Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội: Thực trạng, vấn đề và giải pháp (phần 2) ​

Ngày phát hành: 07/04/2022 Lượt xem 3113

                                          

II. Định hướng một số giải pháp chủ yếu

 

1. Những giải pháp khôi phục thị trường lao động, hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh trong và sau tác động của đại dịch Covid

 

Đây là những giải pháp vừa mang tính chất cấp bách trước mặt, song cũng tạo nền móng cho phát triển thị trường lao động ổn định lâu dài. Những giải pháp này phải gắn hữu cơ giữa các giải pháp chống dịch có hiệu quả với các giải pháp phục hồi kinh tế, mà trọng tâm là đưa người lao động trở lại doanh nghiệp làm việc an toàn. Vì vậy, Nhà nước khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành các cơ chế, chính sách và giải pháp, cùng với các cấp chính quyền địa phương và các doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ sau:

i) - Nghiên cứu, hoàn thiện và thực thi các các cơ chế, chính sách về lao động và việc làm trong bối cảnh tác động của đại dịch Covid - 19, phù hợp với từng địa phương, ngành, lĩnh vực, thậm chí doanh nghiệp.

ii) - Nghiên cứu xây dựng chế độ, chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đáp ứng với yêu cầu của bối cảnh cấp thiết hiện nay (chính sách về tiền lương, thu nhập, hỗ trợ nhà ở, nuôi con ăn học, sinh hoạt cộng đồng...); với sự cộng lực của Nhà nước trung ương,  chính quyền địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và sự trợ giúp của xã hội.

iii) - Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ để giảm các gánh nặng về chi phí bất khả kháng đối với các doanh nghiệp (cho sản xuất kinh doanh và cho người lao động, như chính sách sử dụng Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ cho cả người lao động và người sử dụng lao đông) trong điều kiện tác động của đại dịch Covid - 19. Tuy nhiên, cần có sự đánh giá, lực chọn khả năng phục hồi của từng loại, từng đối tượng doanh nghiệp cụ thể để có sự hỗ trợ phù hợp, gắn với nhiệm vụ tái cơ cấu hệ thống doanh nghiệp trong cả nước (đây là một cơ hội).

iv) - Xây dựng hệ thống các chính sách và giải pháp y tế đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người lao động khi trở lại doanh nghiệp làm việc. Thực hiện các mô hình và giải pháp phòng chống dịch Covid - 19 linh hoạt, hiệu quả; bảo vệ và thực hiện các chính sách thỏa đáng đối với lực lượng phòng chống dịch.

v) - Trong chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội 2022 - 2023 của cả nước và từng địa phương cần có chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động tương ứng. Hoàn thiện các chính sách và giải pháp thu hút lao động phù hợp với bối cảnh tác động của đại dịch Covid - 19 ở từng địa phương, lĩnh vực; giúp các doanh nghiệp khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động khi phục hồi sản xuất kinh doanh; đồng thời triển khai các giải pháp đào tạo, nâng cao tay nghề, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động. Nếu chương trình phục hồi kinh tế có hàm chứa nội dung thức đẩy tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp (mà đây là nội dung cần thiết), thì rất cần có chương trình đào tạo lại lực lượng lao động là hệ quả trực tiếp của quá trình tái cơ cấu này, gắn với yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0.

vi) - Đồng thời, Nhà nước phải nghiên cứu và triển khai ngay đồng bộ các cơ chế chính sách để phát triển mạnh nhà ở xã hội, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho lao động nhập cư (và gia đình họ) ở các thành phố và khu công nghiệp; tạo sự di chuyển lao động bền vững trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa; khắc phụ cơ bản tình trạng ăn ở tạm bợ, không ổn định, không an tâm làm việc lâu dài của 80 - 90 % lao động nhập cư hiện nay.

 

2. Xây dựng các chính sách và giải pháp cơ bản, mang tính đột phá cho phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới

 

(1). Cần nhận thức cho đúng yêu cầu về đào tạo đồng bộ đội ngũ nhân lực trong giai đoạn mới

Cần làm cho các cấp, các ngành nhận thức rõ (trên thực tế) vai trò và tầm quan trọng có tính quyết định của đội ngũ nhân lực KHCN, nhất là đội ngũ nhân lực chất lượng cao, trình độ cao đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới - phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào KHCN & ĐMST.

Nhận thức rõ đội ngũ nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH, chuyển đổi mô hình tăng trường sang phát triển theo chiều sâu không chỉ là những người hoạt động trực tiếp trong các lĩnh vực KHCN; mà phải bao gồm đồng bộ các loại nhân lực: nhân lực lãnh đạo - quản lý nhà nước các cấp; nhân lực chuyên gia tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách phát triển, ứng dụng KHCN; nhân lực trực tiếp lãnh đạo - quản lý hoạt động của các đơn vị KHCN & ĐMST; đội ngũ chuyên gia, chuyên viên trực tiếp thực hiện các hoạt động KHCN & ĐMST; đội ngũ nhân lực làm các nhiệm vụ gắn với ứng dụng, phát triển KHCN trong các tổ chức kinh tế, xã hội; đội ngũ nhân viên, công nhân lành nghề, trình độ cao thực hiện các hoạt động ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp, đơn vị (trong đó phải kể đến cả các chủ hộ nông dân ứng dụng công nghệ cao)…Sự đồng bộ của đội ngũ nhân lực này ở mọi cấp độ, mới đảm bảo cho sự phát triển, ứng dụng KHCN & ĐMST thực sự có hiệu quả. Từ thực tiễn đặt ra yêu cầu mới là đào tạo và sử dụng nhân lực đồng bộ theo chuỗi sản xuất kinh doanh, để rút ngắn thời gian đào tạo, nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nhân lực, gắn đào tạo liên tục với quá trình sử dụng.

 

(2). Cần phải quán triệt sâu sắc, đầy đủ hơn tư tưởng chỉ đạo của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục

Trong Văn kiện Đại hội XI (năm 2011) và Nghị quyết số 29 - NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (năm 2013) đã chỉ rõ phải “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo định hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”, nhưng cho đến nay nhiều nội dung vẫn chưa được nghiên cứu cụ thể hóa để có nhận thức sâu sắc và thống nhất, làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế, chính sách và triển khai thực hiện trong thực tiễn.

Dường như đang có “điểm nghẽn” trong tư duy nhìn nhận về phát triển giáo dục gắn với “bệnh thành tích”, “tư duy nhiệm kỳ”, “phát triển theo chiểu rộng”. Chưa quán triệt sâu sắc vì sao Đảng ta đặt ra chủ trương “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” (?). Cần nhận thức sâu sắc rằng việc Đảng ta đưa ra chủ trương “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” có một ý nghĩa mang tính cách mạng, cao hơn cả ý nghĩa “cải cách”, trong đó nêu rõ quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”. Cần nhận thức sâu sắc mục tiêu của “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” là làm thay đổi và nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền giáo dục; xây dựng được một nền giáo dục năng động và sáng tạo, thường xuyên đối thoại với thực tiễn, nhằm đáp ứng với đòi hỏi của sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Trong “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục”, đổi mới mục tiêu giáo dục có ý nghĩa chi phối toàn cục quá trình đổi mới; phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, từ hệ giá trị xã hội, giá trị con người, tiêu chí nguồn nhân lực của giai đoạn mới để xây dựng hệ mục tiêu mới của giáo dục được khái quát ở hai nội dung cơ bản liên quan mật thiết với nhau là phẩm chất con người (nhân cách) và năng lực chuyên môn.

Đổi mới toàn diện nền giáo dục - đào tạo cần được quán triệt là đổi mới đồng bộ về tất cả các mặt, các yếu tố cấu thành hệ thống và các quá trình giáo dục - đào tạo theo hướng hiện đại; đổi mới ở tất cả các cấp, bậc học, các hình thức giáo dục, đào tạo; bao quát đồng bộ các nội dung sau: i)- Đổi mới đồng bộ về nội dung, chương trình và phương thức giáo dục - đào tạo; ii)- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về giáo dục; iii)- Đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục - đào tạo; iv)- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc gia; v)- Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới và nâng cao chế độ đãi ngộ - tôn vinh gắn liền với nâng cao chế độ trách nhiệm xã hội của các nhà giáo; vi)- Đổi mới và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở giáo dục, đào tạo; vii)- Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập; viii)- Xây dựng mô hình nhà trường và phương thức giáo dục dân chủ, hiện đại, thông minh, sáng tạo; hình thành đồng bộ và lành mạnh hóa môi trường giáo dục (môi trường nhà trường, môi trường gia đình và môi trường xã hội); ix)- Đổi mới, chiến lược, cơ chế, chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo.

Cần quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa đồng bộ định hướng đổi mới nền giáo dục “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”. Những nội dung của đổi mới căn bản và toàn diện gắn với định hướng đổi mới cơ bản nêu trên cần phải được nghiên cứu sâu, đồng bộ cả về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trên bình diện chung đối với cả nền giáo dục - cả hệ thống giáo dục, đồng thời phải được cụ thể hóa cho mỗi phân hệ, mỗi cấp bậc học, hình thức giáo dục, thậm chí cho mỗi môn học. Đây là một nhiệm vụ quan trọng.  

 

 

 (3). Xây dựng và thực hiện có hiệu quả cao đột phá chiến lược về phát triển con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao - chủ thể và mục tiêu của quá trình đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Đại hội XI của Đảng xác định một trong ba đột phá chiến lược là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Điều này rất đúng, song đứng trước yêu cầu phát triển có tính bước ngoặt của đất nước trong giai đoạn mới, đột phá này cần được nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn.

Trong Nghị quyết số 29 - NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương của Đảng khóa XI (năm 2013) đã nhấn mạnh mục tiêu “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”. Đồng thời nêu rõ quan điểm “coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học…, dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ tiếp tục “đẩy mạnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh rõ hơn mục tiêu (và cũng là nhiệm vụ) bao trùm của “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” trong giai đoạn mới là “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển con người”.

Cần có quan điểm và cách tiếp cận hệ thống, xuyên suốt về đào tạo - phát triển con người - nguồn lực con người ngay từ tiểu học lên đến tất cả các bậc cao hơn, trong tất cả các loại hình đào tạo. Đặt vấn đề “phát triển con người” thay vì chỉ đề cập “phát triển nguồn nhân lực” là một bước tiến quan trọng trong nhận thức về vai trò, sứ mạng, mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo trong giai đoạn mới. Vấn đề phát triển con người không chỉ được tiếp cận từ giác độ “nguồn nhân lực” - người lao động, mà phải từ giác độ “phát triển con người - chủ thể và mục tiêu của quá trình đổi mới và phát triển đất nước”. Hơn nữa cần nhận thức rõ yêu cầu của giai đoạn mới là phát triển con người - nhân lực là chủ thể của quá trình phát triển đất nước theo chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực. Điều rất quan trọng là đối với các quá trình đổi mới và cải cách rộng lớn trong xã hội, không thể chỉ cần có một số ít những con người tài năng “tồn tại” được qua ý chí kiên định và bản lĩnh vươn lên của cá nhân; mà xã hội cần có những thế hệ, đội ngũ đông đảo những con người đổi mới. Đây phải là “sản phẩm” của một nền giáo dục “nuôi dưỡng” bởi tinh thần dân tộc, khuyến khích tự do sáng tạo gắn với trách nhiệm xã hội. Bởi vì các cuộc đổi mới hay cải cách xã hội sâu rộng thành công, suy cho cùng, bao giờ cũng phải là kết quả của sự đồng thuận cao về tư duy và hành động của những người tiên phong đổi mới, với đội ngũ lãnh đạo - quản lý các cấp (nhất là những người đứng đầu) và với các tầng lớp xã hội liên quan.

Vì thế, đào tạo, phát triển con người - nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao, làm chủ thể chủ đạo cho sự phát triển nhanh - bền vững đất nước, nhất là trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc, với sự thay đổi và phát triển của các lĩnh vực trên thế giới diễn ra nhanh, đột biến là một nhiệm vụ chiến lược rất hệ trọng. Vì vậy có thể nói phát triển con người - phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao là đột phá của các đột phá.

Đối với nước ta, do những điều kiện cụ thể, việc phát triển con người - phát triển nguồn nhân lực cho giai đoạn mới cần nhận thức rõ các đặc điểm sau:

- Phát triển con người - phát triển nguồn nhân lực phải “vượt lên trước một bước”, định hướng vào đáp ứng yêu cầu chuyển sang phát triển theo chiều sâu của đất nước. Có nghĩa là giáo dục phải tạo được mức “thặng dư” nhất định về nhân tố con người - nguồn nhân lực (về trình độ và đội ngũ) cho sự phát triển theo chiều sâu trong tất cả các lĩnh vực. Chỉ có như vậy mới thực hiện thành công chiến lược phát triển “đi tắt đón đầu”, “bắt kịp”, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo “con đường rút ngắn”, đi vào phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số.

- Do trình độ phát triển của các vùng, các lĩnh vực trong đất nước không đều nhau; trong một thời gian còn dài vẫn còn cần phải kết hợp có hiệu quả phát triển theo chiều sâu với phát triển theo chiều rộng ở những lĩnh vực và mức độ cần thiết. Vì vậy phát triển con người - phát triển nguồn nhân lực phải phải mang tính thực tiễn, đáp ứng có hiệu quả sự đa tầng của trình độ phát triển đó trong mỗi giai đoạn cụ thể, lĩnh vực cụ thể.

- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, việc phát triển con người - phát triển nguồn nhân lực phải kết hợp hữu cơ giữa phát huy các giá trị của dân tộc với hướng tới những giá trị, chuẩn mực và tiêu chí chung của nhân loại - mang tính toàn cầu và thích ứng với môi trường phát triển đa văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế.

- Nội dung và mục tiêu phát triển con người - phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta phải xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển nhanh - bền vững của đất nước trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó mà xác định mục tiêu - tiêu chí - các chuẩn giáo dục và đào tạo, nhằm tạo ra nguồn lực con người với phẩm chất tổng hợp về nhân cách (tâm lực), tri thức (trí lực), thể lực và năng lực thực hành. Có thể khái quát những giá trị cơ bản, cốt lõi về phát triển con người - nguồn nhân lực mà nền giáo dục cần tập trung đào tạo trong giai đoan mới là: i) - Nhân cách, đạo đức, lối sống; trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân, đề cao dân chủ gắn với ý thức thượng tôn pháp luật; ý thức dân tộc, khát vọng cống hiến chấn hưng đất nước; ii) - Năng lực đổi mới, sáng tạo, tự chủ, làm chủ, vượt qua thách thức; iii) - Tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thức tư; iv) - Năng lực thực hành sáng tạo, hiệu quả; v) - Kỹ năng sống, năng lực liên kết, hợp tác, hoạt động cộng đồng và hội nhập… Những giá trị cốt lõi đó cần phải được cụ thể hóa thành các tiêu chí, nội dung, chương trình giáo dục phù hợp đối với từng cấp, bậc giáo dục, từng loại hình giáo dục, từng đối tượng giáo dục. Đặc biệt chú trọng giáo dục “làm người” ngay từ bậc tiểu học, làm cơ sở hình thành nhân cách bền vững cho các bước phát triển con người tiếp theo, trở thành chủ nhân của quá trình phát triển nhanh - bền vững đất nước, như văn kiện của Đại hội Đảng đã nhấn mạnh.  

- Khi đi vào phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, những tiêu chí trên đều đòi hỏi ở trình độ cao và sự đồng bộ giữa các tiêu chí; song tiêu chí về tư duy và năng lực sáng tạo - đổi mới, tiêu chí về năng lực nghiên cứu - ứng dụng - triển khai, tiêu chí về năng lực gắn nghiên cứu với sản xuất và tổ chức sản xuất, với năng lực kinh doanh được đặc biệt chú trọng. Vì vậy, phải gắn chặt chẽ đổi mới giáo dục với đổi mới căn bản mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức đào tạo các loại nguồn nhân lực (từ người lao động đến các nhà lãnh đạo - quản lý các cấp). Đây  là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết.

- Cần đổi mới tư duy chiến lược về phát triển nguồn nhân lực, để xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một bộ phận hợp thành hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh - bền vững đất nước. Trên cơ sở đó xây dựng Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của các ngành, lĩnh vực, địa phương; chú trọng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ đạo, mũi nhọn, ứng dụng công nghệ cao, số hóa; đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Để làm được điều này, cần phải thực hiện một cách khoa học dự báo phát triển nguồn nhân lực ở tầm quốc gia cũng như ở cấp độ ngành, lĩnh vực, địa phương trong ngắn hoạn, trung hạn và dài hạn; gắn liền với đó là các cơ chế, chính sách điều tiết đào tạo của Nhà nước đáp ứng với đòi hỏi của quá trình thay đổi nhanh, đột biến của sự thay đổi cơ cấu phát triển kinh tế - xã hội.

Với bối cảnh và những yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, việc xây dựng thực hiện đột phá “Phát triển con người - nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao” là “đột phá của các đột phá”, theo nghĩa đó là chủ thể quyết định việc xây dựng và thực thi có hiệu quả tất cả các đột phá chiến lược khác, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới.

 

(4). Triển khai xây dựng và thực hiện có hiệu quả Đề án tổng thể về “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo định hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”.

Qua tám năm thực hiện Nghị quyết số 29 - NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương của Đảng khóa XI (năm 2013), cho thấy, để đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả cao sự nghiệp “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” trong giai đoạn mới, cần phải xây dựng và triển khai thực hiện Đề án tổng thể mang tính chiến lược dài hạn (5-10 năm) về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục; trên cơ sở đó xây dựng các Đề án thành phần (về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông; về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nghề nghiệp; về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, và các Đề án thành phần khác); với lộ trình và bước đi cụ thể. Các Đề án đó phải quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng chỉ đạo “đổi mới căn bản, toàn diện” theo định hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”, được cụ thể hóa phù hợp với từng cấp, bậc và loại hình giáo dục, đào tạo; hướng vào mục tiêu cốt lõi, bao trùm là nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo con người cả về phẩm chất và kỹ năng, “chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”[1], như Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh.

 

(5). Xây dựng - hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả thể chế phát triển giáo dục - đào tạo

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”[2]. Điều đó cho thấy, đề triển khai thực hiện có hiệu quả cao sự nghiệp “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” trong giai đoạn mới, cần phải xây dựng đồng bộ thể chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế (bao gồm khung pháp lý, cơ chế, chính sách…), trong đó chế định rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm giải trình của tất các các chủ thể liên quan là Nhà nước (các cơ quan nhà nước), các cơ sở giáo dục, giáo viên, người học, gia đình, doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các tổ chức xã hội và toàn thể xã hội. Trong đó tập trung cao cho đổi mới quản lý nhà nước, quản trị giáo dục, hoàn thiện cơ chế tự chủ phù hợp đối với các loại hình cơ sở giáo dục. Trong thể chế phát triển giáo dục cũng cần phải chế định rõ mối quan hệ có tính đặc thù giữa Nhà nước - thị trường - xã hội trong phát triển giáo dục; chế định rõ cơ chế thực hiện giáo dục với tính cách là quyền và phúc lợi xã hội, chính sách xã hội đổi với mọi người học, và giáo dục với tính cách là một dịch vụ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo đúng các quan điểm, chủ trương cuả Đảng và Nhà nước. Toàn bộ thể chế phát triển giáo dục trong giai đoạn mới phải hướng vào nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển con người - chủ thể của Chiến lược và Thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước; “phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế”[3], như Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

(Hết)

PGS.TS Trần Quốc Toản



             [1] Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr. 136-137; NXB Chính trị quốc gia, Hà nội - 2021

             [2] Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr. 138; NXB Chính trị quốc gia, Hà nội - 2021

            [3] Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr. 140; NXB Chính trị quốc gia, Hà nội - 2021

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết