà tư bản, song quá trình phát triển của kinh tế thị trường dựa trên sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm cho các chức năng đó tách dần ra và có thể cố định tương đối ở các chủ thể khác nhau, làm cho quản lý trở thành nghề riêng biệt. Nhà tư bản có thể chuyển giao chức năng quản lý, giám sát cho “một loại người làm thuê đặc biệt. Giống như một đạo quân, một khối đông công nhân cùng hoạt động dưới sự chỉ huy của cùng một tư bản cũng cần có những sĩ quan công nghiệp (giám đốc, managers) và những hạ sĩ quan (giám thị, foremen, overlookers, conte-maitres), những người này nhân danh tư bản mà chỉ huy trong thời gian quá trình lao động. Công việc giám thị được cố định lại thành một chức năng riêng của những người đó”[22]

 

Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vị thế của các chủ thể quản lý, lao động đều phụ thuộc vào vị thế của nhà tư bản, do đó việc gộp chung vào khái niệm doanh nhân các chủ thể đảm nhận các chức năng khác nhau trong sản xuất kinh doanh sẽ làm mờ đi vị thế, vai trò của đội ngũ này. Tuy nhiên, trong thực tế phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam qua gần 35 năm đổi mới vừa qua nói riêng, nhiều khi không có sự tồn tại hoàn toàn độc lập, tách biệt các chức năng sở hữu, quản lý và lao động ở các chủ thể khác nhau, mà ngược lại được thống nhất trong cùng một chủ thể, do đó gây khó khăn cho việc xác định chủ thể nào thuộc đội ngũ doanh nhân và chủ thể nào không thuộc đội ngũ doanh nhân. Mặc dù vậy, việc xác định chủ thể cốt lõi của kinh tế tư nhân theo xu hướng phát triển vẫn là quan trọng, Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thành phần cốt lõi đó phải là các chủ thể sở hữu tư nhân, có thể đồng thời vừa đảm nhận chức năng sở hữu, vừa đảm nhận chức năng quan lý hoặc tham gia lao động sản xuất kinh doanh trực tiếp. Từ đó có thể xác định doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh mới là chủ thể sở hữu tư nhân về các điều kiện chủ yếu của sản xuất kinh doanh và tham gia vào đầu tư hoặc tổ chức, quản lý kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành, phát triển của doanh nhân Việt Nam đã tạo ra đội ngũ doanh nhân Việt Nam với tư cách là một tầng lớp, nhóm xã hội mới bao gồm các doanh nhân trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau dựa trên phân công lao động gắn với quá trình từ khôi phục nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đến phát triển lên trình độ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.

 

Thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, vị thế của đội ngũ doanh nhân từng bước được thừa nhận và nâng cao cùng với sự khôi phục và phát triển của kinh tế tư nhân nói chung, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân nói riêng. Kinh tế tư nhân được thừa nhận từ Đại hội VI đã không ngừng lớn mạnh và gia tăng sự đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2000-2021, số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 19,83 lần từ 35.004 doanh nghiệp lên 694.181 doanh nghiệp[23], đóng góp của kinh tế tư nhân không tính kinh tế cá thể vào GDP tăng từ 7,31% (chưa tính Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm) năm 2000 lên 9,65% năm 2020[24]; kinh tế ngoài nhà nước đóng góp 50,04% GDP của nước năm 2021[25]

 

Cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân đã được Đại hội IX chính thức khẳng định là “bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[26], được Đại hội X, XI của Đảng coi “là một trong những động lực của nền kinh tế”[27], Đại hội XII, XIII đánh giá “là một động lực quan trọng” [28] của nền kinh tế. Từ đó, có thể khẳng định, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vị thế về kinh tế, chính trị của doanh nhân với tư cách là chủ thể cốt lõi, quan trọng trong kinh tế tư nhân, ngày càng được nâng cao.

 

 

3. Vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

 

Sự hình thành, phát triển và nâng cao vị thế của đội ngũ doanh nhân trong gần 40 năm đổi mới vừa qua có cơ sở từ vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ doanh nhân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế, để chuyển đổi nền kinh tế tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hóa cần có hai điều kiện: phát triển phân công lao động xã hội và từng bước hình thành hệ thống thể chế bảo đảm quyền sở hữu, tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Điều kiện thứ nhất chủ yếu được thực hiện bởi các danh nhân với tư cách là chủ thể kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Điều kiện thứ hai, mặc dù gắn với sự thay đổi vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, song vẫn xuất phát từ yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nhân. Do đó, với tư cách là chủ thể sản xuất kinh doanh, doanh nhân là chủ thể có vai trò quan trọng trong tạo lập và phát triển các điều kiện của nền kinh tế hàng hóa.

 

Theo C.Mác, để phát triển kinh tế hàng hóa thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cần phải tạo lập các điều kiện thúc đẩy cạnh tranh và từng bước tạo lập, phát triển hệ thống thị trường đồng bộ, trong đó đặc biệt quan trọng là thị trường vốn và thị trường lao động. Các điều kiện để thị trường vốn hình thành và phát triển bao gồm: Thứ nhất, kinh doanh phải được tự do, kinh doanh phải nhằm mục tiêu hiệu quả kinh tế, hệ thống tín dụng ngân hàng phát triển, mật độ dân cư đủ lớn; thứ hai, công nhân phải được tự do chuyển từ ngành này sang ngành khác, địa điểm này sang địa điểm khác, không chú trọng nội dung công việc, không kỳ thị nghề nghiệp, mục tiêu làm việc để có thu nhập trang trải cuộc sống, lao động phức tạp được quy thành lao động giản đơn[29]. Những điều kiện trên trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã từng bước được tạo lập và phát triển, một phần trực tiếp bằng các hoạt động của doanh nhân, một phần do Nhà nước thực hiện xuất phát từ yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của đội ngũ doanh nhân. Thực tiễn gần 40 năm đổi mới vừa qua cho thấy, môi trường kinh doanh ở Việt Nam ngày càng được cải thiện theo hướng thuận lợi, bình đẳng cho kinh tế tư nhân nói chung và doanh nhân nói riêng. Doanh nhân, từ chỗ chỉ được tham gia sản xuất quy mô nhỏ đã từng bước được tham gia sản xuất kinh doanh với mọi quy mô, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, trong đó có lĩnh vực ngân hàng, góp phần không những gia tăng sộ lượng chủ thể mà còn thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các quy luật của nền kinh tế thị trường hoạt động và phát huy tác dụng.  Doanh nhân đã từng bước được tiếp cận, sử dụng nhiều nguồn lực trong nền kinh tế thuộc chế độ công hữu. Hệ thống thể chế được hoàn thiện không những, không những đảm bảo cho doanh nhân được bình đẳng, tư do kinh doanh, mà còn bảo vệ thu nhập, tài sản hợp pháp của doanh nhân.

 

Bên cạnh đó, sự lớn mạnh, phát triển của đội ngũ doanh nhân luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm định hướng, hỗ trợ. Kể từ Đại hội X Đảng đã khẳng định phải chú trọng thực hiện chính sách đối với doanh nhân[30], “bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt”[31], “tạo điều kiện phát huy tiềm năng và vai trò tích cực trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và ở nước ngoài; giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hàng hoá Việt Nam”[32], “xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có năng lực và đạo đức kinh doanh, chăm lo đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, có khả năng hội nhập và cạnh tranh thắng lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế”[33]; “phát triển tầng lớp doanh nhân về số lượng và năng lực quản lý, có đạo đức và trách nhiệm xã hội. Tăng cường sự gắn bó mật thiết giữa người lao động và người sử dụng lao động”[34]; “Xây dựng đội ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp có bản lĩnh, thông thạo kinh doanh và có đạo đức nghề nghiệp”[35]. Để “phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước”[36], Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng. Khuyến khích doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội. Tôn vinh, khen thưởng kịp thời, xứng đáng những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[37].

 

Tóm lại, đội ngũ doanh nhân Việt Nam là tầng lớp xã hội mới với tư cách là kết quả tất yếu của quá trình đổi mới, có vị thế, vai trò đặc biệt quan trọng không những trong xây dựng, mà đặc biệt là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân đối với phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới, Đảng, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu những tiềm năng của của đội ngũ doanh nhân, cũng như những vướng mắc mà doanh nhân đang đối mặt trong quá trình hoàn thiện thể chế phát triển, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới.

 

PGS.TS Đoàn Xuân Thủy

Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận TW

 

 

Tài liệu sử dụng:



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr.346

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr.353-354, 356-357

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr.363

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr.376

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr.377, 394

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr. 397

[7] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 49, tr.324

[8] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 49, tr.325; 2007, tập 50, tr.200

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 49, tr.735, 855; 2007, tập 50, tr.200

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tập 51, tr.137

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tập 51, tr.350

[12] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tập 53, tr.41, 211, 421

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tập 53, tr.438

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2015, tập 56, tr.559

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tập 61, tr.244, 247

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tập 62, tr.34

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tập 62, tr.181-182

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tập 62, tr.466, 492-493

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tập 64, tr.43

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 66, tr.115

[21] Ngô Văn Cương (2019), Một số giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ Việt Nam hiện nay, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/mot-so-giai-phap-phat-trien-doi-ngu-doanh-nhan-tre-viet-nam-hien-nay-65491.htm; Nguyễn Anh Tuấn, Dương Hoài An (2017), Vai trò của đội ngũ doanh nhân trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/2479-vai-tro-cua-doi-ngu-doanh-nhan-trong-phat-trien-xa-hoi-va-quan-ly-phat-trien-xa-hoi.html; Võ Văn Lợi (2019), Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/phat-trien-doi-ngu-doanh-nhan-viet-nam-thoi-ky-day-manh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-313441.html; Đỗ Minh Cương (2009), Bàn về khái niệm doanh nhân Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 253-261

[22] C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.482.

[23] https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0506&theme=Doanh%20nghi%E1%BB%87p

[24] Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2005, 2020, Nxb Thống kê, 2006, 2021, tr.64, 200.

[25] https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0304-05&theme=T%C3%A0i%20kho%E1%BA%A3n%20qu%E1%BB%91c%20gia

[26] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tập 60, tr.188

[27] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 65, tr.188; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.74

[28] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.103; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2021, tr.129.

[29] Xem: C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 25, Phần I, tr.299-300

[30] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 65, tr.157

[31] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 65, tr.189

[32] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 65, tr.215

[33] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 67, tr.951

[34] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 68, tr.951

[35] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2018, tập 68, tr.975

[36] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2021, tr.135

[37] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2021, tr.167-168

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết